Sách thứ năm Người Khabiri
❖ 1 ❖
Bây giờ tôi phải kể về Syria và những thành phố tôi đã đi qua. Tôi nghĩ cách tốt nhất là kể ngay những thứ có ở xứ đất đỏ, những điều xảy ra ở đó hoàn toàn trái ngược với ở xứ đất đen. Ở đó không có sông, chỉ có suối đổ ào từ trời xuống mặt đất và tưới cho đất. Cạnh mỗi thung lũng là một ngọn núi, sau núi lại có một thung lũng; mỗi dân tộc sinh sống trong từng thung lũng do một hoàng thân tự trị và nộp thuế cho pharaon, ít nhất là đã nộp cho đến thời điểm tôi kể. Họ nói các ngôn ngữ và phương ngữ khác nhau; những người sống ven biển kiếm kế sinh nhai từ biển bằng công việc đánh cá hay buôn bán, còn những người ở sâu trong đất liền sống bằng nghề trồng trọt và cướp bóc của nhau mà việc này thì quân đồn trú Ai Cập không thể ngăn chặn. Họ mặc quần áo bằng vải bông nhiều màu được dệt rất tinh xảo và che kín cơ thể từ đầu đến chân, tôi nghĩ vì xứ của họ lạnh hơn Ai Cập nhưng cũng còn vì họ thấy xấu hổ khi phô bày cơ thể, trừ khi đại tiểu tiện ngoài trời, điều mà người Ai Cập coi là kinh khủng. Họ cũng để tóc dài, để râu và ăn uống trong nhà; mỗi thành phố có những vị thần riêng và họ phải hiến tế người cho các thần này. Khi tôi kể ra tất cả những điều này, ai cũng cần phải hiểu rằng mọi điều ở xứ đất đỏ đều khác với ở Ai Cập, nhưng tại sao lại thế, tôi không thể nói, bởi vì tôi không biết.
Vì thế ai cũng hiểu những quý tộc Ai Cập được cử đến làm công sứ ở các thành phố Syria vào thời gian đó để giám sát các khoản thuế nộp cho pharaon và trấn thủ các đồn trú coi nhiệm vụ của họ như một hình phạt hơn là vinh dự và chỉ mong trở lại với bờ bãi, đất đai bên sông Nile, trừ một số mềm yếu, dễ bị những điều mới lạ cám dỗ nên đã thay đổi trang phục cũng như suy nghĩ và bắt đầu thờ cúng các vị thần xa lạ. Những phong tục kỳ lạ, những mánh lới và việc trốn thuế liên tục của người Syria cũng như xung đột giữa các hoàng thân đã khiến cho cuộc sống của các công sứ Ai Cập trở nên khó khăn. Tuy nhiên, cũng có đền thờ Amon ở Simyra và khu kiều dân Ai Cập, nơi họ tổ chức tiệc tùng và giao lưu mà không can thiệp vào cuộc sống của người Syria, để giữ tập quán riêng và hình dung theo cách tốt nhất là mình đang ở Ai Cập.
Tôi sống ở Simyra hai năm và trong thời gian này tôi đã học tiếng nói và chữ viết của người Babylon, vì người ta nói với tôi rằng ai biết được hai điều này, người đó sẽ đến được tất cả những nơi danh tiếng trên thế giới và ở mỗi nơi đều khiến những người có học hiểu được mình. Chữ viết Babylon được viết trên bảng đất sét bằng cách ấn que viết sắc nhọn xuống như mọi người đều biết, và tất cả thư từ trao đổi giữa các vị vua được thực hiện theo cách này. Nhưng tại sao lại như thế, tôi không thể nói; giấy có thể cháy, còn bảng đất sét sẽ tồn tại mãi mãi để kể lại rằng các quốc vương đã nhanh chóng quên các liên minh và hiệp ước thiêng liêng của họ đến thế nào.
Khi nói ở Syria mọi việc khác ở Ai Cập, tôi cũng muốn kể thêm là ở Syria thầy thuốc thường phải tự tìm bệnh nhân chứ bệnh nhân không tìm thầy thuốc và khi bị ốm, người ta đón thầy thuốc về nhà, vì họ nghĩ rằng thần của họ gửi thầy thuốc đó đến nhà mình. Họ cũng tặng quà cho thầy thuốc trước thay vì sau khi lành bệnh, điều này có lợi cho thầy thuốc vì người bệnh thường quên ngay sự biết ơn sau khi lành bệnh. Cũng có thông lệ là giới quyền quý và người giàu sang thường có thầy thuốc riêng, nhưng họ không tặng quà cho thầy thuốc khi bị bệnh mà chỉ tặng khi họ khỏe mạnh hoặc sau khi được chữa lành.
Tôi có ý định bắt đầu lẳng lặng hành nghề y ở Simyra, nhưng Kaptah bảo: “Không được”. Ông ta muốn tôi dùng hết tiền bạc để mua những bộ quần áo đẹp và thuê nhiều người loan tin, quảng bá danh tiếng của tôi nơi có đông người tụ tập trong thành phố. Người loan tin cũng phải nói là tôi không tìm kiếm người bệnh mà người bệnh phải tìm đến tôi, và Kaptah thậm chí còn không cho tôi thăm bệnh bất kỳ ai nếu họ không tặng cho tôi ít nhất là một mẩu vàng làm quà. Tôi bảo ông ấy điều này thật điên rồ trong một thành phố mà không ai biết đến khả năng của tôi và mọi tập quán đều khác so với xứ đất đen. Nhưng Kaptah vẫn giữ nguyên ý mình và tôi không thể làm gì, bởi một khi đã nảy ra ý gì thì ông ấy gàn bướng như một con lừa.
Ông ấy cũng thuyết phục tôi tìm đến các danh y tốt nhất ở Simyra và nói với họ: “Tôi là Sinuhe, thầy thuốc Ai Cập, người được Pharaon mới lên ngôi đặt cho tên Người Cô Đơn và là danh y rất có uy tín trong nước. Tôi làm người chết sống lại và làm người mù sáng mắt nếu thần linh của tôi muốn vậy, vì tôi mang theo vị thần tuy nhỏ nhưng linh thiêng trong tráp của mình. Tất nhiên, kiến thức ở mọi lĩnh vực đều không giống nhau và các chứng bệnh cũng có nhiều loại khác nhau. Vì vậy, tôi đến thành phố các ngài để nghiên cứu các căn bệnh, chữa trị chúng, đồng thời tiếp thu kiến thức và tài năng của quý vị. Tôi hoàn toàn không muốn gây phiền toái cho quý vị trong nghề nghiệp hợp pháp của quý vị, vì tôi là ai mà cạnh tranh với quý vị chứ. Vàng cũng như cát bụi dưới chân tôi, do đó tôi đề nghị quý vị hãy gửi cho tôi những bệnh nhân mà thần linh của quý vị vì nổi giận đã khiến quý vị không thể chữa lành cho họ, nhất là những bệnh nhân cần đến dao trong khi quý vị không dùng dao, để tôi có thể khám cho họ, xem thần của tôi có chữa lành cho họ được không. Nếu một bệnh nhân như vậy được chữa lành, tôi sẽ tặng quý vị một nửa món quà mà người đó tặng tôi, vì tôi thật sự không đến đây vì vàng mà vì kiến thức. Nhưng nếu người đó không thể khỏi bệnh, tôi cũng không muốn nhận quà từ họ mà sẽ trả người đó cùng với quà cáp về nhà quý vị”.
Các danh y Simyra mà tôi gặp trên đường phố cũng như trong chợ và nói như thế khi họ đang đi tìm bệnh nhân, đã vung vẩy vạt áo dài, gãi râu và nói với tôi: “Anh còn rất trẻ nhưng chắc thần của anh đã ban cho anh sự thông thái, vì lời nói của anh rất thuận tai chúng tôi. Nhất là về vàng và quà tặng, anh đã nói rất khôn khéo. Điều anh nói về việc dùng dao cũng hợp ý chúng tôi vì khi điều trị bệnh, chúng tôi không bao giờ dùng dao, bởi có những bệnh nhân nếu động dao vào thì khả năng chết cao hơn là không dùng dao. Chỉ có một việc chúng tôi đề nghị anh, đó là không chữa trị cho bất cứ ai bằng ma thuật, bởi ma thuật riêng của chúng tôi rất mạnh và có quá nhiều cạnh tranh trong lĩnh vực này ở Simyra và các thành phố ven biển khác”.
Điều họ nói về ma thuật là đúng, vì có rất nhiều người không học hành và cũng không biết viết lang thang trên đường phố nhưng lại hứa hẹn chữa lành bệnh bằng phép thuật; họ sống nhiều ngày phè phỡn trong nhà của những người cả tin cho đến khi bệnh nhân của họ hoặc được chữa lành hoặc chết. Ở đây cũng khác với ở Ai Cập, vì như mọi người đều biết, phép thuật ở Ai Cập chỉ được làm trong đền thờ và được các giáo sĩ bậc cao thực hành, do vậy tất cả những người khác phải làm phép thuật trong bí mật và họ cũng sợ bị trừng phạt.
Kết quả của việc làm này là những bệnh nhân mà người khác không thể chữa trị đến gặp tôi và tôi đã chữa lành cho họ, còn những ai tôi không thể chữa khỏi, tôi gửi họ lại cho các danh y Simyra. Tôi lấy lửa thiêng từ đền Amon về nhà để có thể tẩy trùng theo quy định; tôi cũng dám dùng dao mổ và thực hiện các ca phẫu thuật làm các thầy thuốc Simyra vô cùng kinh ngạc, gãi gãi chòm râu. Tôi cũng may mắn chữa cho một người mù nhìn lại được, dù mắt anh ta trước đó đã được cả thầy thuốc và phù thủy dùng nước bọt trộn với đất sét xoa vào mà không lành, còn tôi dùng kim chữa cho anh ta theo cách ở Ai Cập và tôi đã có được danh tiếng sau lần chữa này mặc dù sau một thời gian, người bệnh bị mù trở lại vì sự hồi phục thị lực này không kéo dài được lâu.
Các thương nhân và người giàu Simyra sống rất lười biếng và xa xỉ. Họ béo hơn người Ai Cập, thường mắc chứng khó thở và bệnh đường ruột. Tôi dùng dao chữa cho họ khiến máu chảy xối ra như máu lợn. Khi tủ thuốc của mình dần cạn, tôi tận dụng lợi thế đã học là cách thu hái thảo dược theo đúng thời vụ dựa theo trăng và sao, bởi các lương y Simyra hiểu biết ít ỏi trong việc này nên tôi không thể tin tưởng vào thuốc của họ. Tôi cho người béo các loại thuốc làm thuyên giảm những căn bệnh tiêu hóa của họ, ngăn ngừa chứng khó thở và bán thuốc cho người bệnh với mức giá đắt hay rẻ tùy theo gia tài của họ; tôi cũng không xích mích với ai mà còn tặng quà cho các thầy thuốc lẫn các quan viên trong thành phố; Kaptah làm cho danh tiếng của tôi lan xa, gọi người ăn xin và kể chuyện rong vào ăn trong nhà tôi để họ quảng bá danh tiếng của tôi trên đường phố và ngoài chợ cho tên tôi khỏi bị lãng quên.
Tôi đã kiếm được rất nhiều vàng và những gì không dùng đến hoặc không làm quà tặng, tôi đầu tư vào các thương điếm của Simyra, những nơi thường cho thuyền đến Ai Cập, các đảo trên biển và xứ Hatti, nên tôi có cổ phần ở nhiều thuyền, khi một phần trăm, lúc năm phần trăm tùy theo cổ phần của tôi. Có những thuyền không bao giờ trở lại, còn hầu hết đều trở lại và số vàng của tôi được tăng lên hai, ba lần trong tài sản của hãng buôn. Đây là cách của người Simyra và không được biết đến ở Ai Cập, cả người nghèo cũng đầu tư và làm giàu theo cách này, nếu không còn nghèo khó hơn, mười hay hai mươi người nghèo cùng nhau góp đồng để có thể mua một phần ngàn cổ phần của thuyền và hàng hóa trên thuyền. Với cách này tôi không phải giữ vàng trong nhà để thu hút lũ trộm cướp mà tất cả vàng của tôi đều nằm trong sổ sách của các thương điếm và khi tôi đi đến các thành phố khác như Byblake và Sidon để khám và chữa bệnh, tôi không cần mang vàng theo mà tôi nhận một bảng đất sét từ thương điếm và xuất trình nó để nhận vàng khi đến văn phòng của họ ở Byblos và Sidon, khi tôi cần và muốn mua thứ gì đó đặc biệt. Nhưng thường thì tôi không cần làm thế vì tôi nhận được vàng từ những người bệnh mà tôi chữa khỏi và từ những người được gửi đến chỗ tôi, thầy thuốc đến từ Simyra, sau khi mất niềm tin vào các thầy thuốc của chính thành phố của họ.
Bằng cách này, tôi trở nên khá giả và tài sản được tích lũy, Kaptah có da có thịt và mặc quần áo đắt tiền, xức dầu thơm, kem tốt và kiêu căng cả với tôi cho đến khi tôi đánh cho mấy gậy. Nhưng do đâu tôi thành công như vậy, tôi không thể nói. Tôi còn trẻ và tin vào khả năng của mình; tay tôi không run rẩy khi cầm dao; và tôi đã liều chữa cho nhiều bệnh nhân vì tôi nghĩ mình không có gì để mất. Tôi cũng không khinh thường khả năng của người Syria mà sử dụng thuốc hay cách chữa của họ nếu thấy tốt, nhất là khi thấy họ khéo léo dùng sắt nung đỏ thay dao, mặc dù cách này gây đau đớn hơn cho bệnh nhân. Có lẽ tôi thành công là nhờ bọ hung linh thiêng mà Kaptah tôn kính như một vị thần, nên tôi đã đặt làm cho nó một phòng ở bằng vàng và bạc, còn Kaptah nhặt phân bò tươi cúng cho nó hằng ngày để nó có thể xoắn đẩy những quả bóng phân như bọ hung thường làm, mặc dù tôi không bao giờ nhìn thấy nó xoa tròn cái gì. Tôi không biết chắc liệu thành công của mình có phải nhờ bọ hung hay không nhưng cẩn tắc vô áy náy, tôi đối xử tốt với nó và cho Kaptah phục vụ nó, để ông ấy bắt đầu nghĩ mình là một giáo sĩ chứ không phải là người hầu nữa.
Nhưng tôi đã thành công rất nhiều vì không ghen tị hay cạnh tranh với ai mà vui lòng chia sẻ quà cáp với những người khác và nhận chữa những bệnh nhân mà người khác không muốn chữa trị vì với tôi, kiến thức quan trọng hơn vàng. Vì khi đã có đủ vàng để sống tốt và tương xứng với danh giá của mình, kiến thức càng quan trọng với tôi hơn bao giờ hết, nên đôi khi tôi cũng chữa trị cho cả người nghèo để tìm hiểu về những căn bệnh của họ. Đôi khi tôi cũng có bệnh nhân bị chết và tài năng của tôi không đủ để chữa lành mọi bệnh nhân, nhưng không vì thế mà tôi bị quy tội, mặc dù thầy thuốc thường sẽ mất danh tiếng nếu bệnh nhân của anh ta chết. Người ta nói về các bệnh nhân chết sau khi được tôi chữa trị: “Thần Baal của anh ta muốn như vậy, vì ngay cả Sinuhe, Người Ai Cập cũng không thể chữa lành cho anh ta”. Ở Simyra tiếng tăm của tôi lớn như thế đấy.
❖ 2 ❖Nhưng tôi vẫn cô đơn và cuộc sống không mang lại cho tôi niềm vui. Tôi cũng chán rượu, vì nó không làm tôi vui mà chỉ làm mặt tôi đen như bồ hóng, đến nỗi tôi muốn chết sau khi uống rượu. Đó là lý do tôi trau dồi kiến thức, học ngôn ngữ và văn tự của Babylon, đến nỗi tôi không có bất kỳ khoảnh khắc rỗi rãi nào trong ngày và đêm đến, tôi ngủ ngon giấc. Bởi vì nếu không làm gì, tim tôi sẽ sưng lên và sẽ bị nỗi buồn chua chát hơn kiềm gặm nhắm vì những việc làm của mình.
Tôi cũng tìm hiểu các vị thần Syria để xem họ có điều gì nói cho tôi không. Như những việc khác, các vị thần ở Simyra cũng khác với ở Ai Cập. Vị thần lớn của họ, thần Baal ở Simyra, là một vị thần độc ác khi đòi các giáo sĩ của ngài tự thiến mình và phải có máu người thì mới chịu làm điều tốt cho thành phố. Ngay cả biển cũng đòi họ đồ hiến tế, mà Baal đòi cả trẻ nhỏ, khiến các thương nhân và quan lại Simyra luôn bằng mọi cách tìm vật hiến tế. Vì vậy, không thể tìm thấy ở Simyra một nô lệ tật nguyền nào và người nghèo bị đe dọa với những hình phạt tàn ác chỉ vì những tội rất nhỏ, ví như một người đàn ông đã bị tùng xẻo làm vật hiến tế trên bàn thờ Baal vì đi trộm cá để nuôi gia đình. Trong khi đó, một người đàn ông lừa gạt người khác bằng cách cân điêu hay pha bạc với vàng không những không bị trừng phạt mà còn được tiếng là thương nhân tốt bụng, vì người ở đó nói: “Con người sinh ra để bị lừa dối”. Vì thế các thủy thủ và thuyền trưởng của họ cũng bắt cóc trẻ em từ Ai Cập và các xứ dọc theo bờ biển để hiến tế cho thần Baal và điều đó được tính là chiến công lớn của họ.
Nữ thần của họ là Astarte, còn được gọi là Ishtar, như Ishtar ở Nineveh. Thần có nhiều vú, hằng ngày được khoác lên những bộ xiêm áo mỏng tang và nhiều đồ trang sức, được những người đàn bà vì lý do nào đó được gọi là trinh nữ của đền phục vụ, dù họ hoàn toàn không phải là trinh nữ. Mà ngược lại, công việc của họ trong đền là tiêu khiển đàn ông, việc được coi là mang lại điều tốt lành cho thần, càng tốt lành hơn nếu khách hiến tặng cho đền nhiều vàng và bạc. Vì thế những người này tranh nhau làm hài lòng đàn ông bằng nhiều cách khác nhau và ngay từ thời thơ ấu, họ đã được dạy nhiều cách mua vui khác nhau cho đàn ông để đàn ông tìm đến họ và vì họ mà cúng cho Astarte rất nhiều vàng. Cả việc này cũng không giống ở Ai Cập, vui vẻ với đàn bà trong khu vực đền thờ bị xem là một tội lỗi lớn, đến mức ai đó nếu bị phát hiện sẽ bị đày đến các khu mỏ và đền thờ phải được tẩy rửa.
Nhưng thương gia Simyra canh giữ người phụ nữ của mình rất nghiêm ngặt, họ bị nhốt ở nhà và phải mặc kín từ đầu đến chân trong xiêm áo dày cộm để vẻ ngoài của họ không thu hút đàn ông lạ. Tuy nhiên, chính các thương gia lại đi đến đền thờ để tìm của lạ và làm hài lòng thần của mình. Vì vậy ở Simyra không có nhà vui như ở Ai Cập, còn nếu ai không hài lòng với trinh nữ của đền, người đó phải lấy vợ cho mình hoặc mua một nô tỳ ngoài chợ để vui thú với cô ta. Mỗi ngày có nhiều nô lệ được bán vì thuyền cập cảng Simyra liên tục, với đủ màu da và vóc dáng, béo phì và gầy nhom, trẻ em và thiếu nữ, đáp ứng những mục đích và ham muốn khác nhau. Nhưng quan lại của thành phố đã mua các nô lệ tật nguyền với giá rẻ để hiến tế cho Baal và khi làm việc đó, họ mỉm cười, vỗ ngực và nghĩ mình ranh mãnh lừa dối được thần linh. Còn nếu nô lệ quá già và không có răng, không có chân hoặc ốm chờ chết thì họ buộc vải bịt mắt thần linh để thần không nhìn thấy một khuyết tật nào ở kẻ bị hiến tế mà thích thú khi mũi ngửi thấy mùi máu của người đó chảy ra vì sự sùng kính dành cho mình.
Tôi cũng đã hiến tế cho Baal vì đây là vị thần của thành phố và giữ quan hệ tốt với thần này là an toàn nhất. Nhưng là người Ai Cập, tôi không mua người để hiến cho thần mà hiến vàng. Thỉnh thoảng tôi cũng đến đền thờ Astarte, thường được mở vào buổi tối, nghe nhạc của họ và nhìn những người mà tôi không muốn gọi là trinh nữ nhảy những điệu nhảy khêu gợi để tôn vinh nữ thần của họ. Và bởi đó là tập tục nên tôi ân ái cùng họ và thật sự kinh ngạc khi họ dạy tôi tất cả những điều mà tôi không biết. Nhưng lòng tôi không vui cùng họ mà tôi chỉ làm vì tò mò và khi họ dạy tôi những gì họ có, tôi thấy quá ngán nên không đến đền thờ của họ nữa và nghĩ không có gì đơn điệu như những kỹ năng của họ.
Nhưng Kaptah lo lắng về tôi và thường lắc đầu khi nhìn tôi, thấy mặt tôi già đi, nếp nhăn nơi khóe mắt hằn sâu hơn và trông tôi rầu rĩ. Vì vậy ông ấy muốn tôi mua cho mình một nô tỳ để giải khuây khi có thời gian, vì tôi không thể lấy một người nước ngoài làm vợ và cũng không thể lui tới khu kiều dân Ai Cập nên không vui vẻ được với những phụ nữ có chồng đi xa nhà hay đang đóng tại các đồn trú trong đất liền. Vì là quản gia và giữ vàng của tôi, một hôm Kaptah mua cho tôi một nô lệ theo thị hiếu của ông rồi tắm rửa, vận trang phục, xức dầu cho cô ta và đưa cô ta đến chỗ tôi vào buổi tối khi tôi muốn nghỉ ngơi sau một ngày mệt mỏi với việc chữa bệnh.
Cô gái này đến từ một hải đảo, làn da trắng, hàm răng hoàn hảo, không quá gầy, đôi mắt tròn và dịu dàng như mắt của một con bê non. Cô ta cung kính nhìn tôi, đầy vẻ sợ thành phố xa lạ mà cô bị đưa đến. Kaptah giới thiệu cô ta với tôi và hào hứng nói về vẻ đẹp của cô ta, nên tôi cố gắng vui vẻ cùng cô ta để làm vui lòng ông ấy. Nhưng dù tôi đã cố hết sức để đỡ cô đơn, tôi không thấy hạnh phúc với cô ta và không thể nói lời yêu đương với cô như với một người tình.
Nhưng tôi đã sai lầm khi tỏ ra thân thiện với cô ta, vì cô ta ngày càng trở nên kiêu ngạo và làm phiền tôi rất nhiều trong khi tôi khám chữa cho bệnh nhân. Cô ta ăn nhiều, mập ra và liên tục đòi hỏi các loại đồ trang sức lẫn xiêm áo mới, lại luôn lẽo đẽo theo sau, nhìn tôi vẻ quyến rũ và thường xuyên muốn vui thú với tôi. Tôi đã thử vắng nhà, đi đến nhiều nơi trong vùng hay các thị trấn ven biển nhưng điều đó chẳng giúp ích được gì bởi vì khi trở về nhà, cô ta là người đầu tiên đón tôi, khóc vì vui sướng khi nhìn thấy tôi rồi lại lẽo đẽo theo tôi để tôi có thể vui vẻ cùng. Dù tôi giận dữ lấy gậy đánh cô ta cũng vô ích, vì như vậy càng khiến cô ta hào hứng và thán phục sức mạnh của tôi hơn, khi ấy cuộc sống trong nhà tôi sẽ trở nên không thể chịu nổi. Cuối cùng, tôi muốn giao cô ta cho Kaptah vì ông ấy là người chọn cô ta theo sở thích của mình, để ông ấy mua vui cùng cô ta và tôi sẽ được yên thân nhưng cô ta cắn, đá Kaptah và chửi rủa ông ấy vừa bằng tiếng Simyra, một số từ cô ta vừa học được, lẫn tiếng của dân đảo mà cả hai chúng tôi đều không hiểu. Dù cả hai chúng tôi đều lấy gậy quật cô ta thì cũng vô ích, vì như vậy cô ta lại càng thích vui thú cùng tôi hơn.
Nhưng bọ hung đã đem may mắn đến cho tôi, vì một hôm quốc vương của Amori, một xứ nằm sâu trong đất liền, tên là Aziru, đã nghe danh tiếng tôi và tìm đến tôi để chữa bệnh. Tôi khám răng ngài và làm cho ngài một chiếc răng mới bằng ngà voi thay cho cái bị mất trong trận chiến với xứ láng giềng và mạ vàng những chiếc răng hỏng. Tôi đã làm tất cả với khả năng tốt nhất của mình. Aziru lưu lại Simyra để họp bàn với hội đồng thành phố về các vấn đề giữa Amori và Simyra, hằng ngày ghé thăm tôi. Nhờ thế ngài đã thấy nô tỳ của tôi, người tôi đặt tên là Keftiu vì tôi không biết tên ngoại đạo của cô ta, và ngài rất thích cô này. Aziru trắng trẻo và khỏe như bò mộng. Râu của ngài xanh đen và sáng bóng, mắt ngài có cái nhìn sắc sảo và lanh lợi khiến Keftiu bắt đầu nhìn ngài một cách thèm thuồng, vì đàn bà quan tâm đến tất cả những người lạ. Ngài đặc biệt thích cơ thể mập mạp của Keftiu mặc dù cô ta vẫn còn trẻ và bộ xiêm áo theo thời trang Hy Lạp của Keftiu càng kích động quốc vương hơn, vì nó che kín cổ nhưng lại để lộ ngực và ngài đã quen với việc nhìn đàn bà che kín từ đầu đến chân. Cuối cùng không thể cưỡng lại ham muốn của mình, ngài bắt đầu thở dốc nặng nề và nói với tôi:
- Tôi là bạn của anh, Sinuhe, Người Ai Cập. Anh đã trồng răng mới cho tôi và làm cho miệng tôi lấp lánh ánh vàng khi há ra nên danh tiếng của tôi sẽ rất lớn ở xứ Amori. Vì những việc này, tôi sẽ tặng anh những món quà quý giá khiến anh phải giơ tay lên vì kinh ngạc. Song tôi lại buộc phải làm tổn thương anh dù tôi không muốn, vì ngay khi thấy cô gái sống trong nhà anh, tôi đã thích cô ấy đến mức không thể ngăn nổi ham muốn của mình, vì ham muốn đó như một con mèo hoang cấu xé tôi mà không kỹ năng nào của anh có thể chữa lành được. Ham muốn của tôi với người đàn bà này mạnh đến nỗi tôi coi đó là một căn bệnh. Tôi chưa bao giờ thấy một ai như nàng và tôi hiểu anh yêu nàng lắm khi đêm đêm nàng sưởi ấm anh trên giường. Dù vậy tôi vẫn xin anh cho nàng về làm phi của tôi cạnh những phi tần khác để nàng không còn là nô lệ nữa. Tôi nói thẳng tất cả điều này với anh vì tôi là bạn của anh và là một người đàn ông trọng danh dự, tôi sẽ mua nàng với bất cứ giá nào mà anh đưa ra. Nhưng tôi cũng nói thẳng rằng nếu anh không vui lòng nhượng lại nàng cho tôi, tôi sẽ cướp nàng bằng vũ lực và đưa nàng về vương quốc của tôi, nơi anh sẽ không bao giờ tìm được nàng cho dù anh dám đến đó để tìm. Kể cả khi anh cùng nàng chạy trốn khỏi Simyra, tôi cũng sẽ tìm thấy, người của tôi sẽ tìm thấy nàng cho dù phải đi đến tận cùng trái đất, rồi họ sẽ giết anh và đưa nàng về cho tôi. Tôi nói trước với anh tất cả những điều này vì tôi là một người đàn ông trọng danh dự, một người bạn của anh và tôi không muốn nói với anh những lời giả dối.
Lời nói của ngài khiến tôi vui mừng đến nỗi tôi giơ tay lên biểu lộ niềm vui, nhưng Kaptah cũng nghe được, bắt đầu dứt tóc và nói như gào lên:
- Đây là một ngày thật tồi tệ! Giá ông chủ của tôi chưa bao giờ được sinh ra thì sẽ tốt hơn, vì ngài định lấy đi cô gái, người duy nhất làm ông ấy vui vẻ. Sự mất mát này không thể nào bù đắp được, vì ông chủ của tôi quý cô ấy hơn cả vàng, đá quý và hương liệu, vì cô ấy đẹp hơn trăng rằm, bụng cô ấy tròn và trắng như chiếc bánh, mặc dù ngài không nhìn thấy nó, và vú của cô ấy giống quả dưa, như chính mắt ngài có thể nhìn thấy, thưa quốc vương.
Ông ấy nói như thế vì đã học được thói quen của các thương nhân ở Simyra khi muốn bán cô gái với giá đắt, dù cả hai chúng tôi không muốn gì hơn là được thoát khỏi cô ta. Khi nghe điều này, cả Keftiu cũng bật khóc và nói rằng cô ta sẽ không bao giờ bỏ tôi, nhưng vừa khóc, cô ta vừa thích thú liếc nhìn hoàng thân Aziru và bộ râu xoăn của ngài qua kẽ tay.
Tôi giơ tay bảo họ im lặng và làm bộ nghiêm túc nói:
- Hoàng thân Aziru, quốc vương xứ Amori và bạn của tôi! Cô gái này thực sự là người tôi rất yêu quý và tôi coi cô ấy là người tình, nhưng đối với tôi tình bạn với ngài quý hơn mọi thứ, vì thế tôi sẽ nhường cô ấy cho ngài để minh chứng cho tình bạn của chúng ta. Tôi không bán mà chỉ tặng ngài và yêu cầu ngài đem lại cho cô ấy những điều tốt đẹp, làm mọi thứ mà mèo hoang ngự trong ngài mong muốn vì nếu tôi không nhầm, trái tim cô ấy đã ngả về phía ngài và cô ấy hẳn sẽ rất vui mừng với những điều đó, bởi trong thân thể cô ấy cũng có nhiều mèo hoang ẩn nấp.
Aziru sung sướng reo lên:
- Nói thật tình, dù anh là người Ai Cập và tất cả những điều xấu xa đều đến từ Ai Cập, song từ hôm nay trở đi anh là người anh em, người bạn của tôi và tên của anh trở thành thiêng liêng trên khắp xứ Amori; bất cứ khi nào anh đến thăm tôi, anh sẽ ngồi bên phải tôi trước cả những triều thần quý phái của tôi và những vị khách khác, ngay cả khi khách của tôi là các quốc vương khác, tôi thề đấy.
Nói rồi ông ta cười vang, răng lấp lánh vàng và nhìn Keftiu lúc này đã nín và trở nên nghiêm trang. Mắt ông bắt đầu sáng lên như hai hòn than và ông kéo mạnh cô gái vào lòng khiến hai quả dưa lúc lắc rồi ném cô ta vào kiệu của mình như thể cô ta nhẹ lắm. Thế là ông ta đi, mang theo Keftiu và ba ngày sau tôi cũng như những người khác không thấy ông trong thành phố Simyra, vì ông ở lì trong nhà nghỉ suốt ba ngày ba đêm liền. Kaptah và tôi rất vui vì thoát được cô ả khó chịu đó, nhưng Kaptah đã trách tôi không đòi quốc vương quà tặng khi cho cô ta, dù tôi đã có thể nhận được từ Aziru bất cứ quà gì. Nhưng tôi đã nói với Kaptah:
- Vì tình bạn với Aziru mà ta tặng cô gái cho ông ta làm quà. Không ai biết ngày mai chuyện gì sẽ đến. Dù xứ Amori nhỏ và nghèo, chỉ nuôi lừa và cừu nhưng tình bạn với nhà vua là tình bạn hoàng gia và có lẽ còn quý hơn vàng.
Kaptah lắc đầu nhưng xức dầu mộc dược cho bọ hung của chúng tôi và mang phân tươi cho nó để cảm ơn vì chúng tôi thoát khỏi Keftiu.
Trước khi trở về xứ Amori, Aziru còn trở lại chỗ tôi, cúi thấp đầu trước mặt tôi và nói:
- Tôi sẽ không tặng quà cho anh, Sinuhe, vì anh đã tặng tôi thứ không thể đổi bằng quà. Cô gái thậm chí còn tuyệt vời hơn tôi tưởng, cặp mắt của cô ấy như giếng không đáy khiến tôi không bao giờ chán cô ấy, dù cô ấy đã vắt tôi kiệt sức như ép dầu từ quả mọng. Thành thật mà nói với anh, vương quốc của tôi không giàu và tôi không thể kiếm được vàng bằng cách nào khác ngoài việc đánh thuế các thương lái đi qua vùng đất của tôi và gây ra các cuộc chiến với lân bang, nhưng lúc đó Ai Cập sẽ ngay lập tức bu lại như ruồi trâu trên cổ tôi và khi ấy hại nhiều hơn lợi. Cũng chính vì thế nên tôi không thể tặng anh những món quà xứng đáng với thứ tôi nhận được từ anh và tôi oán giận Ai Cập, đất nước đã đè bẹp nền tự do cổ xưa của vương quốc tôi, khiến tôi không thể yên tâm gây chiến và cướp bóc các thương lái, như cha ông tôi từng làm. Nhưng tôi hứa bất cứ lúc nào anh đến với tôi, hỏi xin tôi bất cứ điều gì, tôi sẽ trao nó cho anh nếu điều đó nằm trong khả năng của tôi, miễn là anh không đòi lại người phụ nữ này cũng như những con ngựa, bởi vì tôi có ít ngựa và tôi cần chúng cho các chiến xa. Nhưng bất cứ thứ gì anh muốn, tôi sẽ cho anh nếu nó nằm trong khả năng của tôi. Và nếu ai đó phiền nhiễu anh, chỉ cần anh báo cho tôi, người của tôi sẽ giết hắn cho dù hắn ở đâu, bởi vì tôi có người của mình ở Simyra và cả các thành phố khác nữa, mặc dù không ai biết, song tôi hy vọng anh giữ bí mật. Tôi chỉ nói điều này với anh để anh biết rằng nếu anh muốn bất cứ ai phải chết, tôi sẽ ra lệnh giết hắn và không ai nghi ngờ anh về việc đó. Tình bạn của tôi với anh lớn đến thế.
Nói xong, ông ôm tôi theo cách của người Syria và tôi nhận thấy ông rất tôn trọng và ngưỡng mộ tôi; ông lấy sợi dây chuyền vàng trên cổ mình treo vào cổ tôi, mặc dù chắc chắn đó là một hy sinh to lớn vì ông thở rất dài khi làm việc đó. Thấy vậy, tôi tháo từ cổ mình sợi dây chuyền vàng mà chủ thuyền giàu nhất Simyra đã tặng tôi sau khi tôi cứu vợ anh ta trong một ca sinh nở khó khăn, treo vào cổ ông để ông không bị thiệt trong cuộc trao đổi, khiến ông mừng vui khôn xiết. Chúng tôi chia tay nhau như thế.
❖ 3 ❖Sau khi được giải thoát khỏi cô ả đó, lòng tôi nhẹ bẫng như chim, đôi mắt tôi khát khao được nhìn cái mới và tâm trí tôi tràn ngập nỗi bồn chồn khắc khoải khiến tôi không còn muốn ở Simyra nữa. Lại một mùa xuân nữa đến, thuyền trong bến cảng đã sẵn sàng cho những chuyến đi dài và khi màu xanh đã trỗi dậy trên mặt đất, các giáo sĩ đi ra ngoại ô đào Tammuz, thần cây mà họ đã an táng vào mùa thu trước, vừa chôn vừa cào rạch thân thể khiến máu ứa ra, giữa những tiếng than khóc vật vã.
Tôi bồn chồn cùng đám đông dân chúng đi theo các giáo sĩ. Mặt đất đã có màu xanh nõn nà, lá đã đâm chồi trên cành, chim cu gù và ếch kêu ộp oạp trong hồ ao. Các giáo sĩ lăn hòn đá ra khỏi cửa mộ, đào vị thần của họ lên rồi hò reo vui mừng, nói rằng thần đã phục sinh và thăng thiên. Dân chúng cũng hò reo và bắt đầu la hét, ồn ào, vặt bẻ cành cây và uống bia rượu từ các dãy quán mà các thương nhân vội vã dựng lên xung quanh mộ. Những người đàn bà kéo theo sau một chiếc xe gỗ chở một dương vật to được đẽo bằng gỗ, hò reo thích thú và khi đêm đến họ cởi bỏ xiêm áo, chạy dọc theo đồng cỏ, không cần biết ai đã có chồng ai chưa, mỗi người cặp đôi với bất kỳ ai mình gặp khiến đồng cỏ và triền đồi nhộn nhịp, rộn ràng. Về điều này, họ cũng khác với người Ai Cập. Nhìn họ, tôi thấy vô cùng ghen tị và nghĩ chắc mình đã già ngay khi được sinh ra, giống như xứ đen nhiều tuổi hơn tất cả các xứ khác, còn những tộc người này trẻ hơn và phục vụ thần của họ theo cách tương xứng.
Cùng đến với mùa xuân là tin người Khabiri từ sa mạc tràn đến, cướp phá các vùng biên giới từ bắc tới nam của Syria, đốt cháy làng mạc và bao vây các thành phố. Nhưng các đội quân của Pharaon cũng từ Tanis, vượt qua sa mạc Sinai, đến đánh nhau với quân Khabiri, bắt trói chỉ huy của họ và đuổi họ trở lại vùng hoang mạc. Chuyện thế này luôn xảy ra vào mỗi mùa xuân và trước đây cũng hay xảy ra, nhưng lần này dân chúng Simyra lo lắng vì quân Khabiri đã cướp phá thành phố Katna nơi có quân Ai Cập đồn trú, giết quốc vương ở đó và chém giết cả đàn bà lẫn trẻ em Ai Cập mà không bắt họ làm nô lệ để kiếm tiền chuộc. Việc như thế này chưa bao giờ xảy ra trong trí nhớ của mọi người, vì thông thường quân Khabiri hay tránh những thành phố có quân đồn trú.
Chiến tranh đã nổ ra như thế ở Syria và tôi chưa bao giờ thấy chiến tranh, vì thế tôi đi đến nơi có quân đội của Pharaon, bởi tôi cũng muốn chứng kiến một cuộc chiến để xem nó có điều gì nói cho tôi không, và tôi muốn nghiên cứu các vết thương do kiếm, đao và chùy gây ra. Nhưng điều quan trọng hơn cả khiến tôi lên đường là Horemheb chỉ huy các đội quân do Pharaon phái đến và trong nỗi cô đơn của mình, tôi khát khao được nhìn thấy khuôn mặt và nghe giọng nói của một người bạn. Vì thế, tôi đã cật vấn chính mình và nghĩ anh ấy không cần phải nhận ra tôi nếu thấy xấu hổ vì những việc tôi đã làm. Nhưng thời gian đã trôi qua, trong hai năm đã có rất nhiều điều xảy ra với tôi và có lẽ trái tim tôi đã xơ cứng, bởi ký ức về điều tủi hổ mình đã làm không còn khiến tôi kinh sợ như trước. Vì thế, tôi đi và lên một chiếc thuyền chạy dọc theo bờ biển về phía nam rồi nhập vào một đoàn tải lương từ bờ biển đi vào nội địa với những cỗ xe bò chở lúa mạch và đàn lừa thồ nhiều hũ dầu, vò rượu và những bao hành. Thế là tôi đến một thị trấn nhỏ nằm trên đỉnh núi với những bức tường thành bao quanh có tên là Jerusalem, nơi có một đơn vị đồn trú nhỏ của Ai Cập và Horemheb đã lấy thành phố này làm đại bản doanh trong khi tiếp tục cuộc chiến. Nhưng những tin đồn ở Simyra đã quá thổi phồng sức mạnh của quân Pharaon, bởi vì Horemheb chỉ có dưới trướng một đội chiến xa với vài ngàn tay cung và giáo trong khi quân Khabiri được cho là đông hơn cát sa mạc lúc xuân sang.
Horemheb tiếp tôi trong một lán đất sét bẩn thỉu và nói:
- Tôi có biết một Sinuhe, cũng là bác sĩ và anh ấy là bạn tôi.
Anh ấy nhìn tôi và cái áo choàng Syria tôi đã quen dùng khiến anh ngạc nhiên. Cũng như anh ấy, tôi đã già đi và khuôn mặt tôi đã thay đổi, nhưng anh ấy nhận ra tôi và vung chiếc roi chỉ huy được tết bằng những sợi vàng của mình lên, mỉm cười và nói:
- Thề có Amon, cậu chính là Sinuhe, mặc dù tôi nghĩ cậu đã chết.
Anh ấy đuổi các chỉ huy trong ban tham mưu và các ký lục cùng với bản đồ và giấy tờ ra khỏi lán rồi gọi rượu vào mời tôi uống và nói:
- Những con đường của Amon thật kỳ lạ khi chúng ta gặp nhau ở miền đất đỏ, trong cái thành phố khốn khổ, bẩn thỉu này.
Khi nghe anh ấy nói, trái tim trong ngực tôi rung động và tôi biết mình nhớ anh ấy. Tôi kể với anh về cuộc sống của mình và các chặng đường tôi đã trải qua trong chừng mực mà tôi thấy phù hợp và anh nói:
- Nếu muốn, cậu có thể đi với chúng tôi như một thầy thuốc và chia sẻ vinh quang cùng chúng tôi, vì chắc chắn tôi sẽ giáng cho bọn Khabiri chó má một trận để chúng nhớ tên tôi và khóc cho sự ra đời của chúng trên thế gian này.
Anh ấy còn nói thêm:
- Có lẽ tôi là một cậu bé ngốc nghếch khi chúng ta gặp nhau lần đầu tiên và tôi còn không rửa cát bẩn trong các kẽ chân của mình. Ngay từ lúc ấy, cậu đã là một người nhìn xa trông rộng và đã cho tôi những lời khuyên tốt. Bây giờ tôi hiểu biết hơn nhiều và trong tay tôi có cây roi vàng, như cậu thấy, nhưng tôi được nhận nó qua công việc cực nhọc trong đội cận vệ của Pharaon, săn đuổi những tên cướp và tội phạm mà ngài ấy đã điên rồ phóng thích từ các hầm mỏ khiến chúng tôi phải rất vất vả để tiêu diệt. Nhưng khi nghe tin quân Khabiri tấn công và tôi đòi Pharaon cho quân đánh lại chúng thì không võ quan nào cạnh tranh với tôi vị trí chỉ huy đội quân, bởi ở gần Pharaon sẽ được nhận nhiều vàng và huân chương hơn nơi sa mạc và giáo gươm của quân Khabiri rất sắc, tiếng hò hét trong trận mạc của chúng rất khủng khiếp vì chính tôi đã trải nghiệm. Nhờ thế, cuối cùng tôi có được kinh nghiệm và quân lính được rèn luyện trong các trận chiến thật sự, nhưng điều bận tâm duy nhất của Pharaon lại là tôi phải dựng một ngôi đền cho vị thần của ngài ở Jerusalem và đuổi được quân Khabiri mà không phải đổ máu.
Horemheb cười phá lên và quất roi vào đùi mình, tôi cũng cười, nhưng rồi anh ấy im bặt, uống rượu và nói:
- Nói thật tình, Sinuhe, tôi đã thay đổi rất nhiều từ khi ta gặp nhau lần cuối, vì bất cứ ai sống gần vị Pharaon này cũng buộc phải thay đổi dù không muốn. Ngài khiến tôi lo lắng vì ngài nghĩ và nói nhiều về thần của mình, một vị thần không giống những thần khác, đến nỗi ở Thebes mà cả tôi cũng thường có cảm giác có đàn kiến bò trong đầu, khiến đêm đến tôi không ngủ được nếu không uống rượu và ngủ với đàn bà để đầu óc mình bớt u mê. Thần của ngài ấy thật kỳ lạ. Thần của ngài không có hình dạng mặc dù hiện diện ở khắp mọi nơi, trong hình tròn, thần dang tay ban phước cho tất cả các sinh linh; trước thần, nô lệ hay người quyền quý không khác gì nhau. Sinuhe, hãy nói cho tôi biết, những lời này có phải là của một người bệnh hay không; tôi không thể nghĩ gì khác hơn là ngài đã bị một con khỉ điên cắn khi ngài còn bé. Bởi chỉ có kẻ điên mới nghĩ rằng có thể đuổi được quân Khabiri đi mà không cần đổ máu. Anh sẽ biết là tôi nói đúng khi nghe tiếng gào thét nơi trận mạc của chúng. Nhưng Pharaon cứ việc rũ bỏ trách nhiệm nếu đó là ý định của ngài. Tôi sẵn sàng nhận tội về mình trước thần của ngài và sẽ đè bẹp quân Khabiri dưới bánh đội chiến xa của mình.
Anh ấy uống thêm rượu và nói:
- Horus là thần của tôi, mà tôi không có lý do gì để ghét bỏ Amon vì ở Thebes, tôi đã học được rất nhiều lời nguyền rủa rất hay từ tên của thần và chúng có tác động đến binh lính. Nhưng tôi cũng hiểu Amon đã quá hùng mạnh, vì thế nên vị thần mới tranh giành quyền lực với Amon nhằm củng cố vị thế của Pharaon. Chính Hoàng thái hậu đã nói với tôi điều đó và giáo sĩ Eje, người hiện cầm cây trượng cong và ngồi bên phải quốc vương, cũng đã thừa nhận như vậy. Họ có ý định loại bỏ Amon với sự trợ giúp của Aton hoặc ít nhất là hạn chế quyền lực của Amon, vì thật không thích hợp khi các giáo sĩ Amon trị vì Ai Cập trên cả hoàng đế. Đây là phép trị vì đất nước khôn ngoan và là một người lính, tôi hiểu tại sao lại cần một vị thần mới. Tôi sẽ không phản đối nếu Pharaon có thể bằng lòng với việc xây dựng nhiều đền thờ cho thần và trả công cho giáo sĩ, nhưng Pharaon lại nghĩ quá nhiều về vị thần của mình và nói về thần nhiều đến mức bất cứ việc gì xảy ra, trước hoặc sau đó ngài đều nói về thần linh. Vì thế, ngài làm cho mọi người xung quanh phát điên, điên hơn cả ngài. Ngài nói rằng ngài đang sống vì sự thật, nhưng sự thật giống như con dao sắc trong tay một đứa trẻ và còn nguy hiểm hơn nhiều nếu ở trong tay một kẻ điên, bởi dao phải được giữ trong vỏ và chỉ được sử dụng khi cần. Và nó càng nguy hiểm với nhà cai trị hay người phát lệnh, hơn bất kỳ ai khác.
Anh ấy uống rượu và nói tiếp:
- Tôi biết ơn chim ưng của mình đã giúp tôi thoát khỏi Thebes. Thebes đang sục sôi như một tổ rắn vì thần của Pharaon mà tôi lại không muốn dính dáng gì đến những mâu thuẫn giữa các thần. Các giáo sĩ Amon đã kể đủ mọi chuyện tục tĩu về dòng dõi của Pharaon và kích động dân chúng chống lại thần của ngài. Hôn sự của ngài ấy cũng gây phẫn nộ, bởi Công chúa Mitanni, người thường chơi với búp bê, đột ngột qua đời và Pharaon đã tấn phong cho người nữ có tên Nefritite, con gái của giáo sĩ Eje, làm vương phi. Thực ra nàng Nefritite này đẹp và biết cách ăn vận, nhưng nàng ta rất ngang ngạnh và theo ý cha trong mọi việc.
- Vì sao Công chúa Mitanni chết? - Tôi hỏi, vì đã thấy đứa trẻ mắt to ấy nhìn Thebes sợ hãi khi được khênh trên kiệu dọc Đại lộ Nhân Sư đến đền, xiêm áo và trang điểm như một nữ thần.
- Các danh y nói Công chúa không chịu đựng được khí hậu của Ai Cập, - Horemheb đáp và cười. - Đó là lời nói vô cùng vớ vẩn bởi ai cũng biết không đất nước nào có khí hậu tốt hơn Ai Cập. Nhưng chính cậu cũng biết số trẻ em chết trong hậu cung của Pharaon là rất lớn, lớn hơn cả số trẻ em trong khu phố nghèo ở Thebes, mặc dù điều đó thật khó tin. Không kể tên là khôn ngoan hơn cả, nhưng nếu là tôi và nếu có gan, tôi sẽ lái chiến xa xông đến trước nhà giáo sĩ Eje.
Anh ấy nói năng bạt mạng và đập đập cây roi vàng vào đùi khi uống rượu, nhưng anh ấy đã thành một người đàn ông trưởng thành với tâm tính hay ưu tư, bồn chồn chứ không còn là một cậu bé khoe khoang khoác lác nữa. Rồi anh ấy nói:
- Nếu cậu muốn làm quen với thần của Pharaon thì ngày mai đến dự lễ khánh thành ngôi đền mà tôi đã gấp rút xây dựng cho thần của ngài trên đỉnh ghềnh đá ở thành phố này. Tôi sẽ gửi tin về việc khánh thành cho Pharaon và ngài sẽ không cần biết gì về những người đã ngã xuống, máu bao người đã đổ mà chỉ việc hoan hỉ trong nhà vàng với thần của mình.
Anh ấy còn nói thêm:
- Cậu hãy ngủ trong lều nếu tìm thấy chỗ. Vì địa vị của mình, tôi phải ngủ ở đây, trong nhà của hoàng thân, nhưng ở đây chấy rận nhung nhúc. Tất nhiên, chấy rận cũng là một phần của chiến tranh như đói và khát, những vết thương và làng mạc cháy rụi, vậy nên tôi không muốn phàn nàn.
Tôi đã ngủ qua đêm trong lều và cảm thấy thoải mái vì tôi đã kết bạn với viên cai đội đoàn tải lương trên hành trình từ bờ biển đến Jerusalem. Anh ta tìm mọi cách để lấy lòng tôi khi biết tôi là thầy thuốc đi theo quân đội, bởi có người lính nào lại không muốn có quan hệ tốt với thầy thuốc. Suốt buổi tối, anh ta thở dài và than vãn:
- Giá mà tôi không sinh ra là lính, bởi vì nỗi sợ hãi như chuột gặm nhắm trái tim người lính suốt ngày đêm. Khi còn là một đứa trẻ, anh ta nhận đòn roi nhiều hơn thức ăn; trên chiến trận, anh ta phải mang nước và lương thực trên vai như một con lừa, đến nỗi cổ anh ta cứng lại như cổ lừa và gân vai bong rát. Kẻ thù đâm anh ta bằng mũi giáo, bắn tên vào da thịt anh ta và nếu bị bắt, anh ta sẽ giống như chim trong lồng, bị đánh và trói tay chân. Nước bẩn là đồ uống của lính và anh ta phải trộm cắp hoặc đánh bại kẻ thù để có được đồng lương khốn khổ của mình. Khi cuối cùng được trở về Ai Cập, người lính giống như cái cây bị sâu đục, không còn thích hợp vào bất cứ việc gì. Anh ta bị đánh đến đầy thương tích hoặc bị bệnh và chỉ nằm được trong tư thế được chở trên lưng lừa qua những quãng đường dài, quần áo bị đánh cắp và tên hầu đã bỏ trốn. Giá mà tôi chưa bao giờ sinh ra làm lính.
Anh ấy chỉ cho tôi xem hai người lính đã thử bỏ trốn và bị Horemheb cho treo ngược lên tường, họ đã chết nhờ những tay cung của đồng đội mở lòng nhân từ lấy họ làm bia để chuẩn bị cho trận chiến mới. Anh cũng chỉ cho tôi vài ba tù binh Khabiri, những người đàn ông to lớn, giận dữ với mũi to, dày và đầu dính máu. Sau đó chúng tôi đi vào lều ngủ.
Tiếng tù và đánh thức tôi dậy từ sáng sớm, quân lính tập hợp thành nhóm, đứng thành hàng ngũ, các viên cai đội và quản cơ chạy dọc các hàng quân la hét, xô đẩy họ và dùng roi quất họ. Khi tất cả đã chỉnh tề, Horemheb từ căn lều đất sét bẩn thỉu của hoàng thân bước ra với cây roi vàng trong tay, viên hộ vệ cầm dù che trên đầu và lấy quạt xua ruồi quanh anh ấy khi anh ấy nói trước đội quân:
- Hỡi những người lính Ai Cập! Ta nói với những người lính Ai Cập và ở đây ta muốn nói cả với các ngươi nữa, đồ da đen rác rưởi, cũng như các ngươi, những giáo thủ Syria bẩn thỉu; ta cũng muốn nói với các ngươi, những gã lính Shardana và những tên lái chiến xa, những kẻ giống chiến binh và người Ai Cập nhất trong đoàn gia súc be be và ò ọ này. Ta đã rộng lượng với các ngươi, kiên nhẫn dạy các ngươi đánh trận, nhưng bây giờ lòng vị tha của ta đã hết, ta thậm chí không muốn ra lệnh cho các ngươi luyện tập bởi vì khi diễn tập, các ngươi ngã dúi dụi vào ngọn giáo của mình và nếu các ngươi bắn cung trong khi chạy, mũi tên của các ngươi sẽ theo gió bay lên trời rồi các ngươi bắn phải nhau, vậy thì số mũi tên vốn đã không đủ sẽ lại bị phí phạm, đội ơn Pharaon, thi thể của ngài sẽ tồn tại mãi mãi. Vì thế, hôm nay ta đưa các ngươi ra trận bởi vì các do thám của ta cho biết quân Khabiri dựng trại ở sau dãy núi, nhưng chúng có bao nhiêu thì ta không thể nói, bởi vì tụi do thám đã sợ hãi bỏ chạy trước khi kịp đếm. Nhưng ta hy vọng chúng đủ đông để giết hết tất cả các ngươi để cuối cùng ta không phải nhìn thấy những khuôn mặt kinh tởm, hèn nhát của các ngươi và ta có thể trở về Ai Cập để tập hợp một đội quân gồm những người đàn ông thật sự ham chuộng vinh quang và chiến lợi phẩm. Nhưng hôm nay ta cũng cho các ngươi một cơ hội cuối cùng. Này cai đội, mi đấy, kẻ sứt mũi kia, sao lại gãi đít khi ta đang nói! Vì vậy, hôm nay ta sẽ cho các ngươi cơ hội thử sức lần cuối!
Horemheb dữ tợn nhìn đám lính, ánh mắt anh ấy trừng trừng nhìn không sót một ai khiến không kẻ nào dám cựa quậy khi anh nói tiếp:
- Ta đưa các ngươi ra trận chiến và các ngươi phải biết ta sẽ là người dẫn đầu đoàn quân, ta sẽ không nhìn xem ai hay liệu có ai theo sau ta không. Bởi ta là con trai của Horus, chim ưng sẽ bay trước dẫn đường cho ta và hôm nay ta quyết đánh bại quân Khabiri dù phải chiến đấu một mình. Tuy nhiên, ta nói trước rằng tối nay roi của ta sẽ dính máu, bởi chính tay ta sẽ quất những kẻ không theo ta mà tìm cách lẩn trốn hoặc bỏ chạy, ta sẽ đánh chúng đến mức chúng ước giá mà không bao giờ được sinh ra và ta cam đoan với các ngươi, roi của ta cắn xé còn đau hơn ngọn giáo của quân Khabiri vốn được làm bằng đồng xấu và dễ gãy. Và về phía quân Khabiri, không có gì đáng sợ hơn tiếng la hét của chúng, nhưng kẻ nào sợ hãy lấy đất sét bịt tai lại. Việc đó không hại gì vì nhờ vậy các ngươi sẽ không nghe thấy mệnh lệnh giữa tiếng la hét của quân Khabiri, mà mỗi người hãy làm theo lệnh chỉ huy của mình và các chỉ huy hãy theo chim ưng của ta. Ta nói thêm rằng quân Khabiri chiến đấu trong tình trạng hỗn loạn như bầy gia súc, nhưng ta đã huấn luyện các ngươi luôn trong hàng ngũ và các cung thủ đã được luyện tập để bắn cùng một lúc theo lệnh hoặc ám hiệu. Vì vậy, thần Seth và tất cả các ác quỷ của thần sẽ thiêu sống kẻ nào bắn trước hoặc bắn mà không trúng đích. Đừng gào khóc như đàn bà khi ra trận, ít nhất hãy giả làm đàn ông, người quấn khố quanh lưng thay váy. Nếu đánh bại được quân Khabiri, các ngươi được chia nhau gia súc, của cải của chúng và trở nên giàu có, vì chúng đã vơ vét được rất nhiều chiến lợi phẩm từ những ngôi làng mà chúng đã đốt, còn ta không định kiếm cho mình nô lệ hay bò đực mà các ngươi được chia đều tất cả cho nhau. Đàn bà của họ, các ngươi cũng được chia nhau và ta tin rằng các ngươi sẽ có buổi tối vui vẻ với những phụ nữ này vì phụ nữ Khabiri rất đẹp, rất hăng và yêu chiều những chiến binh dũng cảm.
Horemheb nhìn đội quân của mình, binh lính đột nhiên đồng thanh hét to, đập giáo vào khiên, vung cung và gào vang. Horemheb mỉm cười, lạnh lùng phất roi lên cao và nói:
- Ta thấy các ngươi đang cuồng lên muốn nhận roi đây, nhưng trước tiên chúng ta phải khánh thành đền thờ vị thần mới tên là Aton của Pharaon. Dĩ nhiên, ngài là một vị thần không thích chiến tranh, vậy nên ta không tin hôm nay các ngươi vui vẻ lắm với ngài. Vì thế, tiền quân sẽ diễu hành, còn hậu quân ở lại khánh thành ngôi đền để đảm bảo được hưởng ân sủng của Pharaon dành cho chúng ta. Các ngươi có một cuộc hành quân dài phía trước vì ta sẽ bắt các ngươi chiến đấu khi đang mệt lả để các ngươi không còn sức chạy trốn mà chiến đấu dũng cảm vì mạng sống của mình.
Anh ấy lơ đãng vút cây roi vàng, quân lính lại cuồng nhiệt hô to rồi lần lượt rời khỏi thành phố, lộn xộn nhưng theo từng đội với cờ hiệu được buộc vào đầu gậy trước đội quân, giống như họ theo đuôi sư tử, chim ưng và đầu cá sấu đi vào trận chiến và những chiến xa tấn công hạng nhẹ đi trước đoàn quân để mở đường. Còn các cai, cơ và hậu quân theo Horemheb đến ngôi đền được xây dựng trên một vách đá cao bên rìa thành phố. Khi chúng tôi đến đó, tôi nghe thấy các sĩ quan bất bình bàn tán và hỏi nhau: “Lẽ nào thống lĩnh quân đội lại là người xung trận đầu tiên? Chúng ta sẽ không làm điều đó bởi vì theo thông lệ từ xưa tới nay, thống lĩnh và các chỉ huy được khênh trên kiệu và đi sau quân đội, vì họ là những người biết viết, nếu không làm sao họ có thể ghi lại những gì binh lính làm và trừng phạt những kẻ hèn nhát”.
Horemheb nghe rõ lời họ nói nhưng chỉ mỉm cười vung roi mà không nói gì.
Ngôi đền nhỏ được vội vàng ghép lại từ gỗ và trát đất sét, trông không giống những ngôi đền thông thường; nó trống, chỉ có một bàn thờ ở giữa và không thấy có vị thần nào khiến binh lính ngạc nhiên nhìn xung quanh để tìm. Horemheb nói:
- Thần của ngài hình tròn và giống như vầng hào quang mặt trời, vậy nên các ngươi hãy nheo mắt nhìn lên bầu trời nếu mắt các ngươi chịu nổi. Ngài dùng tay ban phước lành cho các ngươi, mặc dù ta ngờ rằng sau cuộc hành quân hôm nay, các ngươi sẽ có cảm giác những ngón tay của ngài như những cây kim nóng đỏ trên lưng mình.
Nhưng quân lính làu bàu và nói thần của Pharaon ở quá xa. Họ muốn một vị thần mà họ có thể nằm rạp xuống đất trước ngài và có thể chạm tay vào ngài nếu họ dám. Thế nhưng họ đã im bặt khi vị giáo sĩ, một thanh niên trẻ gầy ẻo lả, đầu không cạo trọc và trên người khoác áo choàng trắng, bước ra. Đôi mắt sáng ngời và đầy nhiệt thành, giáo sĩ dâng những bông hoa xuân sặc sỡ, dầu thơm và rượu lên bàn thờ cho đến khi quân lính bắt đầu cười to. Giáo sĩ cũng hát thánh ca cho Aton và người ta nói rằng chính Pharaon đã sáng tác nó. Bài thánh ca khá dài và đơn điệu, quân lính há hốc mồm nghe mà chẳng hiểu chút gì. Giáo sĩ hát như thế này:
“Người thật đẹp khi mọc lên từ đường chân trời,
Người, Aton sinh động, thực thể đầu tiên giữa muôn loài!
Khi nhô lên trên bầu trời phía đông
Người tỏa ánh vinh quang ngập tràn mặt đất,
Bởi người đẹp, vĩ đại và xán lạn, cao cao phía trên trái đất.
Ánh sáng của Người ôm ấp tất cả vương quốc Người đã tạo nên,
Những vùng đất Người gắn kết bằng những tia sáng yêu thương,
Dù Người ở rất xa, ánh sáng của Người ngay trên mặt đất,
Bàn chân Người giẫm trên bùn dù Người thật quyền uy.”
Rồi giáo sĩ miêu tả cái u ám của đêm đen, những con sư tử lừng lững từ hang bước ra khi đêm đến và cả những con rắn khiến nhiều người nghe bắt đầu sợ hãi. Chàng trai miêu tả ánh sáng rực rỡ của ban ngày và thuyết phục mọi người hãy tin rằng đàn chim sáng sáng vỗ cánh để ca ngợi Aton. Giáo sĩ cũng cam đoan rằng vị thần mới mang lại sự sống cho bào thai trong dạ con người phụ nữ và cường sinh cho tinh trùng của nam giới. Trong khi lắng nghe giáo sĩ, người ta có thể thật sự tin rằng không một điều nhỏ nhặt nào trên thế gian mà Aton không can dự, vì giáo sĩ thậm chí nghĩ rằng gà con không thể đâm thủng vỏ trứng và cất tiếng chiêm chiếp nếu không có sự giúp đỡ của Aton. Và chàng trai hát tiếp:
“Người đã làm bao điều kỳ diệu,
Những việc xảy ra chúng con nào hay
Ôi, vị thần duy nhất, quyền lực hơn mọi vị thần
Duy nhất Người tạo dựng thế gian theo ý muốn,
Loài người cùng gia súc và động vật nhỏ to,
Mọi loài, những gì ở trên trái đất và đi bằng đôi chân mình,
Mọi loài, những gì ở trong không gian và bay bằng đôi cánh của mình,
Các vùng đất Syria và Nubian
Và đất nước Ai Cập.
Người đặt từng sinh linh vào chỗ của chúng
Và trao cho muôn loài những gì chúng cần,
Người cho từng sinh linh nơi chốn của mình
Và ngày tháng năm sinh linh tồn tại.
Chúng sinh nói nhiều ngôn ngữ theo ý muốn của Người,
Màu da và hình dáng khác nhau,
Và như thế, Người biết ai là ai.”
Chàng ta còn quả quyết rằng chính Aton tạo ra cả sông Nile trần gian và sông Nile thiên giới, khiến các sĩ quan lầm bầm rằng ngài can thiệp vào công việc của Amon. Ngài tạo ra cả các mùa trong năm và hiện diện trong hàng triệu triệu hình dạng khác nhau tại các thành phố, làng mạc và pháo đài, trên dòng sông và các con đường. Và chàng ta kết thúc:
“Trong tim con chỉ có một mình Người
Không ai khác biết Người
Ngoài con Người, đức vua.
Người cho đức vua biết dự định của mình
Với quyền năng của mình, Người trao việc.
Thế giới trong tay Người,
Nguyên vẹn như khi được Người tạo ra.
Con người sống nhờ ánh sáng của Người,
Nếu Người rơi vào cõi hư vô, họ sẽ chết,
Bởi Người là sự sống,
Và thông qua Người, con người ta tồn tại.
Mọi ánh mắt ngắm nhìn vẻ đẹp của Người,
Cho đến khi Người lặn xuống,
Mọi công việc bị gián đoạn,
Khi Người về miền tây.
Kể từ khi Người tạo dựng thế gian,
Người chuẩn bị cho sự xuất hiện của con trai mình,
Được sinh ra từ vòng tay ôm ấp của Người,
Chuẩn bị cho đức vua, Người sống vì sự thật,
Cho con trai của Ra, chủ nh