Sách thứ sáu Ngày vua hờ
❖ 1 ❖
Trước khi bắt đầu vào sách mới, tôi cần phải ngợi ca thời quá khứ ấy, khi tôi được tự do đi qua nhiều nước và học được thêm bao nhiêu kiến thức, vì thời gian như thế chắc sẽ không bao giờ trở lại. Cứ thế, tôi du hành trong một thế giới bốn mươi năm liền không có chiến tranh, các đoàn chở hàng và thương gia được lính cấm vệ của các quốc vương bảo vệ, và vùng sông, biển được hải đội của pharaon các triều đại bảo vệ khỏi thủy hải tặc. Biên giới rộng mở và thương gia cùng du khách mang vàng theo người được chào đón ở khắp các thành phố; người ta không xúc phạm nhau mà cúi người chào, hạ tay xuống ngang đầu gối và học hỏi phong tục của nhau; người có học thức nói nhiều thứ tiếng và viết hai loại chữ. Các cánh đồng được tưới tiêu đem lại mùa màng bội thu và thay vào vị thế sông Nile, dòng Nile từ trời cao tưới nước cho ruộng đồng của miền đất đỏ. Những nơi tôi du hành qua, đàn gia súc lững thững, bình an trên đồng cỏ; người chăn dắt không giáo mác thổi tiêu và hát những bài ca vui nhộn; những đồi nho tươi tốt và cây ăn quả trĩu nặng trái chín; các giáo sĩ béo tốt, mặt bóng nhẫy dầu xức và khói bốc lên từ vô số vật hiến tế trong sân trước các đền ở tất cả các nước; cả thần linh cũng mãn nguyện, nhân từ và béo tốt nhờ đủ loại đồ cúng tế. Người giàu giàu hơn, kẻ quyền thế quyền thế hơn, còn người nghèo lại nghèo hơn, như thần linh đã sắp đặt và như vậy, tất cả mọi người đều hài lòng, không than vãn, kêu ca. Trong tâm trí tôi hiện về những hình ảnh như vậy của một thời đã qua, thời có lẽ không bao giờ trở lại, khi tôi còn trẻ và thân thể tôi chưa mệt mỏi với những chuyến đi dài, đôi mắt tò mò của tôi thèm được thấy những điều mới lạ, lòng tôi khao khát tri thức và háo hức tiếp nhận mọi điều.
Để ví dụ cho cuộc sống quy củ và ở mọi nơi đều như nhau, tôi có thể kể đến việc thương điếm của một ngôi đền ở Babylon đã không ngần ngại trao cho tôi số vàng được viết trên những bảng đất sét mà tôi nhận được từ thương điếm của mình ở Simyra; hay ở tất cả các thành phố lớn đều có thể mua rượu của vùng núi hay của bến cảng, những thứ được đưa từ xa đến; và ở các thành phố Syria, rượu vang vùng núi Babylon được cho là tốt nhất còn ở Babylon người ta trả vàng cho rượu Syria. Ai có vàng đều có thể mua nô lệ với màu da và dáng vóc khác nhau, mua trẻ em và người lớn, mua các cô gái trẻ để có người vui thú và thuê cho mình người làm công. Ai không có vàng thì làm việc chân tay cho đến khi tay chai cứng, da sần sùi và dày cộp hay lưng còng. Nhưng kẻ nào lẻn vào nhà giàu trộm vàng để uống rượu, tiêu khiển và mua nô lệ cho mình, kẻ đó sẽ bị bắt và treo ngược trên tường để làm gương cho kẻ khác.
Tôi đã ngợi ca như thế về những ngày hạnh phúc đã qua, khi ngay cả mặt trời cũng chiếu sáng hơn và cơn gió cũng dịu dàng hơn những ngày tồi tệ này, còn giờ đây, tôi sẽ kể về tất cả những điều mắt tôi đã thấy và tai tôi đã nghe được trong những chuyến đi. Nhưng trước tiên, tôi cần kể tôi đã trở lại Simyra như thế nào.
Khi tôi trở về nhà mình ở Simyra, Kaptah lao về phía tôi, hét to lên, òa khóc sung sướng rồi nằm rạp xuống chân tôi và nói:
- Tạ ơn ngày may mắn đã đưa ông chủ tôi về nhà. Ông đã quay về mặc dù tôi nghĩ rằng ông đã chết trong trận chiến và tôi tin chắc ông đã bị ngọn giáo đâm xuyên người vì ông không chịu nghe lời cảnh báo của tôi mà muốn đi nếm trải xem chiến tranh thế nào. Nhưng bọ hung của chúng ta đúng là vị thần uy lực đã bảo vệ ông, nên ngày hôm nay mới tươi đẹp làm sao. Tôi vô cùng vui sướng khi nhìn thấy ông, vui đến trào nước mắt vì không kiềm chế được mình dù tôi tin rằng mình đã được thừa kế gia sản của ông và tất cả số vàng ông để vào thương điếm Simyra. Nhưng tôi không buồn về sự giàu có vừa vuột mất này bởi không có ông, tôi như con cừu non mất mẹ khốn khổ kêu be be và ngày tháng của tôi chỉ là bóng tối. Tôi cũng không lấy cắp nhiều hơn trong lúc ông vắng nhà mà đã trông coi ngôi nhà của ông, đồ đạc của ông cũng như tất cả của cải của ông để khi trở về, ông trở nên giàu có hơn lúc ra đi.
Ông ta rửa chân cho tôi, giội nước lên tay tôi, chăm sóc tôi bằng mọi cách và khóc lóc không dứt cho đến khi tôi bảo ông ta im đi và nói:
- Hãy chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng, vì chúng ta sẽ làm một chuyến đi dài, có thể kéo dài nhiều năm và đầy khó khăn cực nhọc, chúng ta đến xứ Mitanni, Babylon và các hải đảo.
Kaptah lập tức im bặt, nét mặt trở nên tối sầm và xám ngoét vì sợ hãi, rồi ông ta hét lên:
- Thề có bọ hung, ông chủ của tôi đã mất trí và tốt nhất tôi nên trói ông lại, bỏ đỉa lên cánh tay và đầu gối ông. Vì ở Simyra chúng ta no đủ, chúng ta rưới mật ong lên bánh mì của mình, các thương gia và quan lại của thành phố tôn trọng chúng ta, các trinh nữ của đền Ishtar cũng đã học được từ các thủy thủ nhiều cách thức quyến rũ đàn ông mới và làm cho thân thể họ nhảy tanh tách như cá trên đất khô, vậy nên tốt nhất ông hãy đi ngay đến đền cúng tế hầu quên đi những lời nói điên rồ.
Tôi bảo ông ta:
- Ta không tự quyết định đường đi của mình được nữa, nhưng vì sao thì ta không muốn kể với ông, vì ông là nô lệ và ngu dốt. Nhưng thôi cứ làm như ông muốn, hãy ở lại đây trông coi nhà cũng như tài sản của ta và thỏa sức vui thú với những đàn bà mà ta không muốn gọi là trinh nữ của đền thờ, trong khi ta đi vắng. Ta sẽ đi một mình nếu ông không muốn đi cùng, ta không ép buộc ông bởi trong chuyến đi dài, ông có thể gây cho ta nhiều rắc rối hơn là thuận lợi.
Lúc đó Kaptah bắt đầu gào khóc và hét lên:
- Giá như tôi chưa bao giờ được sinh ra trên thế gian này. Giá như tôi chưa bao giờ béo lên và có được những ngày tốt đẹp, vì ai đã từng được sung sướng, người đó càng khó từ bỏ ấm no. Nếu ông chỉ đi một hoặc hai tháng như trước đây, tôi sẽ không nói gì mà chỉ yên tâm ở lại Simyra. Nhưng nếu chuyến đi của ông kéo dài hàng năm, có thể ông sẽ không bao giờ quay lại thì tôi sẽ không bao giờ được thấy ông nữa. Vì thế tôi phải theo ông và mang theo bọ hung linh thiêng của chúng ta, bởi trên hành trình như vậy ông cần tất cả vận may mà ông có và nếu thiếu bọ hung, ông sẽ rơi xuống vực trên đường đi, bọn trộm cướp sẽ đâm giáo nát người ông. Không có tôi và kinh nghiệm của tôi, ông như con bê con bị tên trộm trói hai chân sau rồi vác trên lưng đi bất cứ đâu và không có tôi, ông như người đàn ông bị chằm mắt và bất lực quờ tay về phía trước dò đường đi, khiến ai gặp ông đều thỏa sức lấy hết đồ của ông khi chưa kịp bị phát hiện. Tôi không cho phép điều đó, bởi nếu phải có ai đó trộm của ông thì tốt nhất người đó là tôi, vì tôi lấy của ông một cách vừa phải và cẩn trọng, cân nhắc tới lợi ích của ông. Nhưng tốt hơn cả là chúng ta nên ở lại trong nhà của chúng ta ở Simyra thôi.
Quả thật theo thời gian Kaptah đã trở nên trơ tráo hơn, đã nói “nhà của chúng ta”, “bọ hung của chúng ta” và khi trả tiền, ông ta đã nói “vàng của chúng ta”. Nhưng tôi đã mệt mỏi về chuyện này và chán ngấy lời than vãn của ông ta nên cuối cùng tôi cầm cây gậy của mình lên, cho tấm lưng béo ấy một trận nhừ đòn để ông ta có lý do thật sự mà gào khóc, rồi tôi nói:
- Tim ta mách bảo rồi sẽ có lúc ông bị treo ngược trên tường vì sự hỗn xược của mình. Nói nhanh, ông đi với ta hay ở lại? Nhưng trước hết, hãy thôi ngay cơn lải nhải muôn thuở của ông đi, nó làm ngứa tai ta trong khi ta phải chuẩn bị cho một chuyến đi dài.
Nghe thế Kaptah trấn tĩnh lại, phục tùng số phận của mình và chúng tôi chuẩn bị cho chuyến đi. Bởi ông ta đã từng thề không bao giờ bước chân lên thuyền, nên chúng tôi nhập vào một đoàn lữ hành đang đi về phía bắc Syria, vì tôi muốn nhìn thấy những khu rừng tuyết tùng Li-băng, nơi có những cây thân gỗ được dùng để xây cung điện và đóng thuyền thiêng cho thần Amon. Tôi không có nhiều điều để kể về chuyến đi vì nó đơn điệu và chúng tôi không bị lũ cướp đường quấy nhiễu. Các nhà nghỉ được trang bị tốt, chúng tôi ăn uống thoải mái và ở một số trạm nghỉ, bệnh nhân tìm đến tôi và tôi chữa lành cho họ. Tôi ngồi kiệu vì đã quá ngán cưỡi lừa, Kaptah cũng không thích lừa nhưng tôi không thể cho ông ta cùng ngồi kiệu với mình để khỏi mất thanh danh trong mắt những hành khách khác, vì ông ta là đầy tớ của tôi. Vì thế Kaptah than vãn rất nhiều và nói ông ta muốn chết. Tôi nhắc ông ta rằng chúng tôi có thể thực hiện chuyến đi này nhanh hơn và dễ chịu hơn bằng thuyền, nhưng điều đó không an ủi được ông ta là bao. Gió khô cào rát mặt tôi đến nỗi tôi phải liên tục bôi dầu lên da; bụi bám vào cổ họng và những con rận cát làm phiền tôi, nhưng tôi nghĩ những trở ngại này là chuyện nhỏ và tôi vui mừng với tất cả những điều mắt mình nhìn thấy.
Tôi cũng thấy những rừng tuyết tùng và những cây to đến mức không người Ai Cập nào tin là có thật nếu tôi kể, nên tôi sẽ không kể. Nhưng tôi buộc phải nói rằng mùi hương của những khu rừng này thật huyền diệu, cũng như những dòng suối trong vắt và tôi đã nghĩ chắc không ai có thể cảm thấy bất hạnh ở đất nước tuyệt vời này. Tôi đã nghĩ thế cho đến khi nhìn thấy những nô lệ chặt cây và róc cành để vận chuyển dọc theo sườn núi ra bờ biển. Nỗi khốn khổ của những nô lệ này là vô cùng, tay chân họ đầy vết thương và vết xước do vỏ cây và dụng cụ làm việc gây nên, ruồi bâu lúc nhúc kín những vệt roi trên lưng họ, khiến tôi không còn nghĩ như trước nữa sau khi nhìn cảnh ấy.
Nhưng Kaptah lại giải khuây bằng việc tính xem ông ta sẽ giàu đến mức nào nếu sở hữu tất cả những cây này ở Ai Cập; ông ta sẽ dùng thuyền chở tất cả đến bến ở Thebes. Ông ta tính giá một cây to đủ để một người đàn ông bình thường nuôi sống gia đình suốt đời, cho con trai học thành ký lục và con gái được gả vào một dòng họ tốt. Ông ta bắt đầu đếm cây nhưng cây nhiều vô kể và đầu ông ta rối tung, ông ta bắt đầu đếm lại và cuối cùng gào lên: “Tim tôi nhói đau khi thấy tất cả sự giàu có nhường này chỉ hoài phí đung đưa trong gió”. Thế là ông ta kéo áo trùm lên đầu để không thấy rừng cây nữa. Còn tôi, khi nghe tiếng rì rào trong tán tuyết tùng, tôi lại nghĩ cũng đáng cho một chuyến đi dài và xa để nghe được âm thanh ấy.
Cuối cùng chúng tôi đến thành phố Kadesh, nơi có một pháo đài và khu kiều dân lớn của Ai Cập. Nhưng trên thành pháo đài không có lính gác, cỏ mọc kín hào nước xung quanh thành, quân lính và chỉ huy sống trong thành phố cùng với gia đình họ và chỉ nhớ mình là lính vào những ngày kho của Pharaon phân phát lương thực, hành và bia. Chúng tôi nán lại trong thành phố để những vết thương do cưỡi lừa trên mông Kaptah kịp đóng sẹo và tôi chữa cho nhiều bệnh nhân ở đó, vì các thầy thuốc Ai Cập trong thành phố không đủ tốt; tên họ đã bị xóa khỏi Sinh thư từ lâu, nếu một lúc nào đó đã có trong ấy. Vậy nên người bệnh thường sai đưa mình đến xứ Mitanni nếu họ có đủ vàng và đành chịu ở đó cho các thầy thuốc đã học nghề ở Babylon chữa trị. Tôi nhìn thấy ở thành phố này những tượng đài được các pharaon vĩ đại cho xây dựng và tôi đọc trên đó những dòng chữ kể về chiến thắng của họ cùng với sự thất bại của kẻ thù và những cuộc săn voi của họ. Ở đây tôi cũng cho khắc một ấn triện bằng đá quý vì muốn mình được kính trọng ở những nước này, bởi khác với ở Ai Cập, ấn triện ở đây không gắn vào nhẫn đeo trên ngón tay mà treo trên cổ vì nó có hình trụ với một lỗ thủng ở giữa và được quấn quanh bảng đất sét nên có thể in dấu trên bảng. Còn người nghèo và người ít học thì chỉ ấn ngón tay cái xuống bảng đất sét nếu họ có việc dùng bảng.
Nhưng Kadesh là một thành phố rất buồn bã và ảm đạm, khô rang dưới cái nắng ban ngày và đồi bại đến mức cả Kaptah cũng muốn tiếp tục cuộc hành trình, mặc dù ông ta rất sợ ngồi trên con lừa của mình. Sự thay đổi duy nhất diễn ra ở đó là các đoàn hành hương từ tất cả các nước đều đi qua đây vì thành phố nằm ở ngã ba đường. Nhưng tất cả các thành phố biên ải đều như thế, dù dưới triều đại bất cứ vị vua nào, là nơi đày ải các võ quan và binh lính, dù quân đội của họ thuộc về Ai Cập hay Mitanni, Babylon hay Hatti. Vì thế ở bất cứ thành phố biên ải nào, tôi không nghe thấy binh lính và cai, cơ làm gì khác ngoài việc nguyền rủa sự có mặt của chính mình trên thế gian, chơi bời và ẩu đả nhau, uống loại bia chua lòm và vui thú với đàn bà, dù đàn bà ít khi mang lại cho họ niềm vui mà phần nhiều chỉ nỗi buồn.
Chúng tôi tiếp tục đi và vượt qua biên giới đến vùng đất Naharani mà không bị ai chặn lại, nhưng lại gặp một dòng sông nước chảy ngược lên chứ không xuôi xuống như sông Nile. Người ta cho biết chúng tôi đang ở đất Mitanni và chúng tôi trả thuế du lịch cho sở thuế của hoàng gia. Vì chúng tôi là người Ai Cập nên mọi người dành cho chúng tôi sự đối xử tôn trọng, họ đến gặp chúng tôi trên đường phố và nói:
- Chào mừng các ngài đã đến, chúng tôi rất vui khi thấy người Ai Cập, vì rất lâu rồi chúng tôi không thấy người Ai Cập nào. Pharaon đã không gửi binh lính và vũ khí cũng như vàng đến đất nước chúng tôi, làm chúng tôi rất bồn chồn. Có tin đồn rằng ngài đã chào mời quốc vương chúng tôi một vị thần mới mà chúng tôi không hề biết chút gì, dù chúng tôi đã có thần Ishtar ở Nineveh và nhiều vị thần vĩ đại khác bảo vệ từ trước đến nay.
Họ mời tôi đến nhà và thết đãi tôi, Kaptah cũng được họ cho ăn và uống vì ông ấy là người Ai Cập, mặc dù chỉ là đầy tớ của tôi, nên Kaptah nói:
- Đây là xứ sở tốt. Chúng ta hãy ở lại đây thôi ông chủ ạ, để làm nghề thuốc. Vì tôi thấy người ở đây thiếu hiểu biết, cả tin và dễ bị lừa.
Vua Mitanni và triều đình chuyển vào vùng núi ở phía bắc vào quãng thời gian nóng nhất của mùa hè nhưng tôi không muốn đi theo họ, vì tôi đang rất nôn nóng và khát khao được nhìn thấy tất cả những điều kỳ diệu của Babylon mà tôi đã nghe nói đến rất nhiều. Nhưng tuân lệnh Horemheb, tôi bắt chuyện với cả người quý phái lẫn thường dân, tất cả đều nói giống nhau nên tôi hiểu rằng lòng họ thật sự không yên. Bởi ngày xưa xứ Mitanni vốn rất hùng mạnh nhưng bây giờ là một vùng đất bất ổn, bao quanh bởi Babylon ở phía đông, dân mọi rợ ở phía bắc và phía tây là người Hittite trong vương quốc Hatti. Càng nghe họ nói về người Hittite mà họ sợ, tôi càng hiểu ra rằng mình phải đặt chân đến đất Hatti, nhưng trước tiên tôi muốn đến Babylon.
Người dân xứ Mitanni này nhỏ nhắn, phụ nữ của họ rất đẹp và thon thả, trẻ con của họ trông như búp bê. Có lẽ họ từng là một dân tộc hùng mạnh, vì họ kể rằng đã có lúc họ cai trị tất cả các bộ tộc ở phía bắc, phía nam, phía đông và phía tây, nhưng tất cả các dân tộc khác cũng từng nói như vậy. Tôi không tin rằng thuở xưa họ đã từng chiến thắng và cướp bóc Babylon cho dù họ kể thế, mà nếu quả đúng như vậy thì họ đã làm điều đó với sự giúp đỡ của các pharaon. Bởi vì từ thời các pharaon vĩ đại, vùng đất này đã phụ thuộc vào Ai Cập và trong vòng hai thế hệ, con gái các quốc vương của Mitanni đã sống trong cung điện của pharaon và làm phi tần của họ. Chiến xa của tổ tiên dòng họ Amenhotep đã từng có mặt trên khắp xứ Naharani này và trong các thành phố vẫn còn các bia ký ghi chiến tích của họ. Khi nghe những lời kể và than vãn của người Mitanni, tôi hiểu rằng đất nước này được thiết lập để làm vùng đệm, bảo vệ Syria và Ai Cập khỏi sự cai trị của Babylon và các bộ tộc mọi rợ; là lá chắn của Syria, đất nước này nhận vào mình những ngọn giáo nhắm tới quyền lực của Ai Cập. Vì thế, và chỉ vì thế, các pharaon đã giúp quốc vương xứ này giữ vững ngai vàng vốn bị lung lay và gửi cho ông ta vàng, vũ khí và các đội lính đánh thuê. Nhưng dân chúng không hiểu điều này mà chỉ tự hào về xứ sở vĩ đại và hùng mạnh của mình. Họ nói:
- Công chúa của chúng tôi, Tadukhipa, đã là vương phi vĩ đại ở Thebes khi nàng chỉ là một đứa trẻ, và đã đột ngột qua đời. Chúng tôi không hiểu vì sao Pharaon không còn gửi vàng cho chúng tôi, mặc dù theo trí nhớ của chúng tôi, các pharaon đều yêu quý các quốc vương của chúng tôi như anh em và vì mối thâm tình này mà đã gửi cho họ các cỗ chiến xa, vũ khí, vàng và quà tặng đắt tiền.
Nhưng tôi thấy đất nước này đã quá rệu rã và sắp lụi tàn, bóng thần chết đang lơ lửng phía trên những ngôi đền và những tòa nhà to đẹp của nó. Bản thân họ không nhận thấy điều đó mà chỉ chú tâm đến những thứ mình ăn, cố công chế biến chúng sao cho lạ mắt nhất và tiêu phí thời gian thử quần áo mới, giày mũi cong, mũ chóp cao và hết sức cẩn thận chọn đồ trang sức cho mình. Cánh tay của họ thon thả như tay người Ai Cập và làn da phụ nữ của họ mỏng mịn đến mức có thể thấy máu chảy trong huyết quản; họ nói năng, cư xử từ tốn và cả nam lẫn nữ từ tấm bé đã học cách đi đứng duyên dáng. Sống ở đất nước này thật dễ chịu, cả những âm thanh ồn ã và tiếng lè nhè trong các nhà vui ở đây cũng không làm nhức tai mà tất cả diễn ra lặng lẽ và độc đáo, khiến tôi có cảm tưởng mình nói to và vụng về khi tán gẫu và uống rượu với họ. Nhưng trái tim tôi trĩu nặng khi nhìn họ, vì tôi đã nếm trải chiến tranh và nếu tất cả đúng như những gì họ nói về xứ Hatti, đất nước của họ là một vùng đất sắp diệt vong.
Kiến thức y học của họ cũng rất uyên bác, danh y của họ là những người có tài, có hiểu biết chuyên môn và biết rất nhiều điều mà tôi không biết. Chẳng hạn, họ cho tôi một loại thuốc tẩy giun ít gây đau đớn và dễ dùng hơn bất kỳ loại thuốc nào tôi từng biết. Họ cũng biết cách dùng kim chữa cho người mù nhìn được và tôi cũng học được từ họ cách dùng kim tốt hơn. Nhưng họ không hề biết đến khoan sọ, cũng không tin những gì tôi kể với họ mà nói rằng chỉ thần linh mới có thể chữa lành các bệnh về não và dù cho các vị thần có chữa lành cho họ, họ cũng không bao giờ trở lại như trước, vì vậy tốt hơn nên để họ chết.
Tuy nhiên, người dân Mitanni rất tò mò, họ đến gặp tôi và đưa bệnh nhân đến chỗ tôi, bởi vì tất cả những người lạ đều thu hút họ, giống như việc họ thích mặc quần áo khác lạ, ăn món ăn lạ, uống rượu miền núi và yêu thích trang sức từ xứ lạ, và họ cũng muốn thầy thuốc nước ngoài chữa bệnh cho mình. Những phụ nữ ở đó đến gặp tôi, cười với tôi, kể cho tôi nghe về căn bệnh của mình và phàn nàn rằng chồng họ lạnh lùng, lười biếng và mệt mỏi. Tôi biết rõ họ muốn gì ở tôi, nhưng tôi không động vào người họ để mua vui vì tôi không muốn vi phạm luật pháp nước ngoài. Thay vào đó, tôi đưa cho họ những loại thuốc để họ có thể bí mật hòa lẫn vào rượu của chồng mình, những loại thuốc tôi nhận được từ các thầy thuốc Simyra, những loại khiến cả người ốm sắp chết cũng có thể vui cùng phụ nữ, bởi các danh y Syria là những người giỏi nhất thế giới về khoản này và thuốc loại này của họ mạnh hơn thuốc Ai Cập. Nhưng những phụ nữ đó có đưa thuốc cho chồng không, hay lại chỉ đưa cho những người đàn ông lạ, tôi thật sự không biết, song tôi nghĩ họ thích những người lạ hơn chồng mình, vì cách sống của họ rất phóng túng và họ không có con; cũng từ điều này mà tôi đi đến kết luận là bóng thần chết đang che phủ xứ này.
Tôi cần kể thêm rằng người dân của đất nước này không còn biết đâu là biên giới của họ, bởi đá mốc biên cương của họ liên tục bị dịch chuyển, vì người Hittite chất những hòn đá lên chiến xa, chở đi và đặt xuống bất cứ chỗ nào mình muốn. Nếu họ phản đối, người Hittite chỉ cười và bảo họ cứ việc dịch chuyển những hòn đá trở lại nếu thật sự muốn. Nhưng họ không muốn, vì nếu điều họ nói về người Hittite là đúng thì trên trái đất này chưa bao giờ có dân tộc nào tàn nhẫn và đáng sợ như vậy. Theo lời kể của họ, niềm vui lớn nhất của người Hittite là được nghe tiếng gào thét của những kẻ bị xẻ thịt và thấy máu phun ra từ những vết thương hở hoác; và người Mitanni miền biên cương đã phàn nàn vì gia súc của chúng giày xéo ruộng đồng và ăn cây trồng, rồi chúng còn nhạo báng, bảo họ nhấc những cột đá làm mốc biên giới về chỗ cũ. Chúng cũng chặt chân họ rồi bảo hãy chạy đến chỗ quốc vương mà than khóc, chúng còn rạch da đầu họ và kéo da xuống che mắt để họ không thể thấy những cột đá làm mốc ranh giới đã được xê dịch thế nào. Người dân Mitanni cũng nói rằng người Hittite nhạo báng các vị thần Ai Cập, một sự sỉ nhục lớn đối với toàn Ai Cập, và như vậy là đã có quá đủ lý do để Pharaon gửi vàng, vũ khí và lính đánh thuê đến xứ Mitanni giúp họ chiến đấu chống lại người Hittite, mặc dù họ không thích chiến tranh mà chỉ mong quân Hittite rút đi khi thấy quân đội của Pharaon đến bảo vệ Mitanni. Tôi không thể nhắc lại và không thể kể ra tất cả những điều xấu xa mà người Hittite đã gây ra cũng như những hành động tàn ác và lễ nghi đáng hổ thẹn mà chúng làm. Họ nói rằng người Hittite còn tồi tệ hơn cả châu chấu, bởi sau khi đàn châu chấu bay đi, đất đai tốt trở lại, nhưng nơi nào chiến xa của Hittite đi qua, nơi đó cỏ không mọc được nữa.
Tôi không muốn ở lại xứ Mitanni lâu hơn, vì tôi nghĩ mình đã biết được tất cả những điều muốn biết, và danh tiếng thầy thuốc của tôi bị xúc phạm bởi sự nghi ngờ của các danh y Mitanni, họ không tin những gì tôi nói với họ về khoan sọ. Nhưng sau đó, một người quyền quý đã đến nhà trọ của tôi và than phiền là anh ta nghe thấy tiếng ầm ào không dứt của sóng biển trong tai, và hay bị ngã, có lúc ngất đi và đau đầu khủng khiếp đến nỗi không còn muốn sống nếu không ai có thể chữa lành cho anh ta. Các thầy thuốc Mitanni không muốn chữa cho anh ta, nên anh ta chỉ muốn chết, vì sống chỉ khiến anh thêm đau đớn. Tôi nói với anh ta:
- Có thể anh sẽ khỏi nếu anh cho tôi khoan hộp sọ của mình, nhưng nhiều khả năng là anh sẽ chết, bởi trong một trăm người chỉ có một người sống sót sau khi bị khoan sọ.
Anh ta đáp:
- Tôi điên mới không đồng ý với đề nghị của ông, bởi vì ít nhất tôi cũng có một phần trăm cơ hội sống, còn nếu tôi tự làm cho đầu mình hết đau, tôi sẽ nằm dài và không bao giờ dậy nữa. Quả thực tôi không tin ông có thể chữa lành cho tôi nhưng nếu ông khoan sọ của tôi, tôi sẽ không phạm tội với thần linh như khi tôi tự kết liễu đời mình. Nếu kết quả trái với dự đoán của tôi, ông chữa cho tôi khỏi bệnh, tôi sẽ vui lòng trao cho ông một nửa những thứ tôi có, không hề ít, còn nếu tôi chết, ông cũng không phải ân hận mà vẫn được nhận một món quà lớn.
Tôi khám anh ta một cách kỹ lưỡng và dùng tay kiểm tra mọi điểm trên đầu anh ta, nhưng sự đụng chạm của tôi không khiến anh ta đau đớn, điểm chạm nào cũng thế. Khi ấy Kaptah nói:
- Ông hãy lấy búa gõ vào đầu anh ta, có mất gì đâu.
Tôi dùng búa gõ vào nhiều chỗ trên đầu anh ta, anh ta không phàn nàn, nhưng đột nhiên thét lên, ngã xuống đất và bất tỉnh. Nên tôi nghĩ có lẽ mình đã tìm thấy điểm tốt nhất trên hộp sọ để khoan. Tôi mời tất cả các danh y Mitanni, những người không tin tôi, đến và nói:
- Có thể tin tôi hoặc không, nhưng tôi sẽ chọc thủng sọ người đàn ông này để chữa cho anh ta, mặc dù nhiều khả năng là anh ta sẽ chết.
Nhưng các thầy thuốc cười nhạo tôi và nói:
- Chúng tôi thật sự muốn nhìn thấy việc đó.
Tôi xin lửa từ đền thờ Amon, tẩy rửa mình và tẩy rửa cả người bệnh quyền quý của tôi rồi tẩy trùng tất cả các thứ trong phòng. Vào giữa trưa khi ánh nắng sáng rõ nhất, tôi bắt đầu bằng việc mở da đầu anh ta và chặn các mạch máu bằng sắt nung đỏ, nói rằng tôi rất lấy làm tiếc về cơn đau mà tôi gây ra, nhưng bệnh nhân của tôi nói cơn đau này không thấm vào đâu so với những cơn đau đầu mà anh ta phải chịu hằng ngày. Tôi cho anh ta uống rất nhiều rượu mà tôi đã pha với các loại thuốc tê khiến mắt anh ta trợn trừng như mắt cá chết và anh ta vẫn rất vui vẻ. Sau đó, tôi rạch lớp da đầu của anh ta một cách cẩn thận nhất có thể bằng các đồ nghề mà tôi có; anh ta thậm chí không ngất mà thở sâu và nói đã cảm thấy nhẹ hơn ngay khi tôi nhấc mẩu xương vừa gỡ ra khỏi chỗ của nó. Lòng tôi mừng rỡ vì chỗ tôi mở là nơi ma quỷ hay linh hồn của mầm bệnh đã đẻ trứng vào đó, như Ptahor đã dạy, nó có màu đỏ và xấu xí, cỡ bằng trứng chim nhạn. Tôi đã dùng tất cả kỹ năng của mình để lấy nó ra, đốt cháy mọi thứ dính với nó trong não rồi đưa nó cho các thầy thuốc xem; họ xem và không cười nữa. Tôi bít hộp sọ bằng một tấm bạc rồi khâu da đầu lên nó; bệnh nhân có ý thức trong suốt thời gian đó. Anh ta đứng dậy, đi lại và cảm ơn tôi rất nhiều vì không còn nghe thấy tiếng ong ong khủng khiếp trong tai và những cơn đau cũng đã dứt.
Từ ca phẫu thuật này, danh tiếng của tôi lan khắp xứ Mitanni và còn bay đến tận Babylon trước tôi. Nhưng bệnh nhân của tôi bắt đầu uống rượu và thỏa mãn ham muốn, cơ thể phát sốt và anh ta mê sảng, đến ngày thứ ba anh ta ra khỏi giường và chạy đi, ngã từ tường thành xuống, gãy cổ và chết. Tuy vậy mọi người ai cũng nói rằng lỗi không phải ở tôi và hết lời khen ngợi tài năng của tôi.
Nhưng Kaptah và tôi thuê một chiếc thuyền, chèo xuôi dòng sông xuống Babylon.
❖ 2 ❖Vương quốc mà Babylon cai trị được gọi bằng nhiều tên, cũng được gọi là Kaldea hay Khossea, theo tên các tộc người sống ở đó. Nhưng tôi gọi nó là Babylon bởi như vậy ai cũng sẽ biết đây là đâu. Đây là một vùng đất màu mỡ, các cánh đồng có rất nhiều kênh tưới tiêu, đất đai bằng phẳng, trải dài hút tầm mắt, khác với Ai Cập. Về mặt này cũng như trong mọi việc, ở đây đều khác, tỷ như ở Ai Cập, đàn bà quỳ gối xuống đất và xoay tròn cối đá để nghiền hạt ngũ cốc, còn ở Babylon, đàn bà ngồi và xoay hai phiến đá vào nhau, nặng nhọc hơn nhiều.
Ở nơi này không có cây cao và cây cối ít đến mức ai chặt cây sẽ bị khép tội chống lại con người lẫn thần linh và trong luật pháp có quy định hình phạt cho tội này. Còn người nào trồng cây, người đó nhận được sự che chở của thần. Dân ở Babylon cũng đẫy đà hơn, béo tốt hơn người ở bất cứ nơi nào khác và họ hay cười, như thường thấy ở những người béo. Họ ăn nhiều chất bột khó tiêu, tôi nhìn thấy trong nhà họ những con chim mà họ gọi là gà không biết bay, chúng sống với người và hằng ngày tặng cho người quả trứng to như trứng cá sấu; tôi kể điều này dù biết sẽ không ai tin nếu chỉ nghe kể. Người ta cho tôi trứng này để ăn và người dân Babylon coi chúng là món khoái khẩu. Tuy nhiên, tôi không dám động vào chúng vì cẩn tắc vô lo, tôi hài lòng với những món ăn mình quen dùng hoặc ít nhất biết chúng được chế biến như thế nào.
Người dân nước này nói Babylon là một trong những thành phố lâu đời nhất và lớn nhất trên thế giới, nhưng tôi không tin lời họ, vì tôi biết Thebes là thành phố lâu đời nhất và lớn nhất. Tôi vẫn tiếp tục nói trên thế giới không có thành phố nào như Thebes nhưng tôi phải thừa nhận rằng Babylon làm tôi ngạc nhiên bởi sự vĩ đại và giàu có của nó, bởi vì tường thành của nó cao như núi và rất đáng sợ, còn những ngọn tháp mà họ xây cho các vị thần của họ vươn tận trời cao. Các ngôi nhà trong thành phố được xây tới bốn, năm tầng nên mọi người ở và sinh hoạt trên hoặc dưới nhau và không ở đâu, ngay cả ở Thebes, tôi thấy các cửa hiệu giàu có, sang trọng và nhiều hàng hóa như trong các thương điếm của đền.
Thần của họ là Marduk và họ đã xây cho Ishtar một cái cổng lớn hơn tháp môn đền Amon, ốp gạch tráng men nhiều màu sặc sỡ, tạo nên những hình ảnh làm lóa mắt người trong ánh nắng ban ngày. Từ cổng này, một con đường rộng rãi dẫn đến Tháp Marduk, tòa tháp được xây thành các tầng với con đường thoai thoải và rộng để đi lên đỉnh tháp, rộng đến mức nhiều xe ngựa có thể chạy cạnh nhau. Trên đỉnh tháp là chỗ ở của các nhà thiên văn, những người biết mọi thứ về các thiên thể, biết tính toán quỹ đạo của chúng và thông báo ngày tốt, ngày xấu để mọi người có thể dựa vào đó thu xếp cuộc sống của họ. Người ta nói họ cũng có khả năng dự đoán tương lai con người nhưng để làm được việc đó, người ta phải biết chính xác ngày, giờ sinh của mình, vì vậy tôi không thể kiểm chứng tài năng của họ, việc mà tôi ao ước làm nhưng lại không biết chính xác giờ sinh của mình.
Tôi có vàng nhiều hơn mức cần phải lấy từ kho bạc của đền bằng cách đổi những bảng đất sét của mình, vì thế tôi ở trong một nhà trọ lớn cạnh Cổng Ishtar, một tòa nhà có nhiều tầng, trên mái trồng nhiều bụi hương đào, có suối chảy róc rách và cá nhảy trong ao. Nhà trọ này là nhà ở dành cho giới quyền quý khi họ từ trang trại của mình đến thành phố mà không có nhà riêng ở Babylon. Cả sứ thần ngoại quốc cũng sống ở đây. Các phòng đều phủ thảm dày, nơi nghỉ được trải các tấm da thú, còn tường là gạch thủy tinh nhiều màu sắc với các hình ảnh đầy tính giải trí và vui nhộn. Tên nhà trọ này là “Vọng lâu Ishtar”, vì nó thuộc về tháp của thần này, giống như tất cả những thứ quan trọng khác ở Babylon. Nếu tính cả người ở và người phục vụ trong tất cả các phòng, tôi tin rằng chỉ riêng tòa nhà đó đã có nhiều người hơn một khu phố của Thebes, dù không ai tin nếu chính mình không sống ở đó.
Không nơi nào trên thế giới có nhiều người tứ xứ như ở Babylon và không nơi nào có thể nghe nhiều thứ tiếng như ở đây, vì chính người dân Babylon nói mọi con đường đều dẫn đến thành phố của họ và Babylon là trung tâm của thế giới. Họ quả quyết rằng vương quốc của họ không nằm ở rìa thế giới, như người Ai Cập vẫn tin, mà ở phía đông sau các dãy núi, là nơi có những vương quốc hùng mạnh, nơi các đoàn lữ hành có vũ khí thỉnh thoảng mang đến những hàng hóa kỳ lạ, vải vóc và loại bát đĩa dễ vỡ. Tôi cũng nói thêm rằng ở Babylon, tôi đã nhìn thấy những người mặt vàng, mắt xếch và họ hoàn toàn không vẽ mặt; họ buôn bán các loại vải mỏng như vải lanh hoàng gia, nhưng mịn màng và đủ loại màu sắc lóng lánh như nước dầu tinh khiết.
Vì người Babylon trước hết là các thương gia nên buôn bán là nghề được coi trọng nhất, đến mức thần linh của họ cũng buôn bán với nhau. Vì vậy họ không ưa thích chiến tranh mà thuê binh lính và cho xây dựng tường thành để bảo vệ việc giao thương của mình. Họ muốn mở rộng các con đường cho tất cả mọi người từ tất cả mọi vùng đất. Họ thật sự muốn làm như thế chỉ vì họ biết mình là những người buôn bán giỏi nhất và được hưởng lợi nhiều từ buôn bán hơn là từ chiến tranh. Nhưng dù vậy, dân Babylon vẫn tự hào về những người lính ngày ngày diễu hành đến Cổng Ishtar, với mũ và tấm che ngực bằng vàng và bạc để bảo vệ các tường thành và đền thờ trong thành phố. Tay kiếm và lưỡi giáo của họ được nạm vàng và bạc để tỏ rõ sự giàu có của mình. Họ thường hỏi: “Này khách lạ, anh đã bao giờ thấy binh lính và những cỗ xe như vậy chưa?”.
Quốc vương Babylon vẫn còn là một cậu bé chưa có râu quai hàm, phải quàng dưới cằm bộ râu giả khi lên ngôi. Tên quốc vương là Burraburiash. Ngài ta thích đồ chơi và những câu chuyện ly kỳ. Danh tiếng của tôi từ Mitanni đã lan đến Babylon nên sau khi tôi đến Vọng lâu Ishtar và đến đền, nói chuyện với các giáo sĩ và danh y của Tháp, tôi được báo rằng quốc vương sai vời tôi đến gặp. Như thường lệ, Kaptah đâm ra lo lắng và nói:
- Ông đừng đến, mà chúng ta hãy mau mau trốn đi, bởi vì không mong có điều gì tốt lành từ các đế vương.
Nhưng tôi nói với ông ta:
- Rõ ngớ ngẩn, ngươi quên là chúng ta có bọ hung đi cùng ư?
Ông ta nói:
- Bọ hung là bọ hung và tôi không bao giờ quên nó nhưng cẩn tắc vô áy náy, mà chúng ta cũng không nên thử thách sự chịu đựng của bọ hung quá nhiều. Nhưng nếu ông nhất quyết đi thì tôi không thể ngăn ông, tôi đi cùng để ít nhất ta chết cùng nhau. Nếu chúng ta sống sót, điều tôi hoàn toàn không tin là có thể, thì khi quay trở lại Ai Cập, tôi sẽ kể rằng mình đã cúi rạp trước quốc vương Babylon. Có mà ngốc mới không tận dụng cơ hội được dâng đến tận miệng như thế này. Nhưng nếu đến đó, chúng ta phải đến làm sao cho xứng với danh tiếng của mình. Ông nên đòi kiệu hoàng gia đến rước và chúng ta không đi hôm nay, vì hôm nay là một ngày xấu theo tập quán của nước này; các thương nhân đã đóng cửa tiệm và người dân không làm việc mà nghỉ ngơi trong nhà, vì hôm nay là ngày thứ bảy của tuần và mọi việc đều đen đủi.
Tôi ngẫm nghĩ và nhận thấy Kaptah nói đúng, bởi cho dù người Ai Cập xem tất cả các ngày như nhau, song vẫn có một số ngày bị coi là ngày xấu nếu chiếu theo các vì sao, vì vậy nếu quả thực ở đất nước này, mỗi thứ bảy là một ngày tồi tệ thì cũng không loại trừ người Ai Cập, nên cẩn tắc vô áy náy. Vì vậy tôi nói với tín sứ của nhà vua:
- Chắc anh nghĩ tôi là một kẻ khờ, một người lạ, nên anh vời tôi đến diện kiến nhà vua vào ngày như thế này. Nhưng ngày mai tôi sẽ đến nếu quốc vương cho kiệu đến đón rước tôi, bởi vì tôi không phải là kẻ tầm thường và không muốn diện kiến nhà vua với những ngón chân dính phân cừu.
Viên tín sứ nói:
- Gã Ai Cập bẩn thỉu kia, ta sợ rằng vì những lời nói đó, mi sẽ được đưa đến trước nhà vua với những mũi giáo nhọn chọc sau lưng.
Rồi anh ta bỏ đi và có lẽ cũng dành cho tôi sự kính trọng nên hôm sau, một chiếc kiệu hoàng gia đã đến Vọng lâu Ishtar để đón tôi. Nhưng đó là loại kiệu thông thường, được dùng để đưa rước các thương nhân và những kẻ thấp hèn mang đồ trang sức và lông chim, lông khỉ đến cung điện. Thế nên Kaptar hét lên với đám rước kiệu và người dẫn đường:
- Lạy Seth và tất cả loài ma quỷ, thần Marduk hãy quất các ngươi bằng roi bọ cạp! Các ngươi hãy xéo ngay! Vì ông chủ của ta không thể ngồi lên cái thứ ọp ẹp đó.
Mấy gã khênh kiệu lúng túng, người dẫn đường giơ gậy đe Kaptah, đám đông kéo đến trước nhà trọ. Họ cười ầm và hò hét:
- Chúng tôi thật sự muốn nhìn thấy chủ của ông, người mà đến kiệu của nhà vua cũng chê là tồi tàn.
Nhưng Kaptah đã thuê của nhà trọ một chiếc kiệu lớn cần tới bốn mươi nô lệ khỏe mạnh để khênh, được các sứ thần đáng kính sử dụng trong các việc quan trọng và được dùng để rước các vị thần ngoại quốc khi họ đến thành phố. Đám đông không còn cười nữa khi tôi từ phòng mình bước ra trong bộ quần áo có những hình đặc trưng của nghề y, được dệt tinh xảo với sợi bạc và vàng, cổ áo lấp lóa vàng và đá quý dưới ánh sáng ban ngày, những sợi dây chuyền vàng leng keng trên cổ, theo sau là các nô lệ của nhà trọ, khiêng những chiếc rương bằng gỗ tuyết tùng và gỗ mun khảm ngà đựng thuốc và dụng cụ y tế của tôi. Lúc đó tuyệt nhiên không một ai cười nữa, chính xác là họ cúi người thật thấp trước tôi và nói với nhau: “Chắc chắn người này phải thông thái như những vị thần nhỏ. Chúng ta hãy đi theo ông ta đến cung điện”. Thế là một nhóm rất đông theo sau kiệu đến tận cổng cung điện. Kaptah cưỡi một con lừa trắng đi phía trước kiệu, những chiếc chuông bạc kêu leng keng trên bộ dây cương. Nhưng tôi không làm tất cả những điều này vì lợi ích của mình mà vì Horemheb, bởi anh ta đã cho tôi nhiều vàng và mắt của tôi là mắt của anh ta, tai của tôi là tai của anh ta.
Tại cổng cung điện, binh lính chĩa giáo xua đuổi đám đông và nâng khiên lên để bảo vệ cổng khiến những chiếc khiên tạo thành một bức tường vàng và bạc, những con sư tử có cánh bảo vệ dọc con đường mà kiệu của tôi được rước đi vào sân trong. Tại đây, một ông già râu quai hàm cạo sạch theo kiểu của các học giả ra đón tôi. Hai tai lúc lắc những chiếc khuyên vàng, hai má sệ xuống đầy vẻ bất mãn, ông ta nhìn tôi bằng ánh mắt bực tức và nói:
- Gan ta đau nhức vì tiếng ồn ào và sự náo động anh gây ra khi đến đây, vì ông chủ của tất cả bốn phương đất hỏi người đàn ông này là ai mà đến theo ý mình chứ không theo lệnh vời của quốc vương và làm ầm ĩ, ồn ào như thế.
Tôi bảo với ông ta:
- Này ông già! Lời ông nói như tiếng ruồi vo ve trong tai tôi, nhưng tôi vẫn muốn hỏi ông là ai mà dám nói chuyện với tôi như vậy.
Ông ta đáp:
- Ta là ngự y của chủ bốn phương đất và là thái y danh giá nhất trong các thái y của ngài, còn ngươi là kẻ lừa đảo nào mà đến đây với các trò ảo thuật hòng dụ vàng, bạc từ nhà vua? Hãy nhớ rằng nếu quốc vương hào phóng đưa cho ngươi bạc hay vàng đã đóng dấu, ngươi phải đưa một nửa số đó cho ta.
Tôi nói với ông ta:
- Ta đâu thèm chấp ông và tốt hơn ông nên nói chuyện với người hầu của ta, vì việc của ông ta là xua đuổi những kẻ tống tiền và những kẻ chọc ngoáy xung quanh ta. Tuy nhiên, ta muốn trở thành bạn của ông vì ông đã già và không biết thế nào là tốt, xấu. Vì vậy ta cho ông những vòng vàng ta đeo ở cổ tay đây để ông thấy vàng và bạc chỉ là cát bụi dưới chân ta và ta đến đây không phải để tìm vàng, mà tìm tri thức.
Nói rồi tôi đưa cho ông ta những chiếc vòng vàng ở cổ tay mình. Ông ta rất kinh ngạc, đến nỗi không biết phải nói gì với tôi nữa. Thế là ông ta đồng ý để Kaptah đi theo tôi và đưa tôi đến diện kiến quốc vương. Vua Burraburiash ngồi trên những tấm nệm mềm, cung thất thoáng mát với những bức tường ốp gạch thủy tinh lấp lánh đủ màu. Vua, chỉ là một cậu bé được nuông chiều, đang ngồi chống tay một bên má, bên cạnh là một con sư tử nằm chầu hẫu, nhe răng gầm gừ khi thấy chúng tôi. Ông già nằm ệp xuống, miệng lau sàn nhà trước mặt vị vua và Kaptah cũng làm như vậy, nhưng khi nghe tiếng gầm gừ của sư tử, ông ta nhổm ngay dậy, tay chống sàn, chân co lại như con ếch và hét lên sợ hãi khiến nhà vua cười phá lên, nghiêng ngả trên nệm. Nhưng Kaptah đã tức giận và nói:
- Hãy dắt con quỷ đáng sợ ấy đi trước khi nó cắn tôi, vì từ xưa đến nay tôi chưa bao giờ nhìn thấy con vật nào đáng sợ hơn, tiếng gầm gừ của nó nghe như tiếng các cỗ chiến xa ầm ầm trên đường phố Thebes khi các vệ sĩ đánh xe ra bãi tập trong cơn say xỉn.
Ông ta ngồi dậy trên sàn và giơ tay ra dấu xua đi, sư tử cũng nhổm dậy và ngáp một lúc lâu, rồi nó ngậm miệng lại, răng va vào nhau kêu lách cách, nghe như tiếng kêu của hộp tiền trong đền khi nuốt những đồng xu công đức của mọi người.
Nhà vua cười đến nỗi nước mắt trào ra, nhưng sực nhớ mình đang đau, ngài rên lên rồi tựa tay vào má trở lại, một bên má ngài sưng đến nỗi mắt chỉ mở được he hé. Ngài cau mày, ông già nhìn ngài rồi vội vã tâu:
- Muôn tâu quốc vương, đây là gã Ai Cập cứng đầu đã không đến khi ngài gọi. Chỉ cần ngài nói một lời, hạ thần sẽ sai quân lính chọc thủng gan gã.
Nhưng nhà vua đưa chân đá ông ta, quát:
- Bây giờ không phải là lúc để nói linh tinh, mà ta muốn biết hắn có thể chữa ngay cho ta không, vì cơn đau của ta thật khủng khiếp và ta sợ mình sẽ chết vì nhiều đêm không ngủ được cũng như không thể ăn gì ngoài súp nóng.
Lúc đó, ông già rên rỉ, đập đầu xuống sàn nhà và tâu:
- Bẩm chúa tể bốn phương đất, chúng thần đã làm hết sức mình để chữa lành cho bệ hạ, chúng thần đã dâng cúng hàm và răng trong đền thờ để xua đuổi tà ma, đã chui vào cằm bệ hạ và cũng đã đánh trống, thổi tù và, ăn vận trang phục đỏ nhảy múa trước bệ hạ để xua tà ma, chúng thần không thể làm gì khác, vì bệ hạ không cho phép chúng thần chạm vào hàm thánh của ngài để chữa lành vết thương cho ngài. Vậy nên hạ thần cũng không tin kẻ lạ mặt bẩn thỉu này có thể làm điều gì tốt hơn.
Nhưng tôi nói:
- Tôi là Sinuhe, Người Ai Cập, Người Cô Đơn, Con Trai Lừa Hoang. Không cần khám cho ngài, tôi cũng biết một chiếc răng sâu đã làm cho má ngài sưng mủ bởi vì ngài đã không cho rửa sạch răng hoặc nhổ nó đi như các thái y của ngài chắc chắn đã khuyên. Đây là căn bệnh của trẻ con và những kẻ hèn nhát, không phải của chúa tể bốn phương đất, người mà cả thiên hạ đều run sợ và sư tử cũng phải cúi đầu, như chính mắt tôi nhìn thấy. Tôi biết cơn đau đớn của ngài rất khủng khiếp, vì vậy tôi muốn giúp ngài.
Nhà vua đưa tay lên má và nói:
- Lời nói của ngươi thật trơ tráo, nếu khỏe mạnh, chắc chắn ta đã cho xẻo cái lưỡi điêu toa trong miệng ngươi và moi gan ngươi, nhưng lúc này không có thời gian cho ta làm điều đó. Hãy nhanh chữa cho ta, rồi ngươi sẽ được trả công hậu hĩnh. Nhưng nếu ngươi làm ta đau, ta sẽ ra lệnh giết ngươi ngay lập tức.
Tôi nói với nhà vua:
- Được, ngài sẽ được như ý. Tôi có một vị thần hộ mệnh nhỏ nhưng vô cùng mạnh mẽ, hôm qua tôi không đến với ngài vì sự có mặt của tôi lúc đó không cần thiết. Nhưng bây giờ, không cần khám tôi cũng biết cơn đau của ngài đã chín muồi, chỗ sưng cần phải chọc đi, và tôi sẽ chữa trị cho ngài nếu ngài muốn, nhưng không thần linh nào có thể bảo vệ con người, kể cả vua, khỏi cơn đau. Tôi cam đoan với ngài rằng ngài sẽ thấy nhẹ nhõm đến mức sau đó ngài không nhớ là mình đã từng đau đớn, và tôi cũng đảm bảo sẽ làm điều đó một cách dễ dàng như một người khéo léo nhất có thể làm.
Nhà vua ngần ngừ một lát, tay để lên má và nhíu mày nhìn tôi. Nếu không bị đau, ngài là một chàng trai trẻ, đẹp, rất tự mãn và khiến tôi cảm mến. Nhà vua cảm nhận được ánh mắt của tôi, ngài cáu kỉnh nói:
- Làm gì thì hãy làm mau đi.
Vị danh y già bắt đầu rên rỉ và đập đầu xuống sàn, nhưng tôi không để ý đến ông ta mà chỉ bảo hâm rượu, rồi tôi trộn thuốc tê vào và đưa nhà vua uống. Chỉ một lúc sau, ngài đã trở nên tươi tỉnh và nói:
- Cơn đau của ta đã giảm, ngươi không cần đến gần ta với kìm và dao nữa.
Nhưng ý chí của tôi mạnh hơn ý muốn của ngài, tôi buộc ngài há miệng, kẹp chặt đầu ngài trong nách mình rồi lấy con dao đã được Kaptah tẩy trùng trong lửa chọc thủng đám mủ ở hàm ngài. Ngọn lửa không phải là lửa thiêng của Amon, vì nó đã bị Kaptah sơ ý làm tắt trong khi đi trên sông và Kaptah đã đánh ngọn lửa mới bằng cái khoan lửa trong phòng tôi ở nhà trọ với niềm tin điên rồ rằng bọ hung cũng mạnh mẽ không kém Amon.
Nhà vua hét toáng lên khi con dao đâm vào hàm ngài khiến sư tử bật dậy gầm gừ, đuôi quất mạnh, mắt rực lửa, nhưng nhà vua không để ý vì đang bận nhổ dãi lẫn nước mủ chảy ra từ hàm và ngài tỏ ra rất dễ chịu; tôi giúp ngài bằng cách ấn nhẹ vào má ngài. Nhà vua khạc nhổ, bật khóc vì sung sướng, rồi lại khạc nhổ và nói:
- Sinuhe, Người Ai Cập, thần thánh đã ban phép cho ngươi, dù ngươi làm ta đau.
Vua lại khạc nhổ liên tục. Vị danh y già nói:
- Thần có thể làm như anh ta, thậm chí còn tốt hơn, nếu như bệ hạ cho phép thần chạm vào cằm thánh của ngài. Nha sĩ của bệ hạ đã có thể làm việc này tốt nhất.
Ông ta rất ngạc nhiên khi tôi nói:
- Ông già này nói đúng, vì ông ấy có thể làm việc đó tốt như tôi và nha sĩ của ngài sẽ làm việc đó tốt nhất. Nhưng ý chí của họ không mạnh bằng ý chí của tôi, vì vậy mà họ không thể giải thoát ngài khỏi cơn đau. Thầy thuốc cũng phải dám làm đau cả nhà vua nếu đó là điều cần thiết và không được sợ vì chính mình. Các thái y của ngài đã sợ nhưng tôi không sợ, bởi với tôi thế nào cũng được, kể cả nếu ngài muốn, ngài có thể cho lính của mình xé nát gan tôi sau khi tôi chữa lành cho ngài.
Quốc vương khạc nhổ, áp tay vào má mình rồi lại khạc nhổ và ngài không còn thấy đau ở má nữa. Rồi ngài nói:
- Ta chưa từng nghe ai nói như ngươi, Sinuhe. Nếu những điều ngươi nói là đúng, ta sẽ không để cho quân lính của ta xé gan ngươi miễn là ngươi không hối tiếc việc đã làm, mà hối tiếc thì có ích gì. Quả thực là ngươi đã làm ta cảm thấy hết sức dễ chịu, vì thế ta tha thứ cho sự hỗn xược của ngươi và tha thứ cho cả tên hầu của ngươi, kẻ đã nhìn thấy đầu ta ở trong nách ngươi và nghe ta rên rỉ. Nhưng ta tha thứ cho hắn vì hắn đã khiến ta cười trở lại sau một thời gian dài bằng điệu nhảy như điên của hắn.
Rồi ngài ta nói với Kaptah:
- Làm lại lần nữa đi.
Nhưng Kaptah hờn dỗi nói:
- Việc ấy không hợp với thanh danh tôi.
Burraburiash mỉm cười và nói:
- Chúng ta xem nào.
Ngài gọi sư tử, nó đứng dậy, duỗi toàn thân khiến các khớp xương kêu răng rắc rồi nhìn ông chủ với đôi mắt gớm ghiếc. Nhà vua chỉ vào Kaptah và con sư tử bắt đầu uể oải nhấc chân đi về phía Kaptah, đuôi vung vẩy. Kaptah lùi lại và nhìn nó chằm chằm như bị thôi miên cho đến khi sư tử đột nhiên há to miệng và gầm vang. Lúc đó Kaptah quay ra, túm lấy tấm rèm cửa vào lòng rồi bám vào đó, trèo lên dầm cửa và hốt hoảng gào lên khi sư tử giơ chân lên, với theo ông ta. Nhà vua cười còn nhiều hơn lúc trước, ngài nói:
- Ta chưa bao giờ nhìn thấy cái gì điên rồ hơn.
Sư tử ngồi trên sàn và liếm mép trong khi Kaptah ngồi trên dầm cửa, vô cùng sợ hãi. Nhưng nhà vua sai gọi đồ ăn thức uống và nói:
- Ta đói rồi.
Lúc đó vị danh y già mới mừng rỡ bật khóc vì thấy vua đã được chữa lành, và người ta mang đến cho vua nhiều món ăn trong các bát đĩa bạc có chạm hình và rượu trong cốc vàng.
Nhà vua bảo tôi:
- Ăn với ta, Sinuhe, mặc dù điều này không hợp với danh vị của ta nhưng hôm nay ta tạm quên điều ấy, bởi ngươi đã dám dúi đầu ta vào nách ngươi và lấy ngón tay khua khoắng trong miệng ta.
Thế là tôi được ăn và uống cùng với nhà vua và tôi nói với ngài:
- Sự đau đớn của ngài giờ đã giảm bớt nhưng nó sẽ tái phát bất cứ lúc nào, trừ khi ngài cho phép nhổ chiếc răng đau đi. Vì thế, ngài phải để nha sĩ nhổ nó ngay khi má của ngài bớt sưng và việc này có thể làm được mà không gây hại cho sức khỏe của ngài.
Vua nhăn mặt, cáu kỉnh nói:
- Ngươi nói những lời không tốt và phá hỏng niềm vui của ta, người lạ điên rồ.
Nhưng sau một lát suy nghĩ, ngài bảo:
- Có lẽ ngươi nói đúng, bởi vì cơn đau của ta tái phát vào mỗi mùa thu và mùa xuân khi chân ta bị ướt, khiến ta đau đớn đến nỗi ước gì mình chết quách đi. Nếu đúng là phải làm như thế thì ta cho phép ngươi, bởi vì ta không còn muốn nhìn thấy ngự y của mình nữa, khi mà hắn ta đã nhiều lần làm ta đau khủng khiếp.
Tôi nói với nhà vua:
- Qua những lời ngài vừa nói, tôi nhận thấy hồi nhỏ, hẳn ngài đã uống nhiều rượu hơn sữa; đồ ngọt không có lợi cho ngài, bởi vì các đồ ngọt ở thành phố này được làm từ nước quả chà là, thứ làm hỏng răng. Còn ở Ai Cập, đồ ngọt được làm từ mật ong, bởi những con chim nhỏ xíu gom nhặt thành những chiếc bánh lớn cho con người. Vậy nên từ nay trở đi, ngài hãy chỉ ăn đồ ngọt của bến cảng và uống sữa mỗi buổi sáng sau khi ngài thức dậy.
Nhà vua nói:
- Chắc ngươi là tay pha trò có hạng, Sinuhe, bởi vì ta không tin những con chim nhỏ gom nhặt kẹo cho con người. Ta chưa bao giờ nghe điều như thế.
Nhưng tôi nói:
- Số phận tôi thật long đong, bởi vì ở đất nước tôi, người ta sẽ gọi tôi là kẻ nói dối khi tôi nói với họ mình đã thấy ở đây những con chim không có cánh, sống cùng với con người và làm quà cho chủ của chúng bằng những quả trứng tươi mỗi sáng để làm cho họ trở nên giàu có. Do đó, tốt hơn tôi không nên nói gì, vì tôi sẽ mất danh tiếng nếu bị cho là kẻ nói dối.
Nhưng nhà vua gạt phắt đi:
- Cứ nói đi, vì không ai nói với ta như ngươi cả.
Lúc đó tôi mới nói một cách nghiêm nghị:
- Tôi sẽ không nhổ răng ra khỏi miệng ngài mà chỉ nha sĩ của ngài được làm điều đó, vì trong những việc như thế này, anh ta là người giỏi nhất ở đất nước này và chắc cũng giỏi hơn tôi, còn tôi thì không muốn làm anh ta ghét tôi. Nhưng nếu ngài muốn, tôi có thể đứng bên cạnh ngài, giữ chặt tay và khích lệ ngài khi anh ta làm việc đó. Đồng thời tôi cũng làm giảm cơn đau của ngài bằng tất cả các kỹ năng mà tôi đã học được ở nhiều miền đất và nhiều bộ tộc. Việc này sẽ được làm sau hai tuần kể từ hôm nay; đặt ngày trước như thế sẽ tốt hơn để ngài không hối tiếc. Cho tới lúc đó, hàm của ngài có đủ thời gian để lành hẳn, nên từ bây giờ, ngài cần súc miệng vào mỗi buổi sáng và tối với thuốc tôi đưa cho ngài, mặc dù nó có thể gây xót và có vị rất khó chịu.
Nhà vua xịu mặt và hỏi:
- Thế ta không làm thì sao?
Tôi nói:
- Ngài phải hứa bằng lời của đấng quân vương rằng ngài cho phép làm như tôi nói, bởi chúa tể bốn phương đất không thể không giữ lời hứa của mình. Nếu ngài cho làm điều đó, tôi sẽ làm ngài vui bằng hết khả năng của mình, tôi sẽ biến nước thành máu trước mắt ngài, đồng thời dạy ngài làm điều đó để ngài có thể làm kinh ngạc các thuộc hạ của mình. Tuy nhiên, ngài phải hứa sẽ không truyền lại bí quyết này cho bất kỳ ai khác, vì đó là bí mật thiêng liêng của các giáo sĩ Amon mà tôi sẽ không biết được nếu không phải là giáo sĩ bậc một, cũng như tôi sẽ không dám truyền dạy cho ngài nếu ngài không phải là quốc vương.
Tôi vừa nói đến đó thì Kaptah đã gào lên nơi dầm cửa và rên rỉ:
- Hãy dắt con quỷ đó đi, nếu không tôi sẽ trèo xuống và giết nó, bởi vì tay tôi đã bị tê và mông tôi đau khi ngồi ở nơi thổ tả không xứng với tôi này. Chắc chắn tôi sẽ trèo xuống và giết con vật đó nếu người ta không dắt nó đi ngay.
Burraburiash càng cười to hơn khi nghe lời đe dọa của ông ấy, nhưng rồi vua giả vờ nghiêm túc và nói:
- Thật đáng tiếc nếu ngươi giết sư tử của ta, vì nó đã lớn lên trước mắt ta và bầu bạn với ta từ khi ta còn bé tí. Bởi vậy ta sẽ bảo nó đi để ngươi không làm điều tàn bạo trong cung điện của ta.
Burraburiash gọi sư tử đến chỗ mình và Kaptah đu xuống theo tấm rèm che rồi đứng cọ xát đôi chân cứng đơ của mình và hậm hực nhìn con sư tử, khiến nhà vua vừa cười vừa đập tay xuống đầu gối và nói:
- Quả thật ta chưa bao giờ nhìn thấy một gã nào điên khùng hơn. Bán hắn cho ta và ta sẽ làm cho ngươi giàu có.
Tất nhiên tôi không muốn bán Kaptah cho nhà vua và vua cũng không ép. Chúng tôi chia tay như bạn bè khi vua bắt đầu gật gù và mắt ríu lại vì thiếu ngủ. Đã nhiều đêm ngài không ngủ được vì đau. Vị danh y già, ngự y của vua, tiễn tôi ra và nói với tôi:
- Qua cách cư xử cũng như lời nói của anh, tôi thấy anh không phải là kẻ lừa đảo, mà là người giỏi giang và có kỹ năng chuyên môn. Nhưng tôi kinh ngạc khi anh dũng cảm nói những lời đó trước mặt vua bốn phương đất, vì nếu danh y nào của ngài dám nói như thế, người đó đã nằm trong chum sành và làm bạn với tổ tiên.
Tôi nói với ông ta:
- Tốt nhất là chúng ta trao đổi với nhau tất cả những gì sẽ xảy ra trong hai tuần tới, bởi vì đó sẽ là một ngày tồi tệ và chúng ta cần dâng lễ cho tất cả các vị thần thích hợp trước ngày đó.
Ông ấy rấ