Sách thứ chín Quán đuôi cá sấu
❖ 1 ❖
Vậy là sau ba năm phiêu bạt trên nhiều miền đất để thu thập tin tức cả tốt lẫn xấu, tôi trở lại Simyra khi đã vào tuổi trung niên chứ không còn là thanh niên trai trẻ. Gió biển thổi bay hơi rượu khỏi đầu tôi, làm mắt tôi sáng trở lại và cơ thể phục hồi, nên tôi đã ăn uống bình thường như những người khác, dù tôi không còn nói nhiều như họ mà thậm chí còn cô đơn hơn trước. Tất nhiên cô đơn là một phần của tuổi trưởng thành nếu điều đó đã được định trước, nhưng tôi đã cô đơn từ khi còn nhỏ và là người xa lạ trên thế gian từ sau khi chiếc thuyền sậy đưa tôi tấp vào bờ sông Nile, nên tôi không cần phải làm quen với điều đó như nhiều người khác mà cô đơn như là nhà và giường với tôi trong đêm tối.
Nhưng khi đứng nơi mũi thuyền trên biển xanh dập dềnh xung quanh mình và gió biển thổi bay mọi suy nghĩ phù phiếm hư vô, tôi vẫn thấy ở nơi xa xăm nào đó đôi mắt sáng như ánh trăng trên biển, nghe tiếng cười lạ thường của Minea từ rất xa và thấy nàng đang nhảy múa trên nền đất bên những con đường Babylon, xiêm áo mỏng tang, trẻ trung và mềm dẻo như cây sậy non. Hình bóng nàng không còn đem lại cho tôi nỗi buồn hay sự dằn vặt mà trong tâm trí tôi, nàng chỉ còn lại như một nỗi đau ngọt ngào con người ta cảm thấy mỗi sáng mai thức dậy khi nhớ về giấc mơ đẹp hơn cuộc đời đêm qua. Vì vậy, khi nghĩ về nàng, tôi mừng vì đã được gặp nàng và không muốn từ bỏ bất cứ khoảnh khắc nào từng được ở bên nàng mà chỉ biết tôi không thể như tôi lúc này nếu như không gặp nàng. Biểu tượng gắn ở mũi thuyền có khuôn mặt phụ nữ dù chỉ là gỗ lạnh và được sơn; đối mặt với gió ở cạnh nó, tôi cảm thấy sức đàn ông trong tôi tràn đầy, mạnh mẽ và biết rằng trong đời mình tôi sẽ vẫn còn vui với nhiều phụ nữ, bởi người cô đơn mà đêm nào cũng đơn chiếc thì thật lạnh lẽo. Nhưng tôi tin rằng đối với tôi, tất cả những người đàn bà khác chỉ là gỗ lạnh và sơn vẽ; khi ôm họ trong bóng tối, tôi sẽ chỉ tìm Minea trong họ; đôi mắt sáng như ánh trăng, hơi ấm của thân hình mảnh dẻ, mùi hương cây bách của làn da đều chỉ khiến tôi nhớ đến Minea. Tôi nói lời từ biệt với Minea như vậy ở mũi thuyền.
Hành trình của chúng tôi thật khó khăn vì gió thổi mạnh và thuyền phải chạy vát để tránh ngược gió nên không ngừng lắc lư, những con sóng ầm ầm như những ngọn núi đập vào hai bên mạn thuyền. Vì thế, những bùa chú không còn giúp ích cho Kaptah, mặc dù ông ấy đã buộc chặt dây quanh bụng nhiều vòng; cả bọ hung cũng không giúp được, nên ông cho thần biển hết mọi thứ, nhịn ăn vì thần và ước giá như mình không được sinh ra trên thế gian này. Nhưng ông ấy không còn sợ chết như trước nữa mà cố tự an ủi trong sự khốn khổ của mình, vì ông biết mình sẽ khỏe lại ngay sau khi đặt chân lên đất liền, dù ông ấy nói không thể nào tin được nếu trước đây chưa trải qua.
Vì thế khi chúng tôi đặt được chân lên đất Simyra, ông ấy úp mặt xuống đất rồi vừa chà miệng vào những tảng đá ở cầu cảng vừa khóc và thề với bọ hung rằng ông sẽ không bao giờ bước chân lên thuyền nữa. Tâm trí tôi cũng tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy những con hẻm chật chội và những ngôi nhà cao của Simyra, trang phục của người đi trên phố, những con chó sắp chết và những đàn ruồi bu quanh giỏ cá, vì tôi đã sống ở Simyra trong hai năm, thành phố trở nên thân thuộc với tôi và là nơi tôi có được những thành công đầu tiên khi làm thầy thuốc chữa bệnh cho nhiều người.
Nhà tôi ở Simyra vẫn ở nguyên chỗ cũ, mặc dù kẻ trộm đã phá cửa sổ và vào lấy đi tất cả những đồ đạc đáng giá mà tôi đã không gửi vào kho của thương điếm khi ra đi. Vì tôi đi vắng quá lâu nên hàng xóm đã bắt đầu dùng khoảng trống trước nhà tôi để làm chỗ đổ rác và phóng uế, vì vậy mùi hôi thối bốc lên thật kinh khủng và lũ chuột chạy dọc nền nhà khi tôi bước vào phòng, quơ mạng nhện nơi ô cửa. Hàng xóm không vui khi thấy tôi, quay lưng đóng sầm cửa trước mặt tôi và nói với nhau: “Anh ta là người Ai Cập và tất cả sự xấu xa đến từ Ai Cập”. Vậy nên lúc đầu tôi ở nhà trọ để cho Kaptah dọn xong nhà rồi mới chuyển về và tôi đến các thương điếm mà tôi đã đầu tư tài sản của mình. Sau ba năm phiêu bạt, tôi nghèo khó trở về Simyra, không những mất hết tài sản tôi có được khi chữa bệnh mà còn mất cả số vàng Horemheb đã đưa cho tôi, phần lớn số đó buộc phải đưa cho các giáo sĩ Babylon để cứu Minea.
Những chủ thuyền giàu có ở các thương điếm vô cùng ngạc nhiên khi thấy tôi và họ bối rối, lo lắng cào cào râu, vì nghĩ rằng đã có được tài sản của tôi khi tôi vắng quá lâu. Tuy nhiên, họ vẫn rất trung thực xem xét việc của tôi và dù tôi đã mất cổ phần của mình vào một số thuyền gặp nạn trên biển, song những thuyền khác đã thu được rất nhiều lợi nhuận nên khi tính gộp lại, hóa ra khi trở về tôi còn giàu hơn so với lúc tôi rời đi và tôi không cần lo lắng đến sinh kế của mình ở Simyra.
Các bạn chủ thuyền của tôi đã mời tôi đến văn phòng của họ, đãi tôi rượu, bánh mật ong và lúng túng phân trần với tôi: “Sinuhe, thầy thuốc của chúng tôi, anh là bạn tốt của chúng tôi nhưng anh là người Ai Cập, và cho dù chúng tôi vui lòng buôn bán với Ai Cập, chúng tôi không hề thoải mái thấy dân Ai Cập cư ngụ nơi góc phố của chúng tôi, vì người dân than phiền rằng họ khổ sở vô cùng với những khoản sưu thuế phải nộp cho Pharaon. Chúng tôi không biết những việc như vậy bắt đầu từ đâu, nhưng quả thật người Ai Cập đã bị ném đá trên đường phố, đền thờ của họ bị ném lợn chết vào và mọi người không muốn xuất hiện trên đường phố với người Ai Cập. Sinuhe ạ, anh là bạn chúng tôi và chúng tôi rất kính trọng anh vì tài chữa bệnh của anh mà chúng tôi vẫn nhớ. Vì thế chúng tôi kể với anh tất cả những điều này để anh biết mà đề phòng và hành xử cho thích hợp”.
Những điều họ nói khiến tôi hết sức kinh ngạc, vì trước khi tôi đi, người Simyra đua nhau kết bạn với người Ai Cập và mời họ đến nhà, và nếu ở Thebes người ta bắt chước tập quán Syria thì ở Simyra người ta cũng học theo phong tục Ai Cập. Tuy nhiên, Kaptah công nhận lời họ nói, ông trở về nhà trọ đầy uất ức:
- Chắc chắn quỷ dữ đã chui vào người bọn Simyra qua lỗ đít, vì chúng cư xử như những con chó điên, vờ như không biết nói tiếng Ai Cập lưu loát và đuổi tôi khỏi tiệm bia mà tôi rẽ vào khi họng tôi khô khốc sau tất cả những việc ông bắt tôi làm, ông chủ ạ. Họ đã đuổi tôi ra khi phát hiện tôi là người Ai Cập rồi gào lên những từ xấu xa sau lưng tôi và bọn trẻ con ném cứt lừa vào tôi. Do vậy tôi đã khôn ngoan hơn khi đến tiệm bia khác, vì quả thật cổ họng tôi khô như bịch rơm và tôi thèm thứ bia mạnh Syria ghê gớm. Tôi không nói gì ở đấy, mặc dù điều đó rất khó đối với tôi, như ông quá biết, lưỡi tôi giống như con vật hiếu động, không bao giờ chịu nằm yên một chỗ. Dù vậy, tôi đã khôn ngoan hơn, không nói lời nào mà chỉ lẳng lặng cắm ống hút của mình vào vò bia cùng với những người khác và lắng nghe họ nói. Họ nói rằng vào ngày xửa xưa, Simyra vốn là một thành phố tự do không phải nộp sưu cho bất kỳ ai, nên họ không muốn con mình sinh ra làm nô lệ cho Pharaon nữa. Các thành phố khác của Syria cũng được tự do, do đó phải đập vỡ sọ và đuổi tất cả người Ai Cập ra khỏi các thành phố của Syria, đó là nhiệm vụ của tất cả những ai yêu tự do và thấy chán sống cuộc đời nô lệ của Pharaon. Họ nói những điều ngu ngốc như vậy, mặc dù ai cũng biết rằng Ai Cập chỉ bảo vệ Syria vì lợi ích của chính Syria chứ đâu được lợi lộc gì nhiều; người Ai Cập chỉ quên mình bảo vệ người Syria khỏi đánh nhau, vì nếu để họ tự cai quản, các thành phố Syria sẽ như lũ mèo hoang trong bao tải, sẽ tranh cãi, gây chiến và cấu xé nhau khiến việc chăn nuôi, trồng trọt cũng như buôn bán bị thiệt hại nghiêm trọng. Điều này người Ai Cập ai cũng biết, vì mỗi đứa trẻ đều được dạy như vậy ở trường, mặc dù tôi không được đến trường mà chỉ ngồi ở cổng trường chờ thằng con trai hư hỏng của một trong những ông chủ cũ của tôi, đứa luôn đá vào chân tôi và đâm cây bút viết vào những chỗ hiểm của tôi. Tôi không muốn kể với ông chuyện này mà chỉ nhắc lại những gì tôi nghe được ở quán bia, vì những người Syria ở đó ngạo mạn về sức mạnh của mình, họ nói về liên minh giữa các thành phố của Syria, khiến người Ai Cập là tôi phát ngán với điều họ nói nên đã bỏ đi khi chủ quán không để ý, bỏ bia lại không trả tiền và bẻ gãy ống hút bia của mình.
Tôi không cần đi lại nhiều trong thành phố mới thấy những gì Kaptah nói là thật. Thực ra tôi không bị đánh đuổi vì tôi đã học cách mặc quần áo Syria, nhưng những người quen biết tôi trước đây quay mặt đi khi nhìn thấy tôi và người Ai Cập đi lại trong thành phố đều có người đi theo bảo vệ, dù thế họ vẫn bị chế nhạo, bị ném trái cây thối và cá chết vào người. Song tôi không coi những điều này là quá nguy hiểm, vì người Simyra có lẽ bực tức với các loại thuế mới và tình trạng hỗn loạn như vậy thường qua đi rất nhanh, vì Syria cũng được hưởng lợi từ Ai Cập như Ai Cập nhận được từ Syria và tôi không tin rằng các thành phố ven biển sẽ tồn tại được lâu nếu không có ngũ cốc của Ai Cập.
Vì vậy tôi đã cho sửa sang lại nhà mình và tiếp nhận người bệnh, chữa cho họ như trước và bệnh nhân đã tìm đến tôi như xưa sau khi biết tin tôi trở về, bởi bệnh tật và đau đớn không gặng hỏi tộc tính mà chỉ cần tài năng của thầy thuốc. Tuy nhiên, bệnh nhân thường tranh cãi với tôi:
- Ông là người Ai Cập, ông nói xem, Ai Cập thu thuế và hưởng lợi từ chúng tôi, như đỉa béo mầm hút máu từ sự nghèo khó của chúng tôi, vậy là đúng ư? Cả quân đồn trú Ai Cập đóng trong thành phố cũng là một sự ô nhục đối với chúng tôi, vì chúng tôi có thể tự mình duy trì trật tự trong thành phố và chống lại được kẻ thù của mình, nếu người ta cho chúng tôi cơ hội để làm điều đó. Chúng tôi không được xây dựng lại các bức tường và sửa chữa các tháp của mình, điều đó thật không đúng một khi chúng tôi muốn và đồng ý trả tiền cho việc này. Vua quan của chúng tôi cũng có thể trị vì chúng tôi tốt và đúng, không cần người Ai Cập can thiệp vào việc đăng quang của quốc vương chúng tôi hay việc thực thi pháp luật của chúng tôi. Thề có thần Baal, không có người Ai Cập, chúng tôi sẽ thành công và thịnh vượng, nhưng người Ai Cập như bầy châu chấu trên cổ chúng tôi và Pharaon của các ông cố tình bắt chúng tôi nhận thần mới khiến chúng tôi mất đi sự ưu ái dành cho các thần của mình.
Tôi không muốn tranh luận với họ, nhưng vẫn nói:
- Các ông xây tường và tháp chống lại ai, nếu không phải Ai Cập? Quả là vào thời cụ kỵ tổ tiên của các ông, có lẽ thành phố tự do trong các tường thành của mình, nhưng các ông đã đổ máu và trở nên khánh kiệt trong vô số cuộc chiến với các nước lân bang mà cho đến bây giờ các ông vẫn còn căm thù, còn các quốc vương của các ông thì chuyên quyền, khiến người giàu cũng như kẻ nghèo khó mà được an toàn với họ. Bây giờ khiên đao, giáo mác của Ai Cập bảo vệ các ông trước kẻ thù và luật pháp Ai Cập bảo đảm công lý cho cả người giàu lẫn người nghèo.
Nhưng họ đã nổi nóng, mắt bắt đầu long lên hằn tia máu, cánh mũi phập phồng và họ nói:
- Tất cả luật pháp của Ai Cập đều là cứt, và thần linh Ai Cập là những thứ kinh tởm với chúng tôi. Nếu các quốc vương của chúng tôi hành xử độc đoán và sai trái, điều mà chúng tôi không tin vì đó chỉ là lời dối trá của Ai Cập để chúng tôi quên đi tự do, họ vẫn là quốc vương của chính chúng tôi và tim chúng tôi mách bảo rằng sự bất chính trong một xứ sở tự do còn tốt hơn công lý ở một vương quốc nô lệ.
Tôi vặc lại họ:
- Tôi không thấy ở các ông những dấu hiệu của kẻ nô lệ mà trái lại các ông phát phì và luôn miệng khoe khoang đã giàu lên từ sự ngu dốt của Ai Cập. Nhưng nếu các ông tự do, có lẽ các ông sẽ cướp thuyền bè của nhau, chặt phá vườn tược, cây trái của nhau và tính mạng các ông không còn an toàn khi đi vào sâu trong đất liền.
Nhưng họ không nghe tôi mà quăng quà của mình ra trước mặt tôi và vừa bỏ đi vừa nói:
- Trong tim mình, ông là người Ai Cập, mặc dù ông mặc quần áo Syria. Mỗi người Ai Cập là một kẻ áp bức và bất lương, người Ai Cập tốt bụng luôn luôn là người Ai Cập đã chết.
Nghe những điều ấy, tôi không còn ưa Simyra nữa mà bắt đầu thu gom của cải còn lại của mình và chuẩn bị rời khỏi đây để trở về Ai Cập, vì tôi đã hứa sẽ gặp Horemheb và kể cho anh ấy những gì mình đã thấy ở các miền đất tôi đến. Tuy nhiên, khi nghĩ mình sẽ lại được uống nước sông Nile, một cảm giác lạ lùng chế ngự trong tim, nên tôi không vội đi ngay.
Một buổi tối, khi tôi trở về từ đền thờ Ishtar, nơi tôi thỉnh thoảng đến như kẻ đang khát cần nước uống mà không quan tâm nước từ giếng nào, mấy người đàn ông từ phía tường thành đi lại phía tôi và nói với nhau: “Không phải gã kia là người Ai Cập à? Chả lẽ chúng ta để cho một kẻ đã cắt bao quy đầu ăn nằm với các trinh nữ của chúng ta và làm mất uy tín đền thờ của chúng ta?”.
- Tốt hơn nên gọi trinh nữ của các anh bằng một cái tên khác, - tôi nói. - Họ không nhìn người đàn ông qua bề ngoài hay tộc tính mà cân đong niềm vui của mình bằng số vàng người đó có trong ví, và tôi không chê trách họ về điều đó, vì bản thân tôi đã vui vẻ cùng họ và tôi sẽ tiếp tục bất cứ khi nào tôi muốn.
Nghe thế, chúng kéo áo choàng lên che mặt rồi lao đến, quật tôi xuống đất và đập đầu tôi vào tường cho đến khi tôi nghĩ mình sắp chết đến nơi. Nhưng khi chúng bắt đầu trấn lột và kéo quần áo của tôi ra để ném xác tôi xuống cảng, một trong số chúng nhìn rõ mặt tôi và hỏi:
- Đây không phải là Sinuhe, danh y Ai Cập và là bạn của vua Aziru ư?
Tôi nhận mình là Sinuhe và nói tôi sẽ giết chúng và ném xác chúng cho chó, vì đầu tôi đau nhức vô cùng và tôi rất tức giận nên không nghĩ gì đến sợ hãi. Khi ấy chúng buông tôi ra, trả lại quần áo cho tôi và vừa bỏ chạy vừa kéo áo choàng lên che mặt. Tôi hoàn toàn không hiểu tại sao chúng làm như thế, vì chúng không có lý do gì để sợ những lời đe dọa của tôi khi tôi thật sự bất lực trong tay chúng.
❖ 2 ❖Vài ngày sau, một tín sứ cưỡi ngựa đến trước nhà tôi, một hình ảnh hiếm gặp, vì người Ai Cập không bao giờ ngồi lên lưng ngựa và người Syria cũng rất ít khi, chỉ lũ cướp vô học ở vùng hoang mạc mới cưỡi ngựa. Ngựa là loài vật cao lớn và hung dữ, nó đá và húc, hất bất kỳ ai cố trèo lên lưng và cưỡi nó, khác hẳn lừa vốn quen chịu tất cả. Những con ngựa được thắng vào trước cỗ xe cũng trở nên đáng sợ và chỉ những chiến binh đã qua huấn luyện mới biết điều khiển chúng bằng cách đút ngón tay vào lỗ mũi chúng. Dù thế nào, người đàn ông này cũng đang cưỡi trên lưng ngựa đến trước nhà tôi, thân con ngựa ướt đẫm, miệng rỉ máu và nó thở phì phì rất đáng sợ. Qua quần áo của người đàn ông, tôi nhận ra anh ta đến từ núi cừu và nhìn nét mặt, tôi đoán anh ta đang rất hoảng sợ.
Viên tín sứ nhào đến chỗ tôi vội đến mức không kịp cúi đầu trước tôi mà đặt tay lên trán để chào và hoảng hốt kêu lên:
- Hãy sai lấy kiệu của ông đi, danh y Sinuhe, đi theo tôi nhanh lên vì tôi từ xứ Amori đến và vua Aziru sai tôi đến đón ông. Con trai ngài bị bệnh mà không ai biết bệnh gì, nhà vua gầm gào như sư tử nơi rừng hoang và nói sẽ cắt chân tay ai đến gần ngài. Vì thế, hãy lấy tráp thuốc của ông và đi theo tôi nhanh lên, nếu không tôi sẽ cắt cổ ông và lấy chân đá đầu ông trên đường phố.
- Quốc vương của anh khó dùng được đầu của tôi, vì không có đôi tay thì đầu tôi không thể chữa cho ai được, - tôi nói với anh ta. - Nhưng tôi bỏ qua cho sự hồ đồ của anh và đi theo anh. Không phải vì tôi sợ những lời đe dọa của anh, mà vì vua Aziru là bạn tôi và tôi muốn giúp ngài.
Tôi bảo Kaptah gọi kiệu và vui vẻ theo viên tín sứ, vì tôi đang cô đơn đến nỗi chỉ mong được gặp Aziru, người mà tôi đã từng lấy vàng bọc răng cho. Nhưng tôi chẳng vui được lâu, vì khi đến đầu hẻm núi, tôi bị nhấc sang một chiến xa cùng với tráp đồ nghề, những con ngựa hoang dã hồng hộc kéo xe đi dọc theo triền núi đá và vượt qua đèo dốc khiến tôi nghĩ các bộ phận trên cơ thể mình bị nghiền nát nhừ và tôi thét lên vì sợ hãi, còn người hộ tống tôi bị bỏ lại đằng sau trên lưng con ngựa mệt mỏi của anh ta và tôi mong anh ta sẽ ngã gãy cổ.
Đến sau dãy núi, người ta quẳng tôi cùng với tráp đồ nghề từ cỗ chiến xa này sang cỗ xe khác và được những con ngựa sung sức kéo, khiến tôi không còn biết mình đứng bằng chân hay bằng đầu và tôi không thể làm gì khác hơn là hét lên với những người đánh xe: “Lũ chết tiệt, lũ thối tha, lũ bẩn thỉu!” và nắm chặt tay đấm vào lưng họ khi đến đoạn đường bằng phẳng hơn và tôi dám bỏ tay nắm khỏi hai bên thành xe. Nhưng họ không thèm để ý mà chỉ kéo dây cương và quất mạnh roi khiến chiếc xe ngựa chồm chồm qua những tảng đá và lúc ấy tôi nghĩ bánh xe sẽ bị rơi ra.
Theo cách đó, hành trình đến xứ Amori không mất nhiều thời gian, và chúng tôi đã đến một thành phố với những bức tường cao mới xây bao quanh trước khi mặt trời lặn. Quân lính vác khiên đao đi lại trên tường thành nhưng cổng thành đã được mở sẵn cho chúng tôi và chiến xa phóng qua thành phố giữa tiếng lừa kêu, tiếng la hét của đám đàn bà và trẻ em, những giỏ trái cây bị bắn lên không trung và vô số nồi, vò bị nghiền nát dưới bánh xe, vì người đánh xe không thèm để ý xe đè lên ai và những gì. Khi được nhấc ra khỏi xe ngựa, tôi không thể bước được nữa mà chỉ lảo đảo trên đôi chân như kẻ say, buộc các tay xà ích phải xốc nách và đưa tôi vào nhà Aziru, còn lũ nô lệ bê tráp thuốc đi theo phía sau tôi. Nhưng chúng tôi mới chỉ vừa đến phòng chờ treo đầy khiên, áo giáp che chắn ngực, giáo cắm lông và đuôi sư tử, Aziru đã xông ra đâm sầm vào tôi, miệng gầm vang như con voi bị thương. Anh ta đã xé quần áo mình, làm tóc dính đầy tro và còn lấy móng tay cào mặt khiến da mặt bị xước và rỉ máu.
- Các ngươi đã nán lại ở đâu, quân chết tiệt, đồ ăn hại, lũ ốc sên, - anh ta gầm lên và giật giật bộ râu xoăn tít, khiến những dải ruy băng vàng buộc râu lóe lên như chớp. Anh ta đấm những tay xà ích đang dìu tôi vào và gầm gừ như thú dữ:
- Các ngươi chần chừ ở đâu, lũ đầy tớ chết tiệt, khi con trai ta sắp chết?
Các tay xà ích vội thanh minh:
- Bẩm quốc vương, bề tôi đã bắt bầy ngựa phóng nhanh đến đứt hơi và lao qua những ngọn núi nhanh hơn chim bay. Công lao lớn nhất ở đây thuộc về danh y mà bề tôi đã đón được vì ông ta sùng sục muốn nhanh đến để chữa cho con trai quốc vương, ông ta gào thét khích lệ khi bề tôi mệt mỏi và đấm vào lưng bề tôi khi xe bị chậm lại, điều mà bề tôi không bao giờ tin người Ai Cập sẽ làm và bề tôi nghĩ chưa bao giờ có ai vượt qua quãng đường từ Simyra đến Amori trong một thời gian ngắn như vậy.
Khi ấy Aziru ôm chặt lấy tôi, vừa khóc vừa nói:
- Hãy chữa lành cho con trai tôi nhé, Sinuhe, chữa lành cho nó, tất cả những gì của tôi cũng sẽ là của anh.
Nhưng tôi nói với anh ta:
- Trước tiên hãy đưa tôi đến chỗ con trai anh, lúc đó tôi mới biết có thể chữa được không.
Anh ta vội vàng dẫn tôi đến một phòng lớn, nơi chậu than đang bốc lên hừng hực dù đang là mùa hè, khiến trong phòng nóng bức và ngột ngạt đến tức thở. Ở giữa sàn có một cái nôi và trong nôi, đứa bé chừng chưa đầy tuổi trong bộ đồ len đang gào khóc và la hét. Nó gào khóc đến tím tái mặt mũi và mồ hôi đọng từng giọt trên má; mái tóc nó đen và dày giống cha dù vẫn còn rất nhỏ. Tôi nhìn thằng bé và thấy nó không có bệnh gì nguy hiểm cho lắm vì nếu sắp chết, nó không thể gào lên điên cuồng như vậy. Tôi cũng nhìn xung quanh và thấy trên sàn, bên cạnh cái nôi là Keftiu, thiếu phụ mà tôi đã tặng cho Aziru làm vợ, cô ta béo và trắng hơn trước nhiều, da thịt bóng mượt rung rinh khi cô ta buồn bã đập trán mình lên sàn nhà và gào rên, khóc lóc. Từ góc phòng vang lên tiếng hét và khóc của một đám nô lệ và vú nuôi với những vết bầm tím trên mặt vì bị Aziru đánh khi họ không thể giúp con trai anh ta.
- Đừng lo, Aziru, - tôi nói. - Con trai anh sẽ không chết, nhưng tôi muốn rửa ráy cho cậu bé trước khi thăm khám. Có điều hãy cất cái chậu than đáng nguyền rủa kia đi, nếu không chúng ta sẽ ngạt thở ở đây.
Lúc đó, Keftiu đột nhiên ngẩng đầu lên khỏi sàn và sợ hãi nói:
- Thằng bé có thể bị cảm lạnh.
Nhưng sau đó cô ta nhìn tôi một lúc lâu rồi mỉm cười, ngồi dậy sửa tóc và váy áo, rồi lại mỉm cười và hỏi:
- Sinuhe, có phải anh không?
Nhưng Aziru vặn vẹo đôi tay và bảo:
- Thằng bé không ăn mà nôn ngay ra những gì ăn vào, người nó nóng và nó gần như không ăn gì trong ba ngày mà chỉ khóc, khiến tim tôi quặn thắt khi nghe tiếng hét gào của nó.
Tôi bảo anh ta đuổi vú nuôi và nô lệ ra khỏi phòng, anh ta ngoan ngoãn làm theo, quên hẳn mình là vua. Rửa ráy cho thằng bé xong, tôi cởi quần áo len của nó ra rồi cho mở cửa sổ để căn phòng được thông thoáng, luồng khí đêm mát lành từ bên ngoài ùa vào. Thằng bé im bặt, chân tay bụ bẫm bắt đầu vung đạp và không còn gào hét nữa. Khám người và bụng của nó, tôi thấy ngờ ngợ nên đút ngón tay vào miệng nó, và tôi đã đoán đúng: chiếc răng đầu tiên đã nhú ra như một hạt ngọc trắng trong hàm thằng bé.
Lúc ấy tôi cáu kỉnh gắt lên:
- Aziru, Aziru! Vì thế này mà anh đã cho những con ngựa hoang đến đón danh y lành nghề nhất của Syria ư, vì dù không muốn tự khen, tôi có thể nói rằng tôi đã học được rất nhiều từ chuyến đi của mình tới các miền đất khác nhau. Con anh không đau ốm gì cả, nó chỉ thiếu kiên nhẫn và cáu bẳn hệt như cha mình, và có lẽ nó bị sốt nhẹ, nhưng đã hết rồi. Nó đã nôn tức là nó rất khôn ngoan khi làm việc đó để giữ mạng sống của mình, vì các người đã nhét cho nó quá nhiều sữa béo. Đã đến lúc Keftiu nên cai sữa cho nó và cho thằng bé làm quen với thức ăn thích hợp, nếu không nó sẽ cắn đứt núm vú mẹ mình, điều mà tôi nghĩ sẽ làm anh buồn khổ, vì có lẽ anh vẫn muốn vui thú với vợ. Anh cần biết rằng con trai anh khóc vì thiếu kiên nhẫn khi chiếc răng đầu tiên nhú lên và nếu không tin tôi, anh hãy tự xem đi.
Tôi vạch miệng thằng bé và chỉ cho Aziru xem chiếc răng, anh ta òa lên mừng rỡ, vỗ tay và nhảy xung quanh, chân giậm xuống sàn nhà thình thịch. Tôi cũng cho Keftiu xem chiếc răng và Keftiu nói cô ta chưa bao giờ nhìn thấy một chiếc răng đẹp như vậy trong miệng một đứa trẻ. Nhưng khi cô ta gắng quấn cậu bé vào bộ đồ len một lần nữa, tôi đã ngăn lại và bảo chỉ cần quấn vải mát xung quanh để đứa bé không bị cảm lạnh vào buổi tối.
Aziru giậm chân thình thịch, vừa múa vừa hát, giọng ồm ồm, không hề ngượng ngùng vì đã bắt tôi vượt cả quãng đường dài vô ích, mà còn muốn cho các quý tộc và cận thần thấy răng con trai mình; anh ta cho gọi cả lính gác từ trên tường thành xuống xem chiếc răng, họ chen nhau xúm quanh nôi, vừa làm giáo khiên chạm nhau loảng xoảng vừa kinh ngạc ngắm đứa trẻ và cố đưa những ngón tay cái bẩn thỉu vào miệng nó để thấy chiếc răng cho đến khi tôi đuổi tất cả ra khỏi phòng và nhắc nhở Aziru hãy coi trọng phẩm giá và làm chủ bản thân mình.
Aziru bối rối nói:
- Có lẽ đúng là tôi đã mất bình tĩnh và quá lo lắng sau nhiều đêm thức bên nôi con trai, tim quặn đau vì tiếng khóc của con, nhưng anh phải hiểu thằng bé là con trai tôi, là đứa con đầu của tôi, thái tử của tôi, con mắt của tôi, viên ngọc của tôi, sư tử nhỏ của tôi, và một ngày nào đó, con tôi sẽ đội vương miện của Amori và cai trị nhiều dân tộc, vì quả thật tôi muốn xây dựng Amori thành một vương quốc vĩ đại, để con tôi có cái được thừa hưởng và sẽ ca ngợi danh tiếng của cha mình. Sinuhe, Sinuhe, anh không biết tôi biết ơn anh như thế nào khi anh dời được tảng đá ra khỏi trái tim tôi, vì chắc anh phải công nhận rằng chưa bao giờ nhìn thấy thằng bé nào khôi ngô như thế, mặc dù anh đã chu du qua nhiều miền đất. Giả dụ anh hãy nhìn vào mái tóc của nó, cái bờm sư tử đen trên đầu nó, và nói cho tôi biết anh đã nhìn thấy mái tóc nào như vậy trên đầu một đứa trẻ ở độ tuổi đó chưa! Bản thân anh cũng thấy răng của thằng bé giống như viên ngọc, hoàn hảo và long lanh, chân tay và bụng của thằng bé giống như một cái thùng nhỏ.
Tôi thấy ngán ngẩm với những lời huyên thiên của anh ta đến mức tôi bảo anh ta hãy cùng con trai cút xuống địa ngục, và nói chân tay tôi rời rã, mỏi nhừ vì chuyến đi khủng khiếp, đến nỗi tôi không biết mình đang đứng bằng đầu hay bằng đôi chân đây. Nhưng anh ta vòng tay qua vai tôi, xoa dịu tôi rồi mời tôi nhiều món ăn từ khay bạc, như thịt cừu chiên, yến mạch nấu trong mỡ, và rượu từ cốc vàng, cho đến khi tôi lại sức và tha thứ cho anh ta.
Thế là tôi đã nán lại nhiều ngày với tư cách là khách của vua và anh ta đã cho tôi rất nhiều quà, cả vàng và bạc, vì anh ta đã giàu lên rất nhiều kể từ lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau. Nhưng bằng cách nào mà tiểu quốc nghèo khổ của anh ta giàu lên như thế, anh ta không muốn nói mà chỉ mỉm cười sau bộ râu quăn tít của mình và khẳng định người vợ mà tôi tặng anh ta đã mang lại cho anh ta may mắn. Keftiu cũng đối xử thân mật với tôi và rất kính trọng tôi, hẳn vì còn nhớ cây gậy mà rất nhiều lần tôi dùng để thử thách độ bền của làn da cô ta, và đi theo tôi với điệu bộ đung đưa, ngúng nguẩy của mình, nhìn tôi âu yếm và mỉm cười với tôi. Hình dáng đẫy đà và nước da trắng trẻo của cô ta cũng làm lóa mắt tất cả tướng lĩnh của Aziru, vì người Syria thích phụ nữ mập mạp chứ không như người Ai Cập, cũng như họ có những tập quán khác với người Ai Cập. Vì thế, các nhà thơ Amori đã làm thơ ngợi ca cô ta và ngân nga chúng với những điệp khúc kéo dài và những lời tương tự được lặp lại; lính gác tường thành cũng hát những bài ca ngợi cô ta, vì vậy Aziru rất hãnh diện về cô và yêu cô một cách cuồng nhiệt, nên rất ít khi anh ta đến thăm những thê thiếp khác của mình và chỉ làm điều này cho phải phép, vì anh ta lấy con gái của các tù trưởng Amori làm vợ nhằm ràng buộc tất cả các tù trưởng với vương quyền của mình.
Vì tôi đã đi nhiều và thấy nhiều miền đất nên anh ta thấy cần phải khoe khoang về vương quyền của mình và kể với tôi nhiều điều mà sau này có thể anh ta sẽ thấy ân hận. Tôi được nghe kể lại chính anh ta đã sai những kẻ che mặt đánh tôi ở Simyra, định ném tôi xuống nước ở cảng vì tôi là người Ai Cập và chính chúng đã báo với anh ta là tôi đã trở lại Simyra. Anh ta rất lấy làm tiếc về những gì đã xảy ra, nhưng vẫn nói:
- Còn phải đập vỡ sọ nhiều dân Ai Cập hơn và nhiều binh sĩ Ai Cập sẽ bị ném xuống cảng trước khi Simyra, Byblos, Sidon và Gaza cuối cùng cũng nhận ra không phải Ai Cập là bất khả xâm phạm và máu người Ai Cập có chảy và linh hồn họ rời khỏi thể xác khi da họ bị dao đâm thủng. Vì thương lái Syria thận trọng đến khó chịu, các quốc vương của họ hèn nhát và người dân chậm chạp như bò, nên những người khôn ngoan hơn phải đi tiên phong và cho họ thấy bằng ví dụ, những gì thuộc về lợi ích của họ.
Tôi hỏi anh ta:
- Vì sao cần phải làm như thế và tại sao anh lại ghét người Ai Cập đến vậy, Aziru?
Aziru vừa vuốt bộ râu xoăn vừa nhìn tôi cười tinh quái và nói:
- Ai bảo tôi ghét người Ai Cập, Sinuhe? Tôi đâu có ghét anh, mặc dù anh là người Ai Cập. Tôi cũng là một đứa trẻ lớn lên trong nhà vàng của pharaon, như cha tôi trước đây và giống như tất cả các quân vương của Syria, nhờ thế tôi biết phong tục Ai Cập, tôi có thể đọc và viết, mặc dù các thầy giáo đã giật mái tóc xoăn của tôi và thường xuyên dùng thước đập vào ngón tay tôi nhiều hơn những đứa trẻ khác vì tôi là người Syria. Nhưng nếu chỉ vì thế, tôi sẽ không ghét người Ai Cập, vì khi trí tuệ và hiểu biết của tôi tăng dần, tôi học được ở Ai Cập rất nhiều điều khôn ngoan mà tôi có thể dùng để chống lại Ai Cập. Tôi đã học được rằng nếu là người văn minh thì tất cả các dân tộc rốt cuộc đều giống nhau và không có sự khác biệt giữa các dân tộc, vì mọi đứa trẻ trên thế gian sinh ra đều trần truồng dù đó là người Syria hay người Ai Cập. Không phải dân tộc này dũng cảm hay hèn nhát hơn, ác độc hay đáng thương hơn, công bằng hay bất công hơn dân tộc khác, mà trong tất cả các dân tộc đều có người anh hùng và kẻ hèn nhát, người đúng và kẻ sai, cả ở Syria và Ai Cập cũng thế. Do đó, bản thân các đấng minh quân và bậc vương quyền không hận ai và không có sự khác biệt giữa các dân tộc, nhưng sự thù hận là một sức mạnh ghê gớm trong tay kẻ trị vì, mạnh hơn cả vũ khí, vì không có lòng thù hận thì cánh tay không có đủ sức mạnh để nâng vũ khí. Tôi sinh ra làm người cầm quyền và ra lệnh, vì dòng máu của các quốc vương Amori chảy trong huyết quản tôi, và vào thời Hykos xa xưa, dân tộc tôi đã thống trị tất cả các dân tộc từ biển này sang biển khác. Vậy nên tôi sẽ làm hết sức mình để gieo rắc hận thù giữa Syria và Ai Cập, để thổi viên than đang nguội dần hừng lên và một khi phát lửa, nó sẽ bùng lên và thiêu rụi quyền lực của Ai Cập khỏi Syria. Vì thế tất cả các thành phố và bộ tộc trên khắp Syria phải học để biết người Ai Cập đáng khinh, hèn nhát, độc ác, tinh quái, tham lam và vô ơn hơn người Syria. Họ phải học để biết nhổ nước bọt khi nghe nhắc đến người Ai Cập và phải thấy người Ai Cập là những kẻ áp bức, những kẻ hút máu, những kẻ tra tấn đánh đập và hiếp dâm trẻ em, cho đến khi lòng thù hận của họ đủ lớn để dời cả núi.
- Nhưng điều đó không đúng, như anh đã nói, - tôi lưu ý anh ta.
Anh ta xòe hai lòng bàn tay ra và vừa cười vừa hỏi:
- Sự thật là gì, Sinuhe? Sau khi đã hấp thụ vào huyết quản của mình đủ sự thật mà tôi truyền tải, họ sẽ thề với tên của tất cả thần linh rằng điều đó là đúng, họ sẽ không tin nếu ai bảo đó là lời dối trá mà sẽ coi người đó là kẻ phỉ báng và đáng bị đánh chết. Họ phải tin rằng họ mạnh mẽ hơn, dũng cảm hơn và chính trực hơn bất kỳ dân tộc nào khác trên thế giới, tin rằng họ yêu tự do hơn cái chết, sự đói khát và áp bức nên họ sẵn sàng trả mọi giá cho tự do của mình. Tôi sẽ dạy cho họ điều này; tôi đã khiến nhiều người tin vào sự thật của mình và cứ một người tin sẽ truyền niềm tin cho người khác, cho đến khi đất âm ỉ cháy trên khắp Syria. Một sự thật nữa là Ai Cập đem đến Syria lửa và máu, nên giờ đây lửa cũng sẽ cháy và máu cũng sẽ đổ khi Ai Cập bị đuổi khỏi Syria.
- Tự do mà anh nói với họ là gì? - Tôi hỏi vì những điều anh ta nói làm tôi thấy sợ cho Ai Cập và tất cả những khu kiều dân, vì họ là đồng bào tôi.
Anh ta lại xòe hai lòng bàn tay và mỉm cười độ lượng:
- Tự do là một từ có nhiều nghĩa, người hiểu thế này, kẻ hiểu thế khác, nhưng điều đó không thành vấn đề cho đến khi giành được tự do. Để giành được tự do cần nhiều người, nhưng một khi đã giành được tự do thì cách giữ nó chắc chắn nhất vẫn là giữ cho riêng mình chứ đừng chia sẻ cho nhiều người. Vì thế tôi nghĩ sẽ có một ngày xứ sở Amori sẽ được gọi là cái nôi tự do của Syria. Tôi cũng có thể nói với anh một dân tộc tin tất cả những gì người ta nói với họ sẽ như một đàn bò bị gậy nhọn lùa ra khỏi cổng, hay một bầy cừu đi theo cừu đực mà không cần biết cừu đực dẫn đi đâu. Có lẽ tôi vừa là gậy nhọn vừa là cừu đực.
- Tôi ngờ anh đúng là đầu cừu ngốc nghếch, - tôi nói, - vì anh nói những điều như thế, bởi đó là những lời nguy hiểm mà nếu nghe được, Pharaon có thể gửi chiến xa và giáo thủ sang bắt anh, phá đổ tường thành rồi treo ngược anh và con trai anh trên mũi thuyền chiến khi họ trở về Thebes.
Nhưng Aziru chỉ mỉm cười và nói:
- Tôi không nghĩ Pharaon là mối hiểm họa cho tôi, vì tôi đã nhận từ tay ông ấy biểu tượng sự sống và đã dựng đền thờ cho thần của ông. Vì vậy, ông ấy tin tôi hơn bất cứ ai khác ở Syria, hơn cả các sứ thần của ông ấy và các quan trấn thủ vốn chỉ phụng sự Amon. Để tôi chỉ anh xem một thứ chắc chắn sẽ làm anh vui.
Anh ta dẫn tôi đến bức tường thành và chỉ vào một cái xác đã khô, trần truồng, đầu treo ngược, ruồi nhặng bu đầy xung quanh.
- Nếu nhìn kỹ, - anh ta nói, - anh sẽ thấy người ấy đã cắt bao quy đầu và hắn ta đúng là người Ai Cập. Hắn từng là tay thu thuế của Pharaon, dám đến dinh nhà tôi để hỏi vì sao tôi trì hoãn nộp thuế trong vài năm. Quân lính của tôi đã lấy hắn làm trò giải trí trước khi treo ngược hắn lên tường vì sự hỗn xược của hắn. Bằng việc này, tôi đã làm người Ai Cập không muốn đến đất Amori dù đi cả nhóm lớn, và các thương gia thích đóng thuế cho tôi hơn cho họ. Anh biết điều đó nghĩa là gì, khi tôi nói Megiddo thuộc quyền của tôi và phục tùng tôi chứ không tuân theo viên tổng trấn, kẻ ẩn nấp trong thành và không dám chường mặt ra phố.
- Máu của người tội nghiệp đó sẽ đổ xuống đầu anh, - tôi sợ hãi nói. - Anh sẽ còn bị trừng phạt thích đáng khi việc làm của anh bị lộ vì ở Ai Cập, có thể đùa giỡn với tất cả mọi người trừ quan thuế vụ của Pharaon.
- Tôi đã treo sự thật lên tường để ai cũng thấy, - Aziru đắc chí nói. - Vụ việc đã được điều tra biết bao lần và tôi đã rất vui vẻ viết đầy giấy tờ lẫn bảng đất sét để giải thích sự việc. Tôi cũng nhận được nhiều bảng đất sét về vấn đề này, những bảng đất sét tôi đã cho lưu giữ và đánh số cẩn thận để giải thích sự việc vào những bảng đất sét mới, cho đến khi có thể dùng chúng để xây một bức tường bảo vệ tôi. Thề có thần Baal của xứ Amori, tôi đã làm việc này rối tung khiến tổng trấn Megiddo phải nguyền rủa ngày mình sinh ra khi bị tôi liên tục phiền nhiễu bằng những bảng đất sét mới đòi công lý cho mình khi tôi bị viên quan thuế vụ kia sách nhiễu. Với rất nhiều nhân chứng, tôi đã chứng minh hắn ta là kẻ giết người, là một tên trộm và là kẻ biển thủ tài sản của Pharaon. Tôi đã chứng minh hắn gạ gẫm bao nhiêu đàn bà ở tất cả các ngôi làng và xúc phạm các vị thần của Syria, thậm chí đái lên bàn thờ thần Aton trong thành phố của tôi và những việc tôi làm trở nên chắc như núi trước Pharaon. Vậy nên Sinuhe ạ, luật pháp và công lý, những điều được viết trên các bảng đất sét, luôn chậm và phức tạp hơn, và càng phức tạp khi càng nhiều bảng đất sét xếp chồng đống trước các quan tòa, cho đến khi cả quỷ sứ cũng không thể tìm ra sự thật. Về mặt này, tôi mạnh hơn người Ai Cập và không lâu nữa cũng sẽ mạnh hơn họ về nhiều mặt khác.
Đây không phải là điều duy nhất Aziru kể với tôi, mà anh ta còn nói nhiều chuyện khác, khoe khoang về vương quyền, về sự xảo quyệt của mình và khẳng định sẽ để lại cho đứa con trai bé bỏng một di sản gồm nhiều vương quốc, nhiều như ngón tay và ngón chân của anh ta. Anh ta còn dạy tôi:
- Nếu anh có một đối thủ mà anh muốn đánh bại, đừng bao giờ quên điều cốt yếu là phải đánh bại anh ta và hãy luôn giữ điều đó trước mắt mình. Vì thế, hãy nói sai về đối thủ trong tất cả các mối quan hệ, giải thích sai tất cả những việc hắn ta làm; hãy nói rằng lòng khoan dung của hắn ta là bịa đặt, tính hào hiệp của hắn ta là xảo quyệt và tình bạn của hắn ta là giả tạo. Nếu hắn ta mạnh và đề nghị anh hòa giải, hãy đồng ý hòa giải để đến gần hắn ta hơn và nếu có thể thì xúi giục những người khác chống lại hắn hay liên minh với kẻ thù của hắn, chỉ cần lưu ý là sau khi đánh bại hắn thì chính anh sẽ là người chiếm nhà hắn, chứ không phải những kẻ khác. Nếu anh muốn đánh bại nhiều người, hãy chia rẽ chúng, gieo rắc sự dối trá giữa chúng, khiến chúng gây chiến với nhau rồi anh đánh bại từng kẻ một, hoặc giữa chừng cam kết tình bạn với những kẻ khác, khiến họ tin vào điều tốt đẹp của anh cho đến khi anh lần lượt đánh bại từng kẻ một. Mẹo trị nước này, tôi đã học được từ người Ai Cập, vì bằng cách đó họ đã bắt người Syria làm nô lệ trong thời cổ đại.
Sự phẫn nộ và vẻ ác cảm của tôi khiến Aziru vô cùng thích thú, anh ta chế nhạo tôi:
- Nếu trong anh có dòng máu hoàng gia, anh sẽ hiểu tất cả những điều này, không cần ai phải kể ra mà nó ngấm vào máu thịt anh qua dòng sữa mẹ, nhưng anh không được sinh ra làm người ra lệnh như tôi mà chỉ làm kẻ chờ lệnh, vì thế anh ghét lời nói của tôi.
Như thế tôi đã ở lại bên Aziru nhiều ngày và không thể thù ghét anh ta, vì anh ta là bạn tôi, tình bạn của anh ta thật cuốn hút, hào phóng và tiếng cười của anh ta làm tôi cũng muốn cười. Lòng kiêu hãnh của người được làm cha và sự cưng chiều âu yếm của anh ta đối với con trai mình cũng buồn cười và thật trẻ con, trái ngược với tất cả sự xảo quyệt, mánh khóe của anh ta trong việc khác. Mặc dù anh ta nói bằng lý trí, tôi biết tình cảm của anh ta lớn hơn lý trí và nó bùng lên dữ dội, ví như trong lời nói, tiếng cười và bước chân của anh ta, hơn tất cả giới đàn ông của xứ sở anh ta. Tôi cũng chữa răng anh ta và bọc lại vàng cho những chiếc răng đã bị bong lớp mạ trước đây để khi cười, miệng anh ta lại lấp lánh vàng như mặt trời ở giữa bộ râu đen và để quần thần ngày càng trọng vọng anh ta hơn.
Nhưng anh ta càng nói nhiều với tôi càng khiến tôi nhớ đến Horemheb, vì có điều gì đó trong tính cách đàn ông của anh ta giống như tính nam nhi của Horemheb và cả hai đều sinh ra để làm người lính, dù Aziru lớn tuổi hơn và bị đầu độc bởi các mưu lược trị nước của Syria. Nhưng tôi cũng không tin với mưu lược của mình, anh ta có thể cai trị các dân tộc lớn mà nghĩ rằng những suy nghĩ và kế hoạch đó được anh ta kế thừa từ ông cha mình và nảy sinh vào lúc Syria giống như một ổ rắn đang phun phì phì với vô số tiểu quốc tranh giành quyền lực và tiêu diệt lẫn nhau cho đến khi Ai Cập bình định Syria và những đứa con trai của các tiểu vương ấy được nuôi dưỡng và dạy dỗ trong hoàng cung của Pharaon. Tôi cũng cố gắng giải thích là anh ta không có cái nhìn đúng đắn về sự vĩ đại và thịnh vượng của Ai Cập, cảnh báo anh ta đừng tự thổi phồng quá mức, vì cái bao da phồng căng khi được thổi đầy không khí nhưng sẽ bẹp dí và sự to lớn của nó sẽ biến mất ngay khi bị chọc thủng. Nhưng Aziru chỉ cười khoe với tôi hàm răng vàng và sai bê ra trước mặt tôi nhiều thịt cừu rán trong những chiếc khay bạc nặng để hợm hĩnh khoe khoang về sự giàu có của mình.
Phòng làm việc của anh ta quả thật đầy ắp bảng đất sét như anh ta kể và các sứ thần từ tất cả các thành phố của Syria đã đến trình thư cho anh ta. Anh ta cũng nhận được thư đất sét từ vua Hittite và từ Babylon, và anh ta không ngớt khoe khoang, mặc dù không cho tôi xem những gì được viết trên đó. Anh ta tò mò hỏi tôi về đất nước của người Hittite và Khattushash, nhưng tôi thấy anh ta cũng biết về người Hittite nhiều như tôi. Các sứ thần Hittite cũng diện kiến anh ta, chuyện trò với quân lính và các tướng lĩnh của anh ta, nên sau khi thấy những việc này, tôi nói với anh ta:
- Đúng là sư tử và chó hung sa mạc có thể liên minh để cùng săn mồi, nhưng anh đã bao giờ thấy chó hung sa mạc được những miếng ngon nhất chưa?
Anh ta chỉ cười khoe hàm răng vàng và nói:
- Tôi muốn biết thật nhiều và tôi muốn học như anh thôi, mặc dù vì bận trị vì vương quốc tôi không có điều kiện chu du như anh, một người tự do như chim trên trời, không phải chịu trách nhiệm về bất cứ việc gì. Nếu các võ quan Hittite tham vấn cho các tướng lĩnh của tôi về nghệ thuật chiến tranh thì có gì xấu, vì họ có các loại vũ khí mới và kinh nghiệm trận mạc, điều mà chúng tôi thiếu. Việc này hẳn có lợi lớn cho Pharaon, bởi vì nếu chiến tranh xảy ra, Syria từ lâu đã là lá chắn của Ai Cập ở phía bắc và thường thì chiếc khiên này đẫm máu, điều mà chúng tôi luôn ghi nhớ khi tính sổ với Ai Cập vào một lần nào đó.
Lời anh ta nói về chiến tranh khiến tôi lại nhớ đến Horemheb, tôi nói với anh ta:
- Tôi được thụ hưởng lòng hiếu khách của anh đã quá lâu và giờ muốn trở lại Simyra, nếu anh cho tôi được dùng một chiếc kiệu, bởi vì thà bị xẻ vỡ sọ chứ tôi không bao giờ lên cỗ chiến xa đáng sợ của anh nữa. Nhưng Simyra đã trở nên đáng sợ với tôi và là một người Ai Cập, có lẽ tôi đã hút đủ máu từ Syria nghèo khó, vì vậy tôi muốn trở về Ai Cập trên một con thuyền thích hợp. Do đó, có lẽ chúng ta sẽ không gặp nhau trong một thời gian dài và có thể không bao giờ gặp lại, vì ký ức về nước sông Nile ngọt lịm trong miệng tôi, có lẽ tôi hài lòng uống nó suốt đời mình sau khi đã nhìn thấy đủ sự xấu xa của thế giới và còn nhận được những lời chỉ giáo của anh về sự xấu xa đó.
- Không ai biết ngày mai chuyện gì sẽ đến, - Aziru nói, - giống như rêu không mọc trên tảng đá đang lăn, sự khắc khoải âm ỉ trong mắt anh chắc chắn không cho anh ở lại đất nước nào lâu dài. Nhưng hãy chọn một người vợ, bất cứ ai trong đám thần dân của tôi, rồi tôi sẽ xây cho anh một ngôi nhà trong thành phố của tôi, anh sẽ không phải ân hận nếu anh ở lại đây để hành nghề của mình.
Tôi châm chọc đáp lại anh ta:
- Vương quốc Amori là miền đất hiểm độc nhất và đáng ghét nhất trên thế giới, thần Baal của họ thật kinh tởm đối với tôi, phụ nữ của họ có mùi dê trong mũi tôi. Vì vậy tôi đặt hận thù vào giữa mình và xứ sở Amori, khoan thủng hộp sọ của những ai nói tốt về Amori và tôi cũng sẽ làm nhiều việc nữa mà tôi không thèm kể ra lúc này vì tôi không nhớ, nhưng tôi định viết vào rất nhiều bảng đất sét những đơn từ trong đó tôi xác nhận anh đã hiếp vợ tôi và ăn trộm bò của tôi, những thứ mà tôi chưa bao giờ có, cũng như làm ma thuật cùng nhiều điều khác, cho đến khi anh bị treo ngược trên tường, tôi sẽ cướp nhà của anh, lấy vàng của anh và dùng vàng mua một trăm lần một trăm vò rượu để uống và nhớ về anh.
Anh ta cười vang trong sảnh của hoàng cung và hàm răng vàng lóng lánh trong đám râu xoăn. Tôi thường nhớ đến anh ta như thế sau biết bao nhiêu ngày tồi tệ. Nhưng chúng tôi chia tay nhau như những người bạn, anh ta đã cho tôi một chiếc kiệu với rất nhiều quà và lính của anh ta đã đưa tôi trở lại Simyra để không ai có thể xúc phạm tôi vì là người Ai Cập.
Trước cổng vào Simyra, một con én lao vút qua đầu tôi nhanh như một mũi tên, tâm trí tôi trở nên bồn chồn và đường phố nóng rực dưới chân tôi. Vì thế khi về đến nhà, tôi nói với Kaptah:
- Hãy thu gom đồ đạc của chúng ta và bán căn nhà này, vì chúng ta sẽ dong thuyền trở về Ai Cập.
Kaptah nói:
- Ngày hôm nay lẽ ra rất hạnh phúc với tôi, nếu như ông không có một tài năng phi thường và không thể tin nổi là luôn hòa lẫn ngải đắng vào bát niềm vui của tôi. Quả thật tôi không còn muốn tính số năm đã trôi qua kể từ lần cuối cùng tôi uống nước sông Nile và sống lưng tôi nhồn nhột như có kiến bò khi tôi nghĩ về những nhà vui và quán bia ở Thebes, nhất là cái quán nhỏ nơi bến cảng có tên Đuôi Cá Sấu, cái tên bắt nguồn từ cam đoan của chủ quán, rằng lũ phù thủy pha rượu của quán mạnh như cú quật của đuôi cá sấu. Ông ta nói sự thật, vì chính tôi đã trải nghiệm điều đó thường xuyên, mặc dù lúc này tôi không kịp kể nhiều hơn về chuyện này. Tôi chỉ muốn nói là tôi không thể đi theo ông nếu trong cơn điên không thể hiểu nổi của mình, ông lại muốn đi thuyền về Ai Cập, trong khi với vị thế này của mình, chúng ta có thể đi trên đất liền mà không gặp nguy hiểm và không chết sặc trong nước mặn. Như ông biết, tôi đã thề sẽ không bao giờ bước chân lên thuyền nữa và tôi không muốn làm trái lời thề, bởi vì bọ hung có thể giận tôi và chúng ta sẽ mất đi vận may.
Tôi nhắc Kaptah nhớ lại những cơn đau và nỗi vất vả không thể diễn tả nổi mà ông ấy đã phải chịu khi cưỡi trên lưng lừa, khiến ông tỏ ra lo lắng. Tôi cũng nhắc ông ấy rằng cả Syria đang sục sôi nỗi căm hờn người Ai Cập và nếu đi bằng đường bộ, chúng tôi có thể gặp nguy hiểm hơn đi bằng đường biển. Kaptah bắt đầu vò đầu và nghĩ một lúc lâu, cuối cùng ông nói:
- Ông chủ ơi, ông có thề là chúng ta sẽ đi bằng thuyền trong lộng để đất liền không khuất khỏi tầm nhìn, vì cho dù nó chậm hơn thuyền chạy ngoài khơi nhưng nó sẽ dừng lại ở nhiều bến cảng, nơi có lẽ có nhiều cảnh quan và các quán bia kiểu mới. Nếu vậy, tôi sẽ theo ông xuống thuyền, nhưng với điều kiện tôi không phải đặt chân lên mạn thuyền. Để làm điều này, tốt nhất là tôi uống đến say mềm rồi ông cho khiêng tôi lên thuyền và giữ cho tôi say suốt quãng đường đi để tôi không phải đứng trên đôi chân của mình, bởi vì đó là cách duy nhất tôi giữ đúng lời mình đã thề.
Tôi chấp nhận yêu cầu của ông ấy, ngoại trừ việc say, vì tôi rất muốn thấy các thành phố ven biển của Syria để biết liệu sự hận thù Ai Cập đã lan đến tất cả các thành phố hay chưa, để có thể kể với Horemheb. Thế là Kaptah bán nhà của chúng tôi, thu các khoản có thể thu được và tôi giàu có rời khỏi Simyra. Tôi sai trói Kaptah vào giường với lý do ông ấy bị bệnh và khiêng lên thuyền để ông không phá vỡ lời thề của mình.
❖ 3 ❖Kể bao nhiêu về chuyến trở về Ai Cập cũng không ích gì với tôi, bởi hành trình này như một bóng mờ hay một giấc mơ khắc khoải không yên trong tâm trí tôi. Vì cuối cùng khi tôi đã ở trên thuyền trở về miền đất đen để một lần nữa nhìn thấy Thebes, thành phố thời thơ ấu của mình, cảm giác bồn chồn trào dâng trong tâm trí tôi, khiến tôi không thể đứng hay ngồi hay nằm yên một chỗ mà cứ đi đi lại lại quanh các cuộn thảm và đống hàng hóa trên khoang thuyền chật chội, khi mũi tôi vẫn nghe mùi của Syria, và ngày lại ngày, nỗi khát khao được nhìn thấy vùng đất thấp màu xanh lá cây với những vạt lau sậy thay vì núi đá trải dài dọc bờ biển càng cháy bỏng trong tôi. Khi thuyền đỗ lại nhiều ngày tại bến cảng ở các thành phố ven biển, tôi không còn đủ kiên nhẫn vào thăm thành phố hay thu thập thêm tin tức, tai tôi không còn phân biệt được tiếng kêu của lừa trên bờ biển, tiếng la hét của những người bán cá và tiếng những ngôn ngữ lạ với tiếng gầm gào của sóng biển.
Mùa xuân lại bừng nở trong các thung lũng Syria; từ biển nhìn vào, những ngọn núi đỏ sậm màu rượu, tiết xuân nhuộm những bọt nước tối tối tràn lên bờ biển thành màu xanh nhạt nhòa, các giáo sĩ của thần Baal làm ầm ĩ, vừa lấy dao đá cào mặt làm máu chảy nhoe nhoét vừa la hét the thé trong những con hẻm chật chội và những người đàn bà mắt lóe sáng, tóc rối bù kéo những chiếc xe cút kít gỗ theo sau các giáo sĩ. Nhưng trước đây tôi đã nhiều lần thấy những cảnh này và khi hình bóng quê hương lờ mờ hiện lên trước mắt tôi, những tập quán lạ lùng cùng với sự cuồng tín thô bạo lại làm tôi ngán ngẩm. Tôi cứ tưởng trái tim mình đã chai cứng, cứ nghĩ mình đã có thể thích nghi với mọi phong tục và tín ngưỡng khi đã hiểu và không khinh thường những người có màu da khác nhau và mục đích duy nhất của tôi là thu thập kiến thức, thế nhưng ý nghĩ mình đang trên đường trở về miền đất đen đã như ngọn lửa xóa sạch sự chai cứng trong trái tim tôi. Cũng như những trang phục xa lạ, những suy nghĩ lạ lùng rơi ra khỏi tâm trí tôi và trong trái tim mình, tôi lại là người Ai Cập, tôi nhớ mùi cá rán trên những con hẻm Thebes vào lúc hoàng hôn khi những người vợ nhóm bếp lửa trước những túp lều đất sét, tôi thèm mùi rượu Ai Cập trong miệng và khát nước sông Nile với mùi bùn màu mỡ. Tôi nhớ tiếng xì xào của đám sậy trong gió xuân, nhớ những cánh sen nở xòe bên bờ sông, nhớ những cây cột sặc sỡ với những hình ảnh vĩnh cửu, nhớ những hình chữ chạm khắc của các ngôi đền và mùi nhang cổ xưa trong những hàng cột đá; trái tim tôi điên rồ đến thế.
Tôi đang trở về nhà mặc dù tôi không có nhà và là kẻ xa lạ trên mặt đất. Tôi đang trở về nhà và ký ức không còn làm tôi đau, mà thời gian và kiến thức như cát che phủ lên những ký ức đắng cay đó. Tôi không còn cảm thấy buồn bã hay nhục nhã mà chỉ có một khát khao khôn nguôi gặm nhắm trái tim tôi.
Syria giàu có, màu mỡ, đầy hận thù và mê đắm lùi lại phía sau chúng tôi. Thuyền chúng tôi khỏa nước qua các bãi biển đỏ Sinai, gió khô và nóng rẫy từ sa mạc quét qua mặt chúng tôi mặc dù đang là mùa xuân. Cho đến một sáng kia, biển chuyển sang màu vàng và sau nó là đất liền, một dải xanh lá cây mỏng mảnh, các tay chèo thả sợi dây da buộc vò đất sét xuống biển, kéo nước lên khoang, nước không còn mặn nữa mà là nước của sông Nile vĩnh cửu và đượm vị bùn Ai Cập. Trong miệng tôi chưa bao giờ có thứ rượu nào ngon bằng ngụm nước nhuốm bùn được múc lên từ vùng biển còn xa đất liền đó. Nhưng Kaptah nói:
- Nước vẫn là nước ngay cả ở trong sông Nile. Hãy kiên nhẫn, ông chủ ạ, cho đến khi chúng ta đến được quán ra quán, nơi bia sủi tăm và trong vắt nên không cần phải dùng ống hút để tránh vỏ hạt. Chỉ đến lúc đó tôi mới tin là mình đã ở Ai Cập.
Vào giây phút ấy, lời nói vô đạo và báng bổ của ông ấy đã xúc phạm tôi, nên tôi nói:
- Kẻ nô lệ vẫn là nô lệ dù khoác trên người vải lanh đắt tiền. Hãy đợi đấy Kaptah, đến khi ta có trong tay một cây gậy dẻo chỉ có thể được cắt ra từ đám sậy của sông Nile, lúc ấy chắc chắn ngươi sẽ tin rằng mình lại được ở nhà.
Nhưng Kaptah không hề tự ái mà nước mắt ông ấy trào ra vì xúc động, cằm ông ấy run rẩy và ông cúi đầu trước tôi, hai tay thả xuống ngang đầu gối và nói:
- Đúng thế, ông chủ của tôi ạ, đôi lúc ông có biệt tài tìm ra được đúng từ vào thời điểm thích hợp đến khó tin, bởi vì tôi đã quên nhát quất của cây sậy dẻo vào mông và vào ống chân ngọt đến thế nào. Ôi, ông chủ Sinuhe của tôi, đó là một trải nghiệm mà tôi cũng muốn ông có được, vì nó kể về cuộc sống ở Ai Cập tốt hơn nước và bia, tuyệt hơn mùi khói nhang trong các đền thờ và bầy vịt trong đám sậy, nơi mỗi người được đặt đúng chỗ của mình, không có gì thay đổi theo thời gian mà tất cả vẫn nguyên như cũ. Vì vậy, ông đừng ngạc nhiên nếu tôi khóc vì quá xúc động, bởi vì chỉ đến lúc này tôi mới thực sự cảm thấy mình được về nhà sau khi nhìn thấy rất nhiều điều lạ, những điều không thể hiểu và đáng khinh. Ôi, cây gậy linh thiêng, mi đặt từng người vào đúng chỗ và giải quyết mọi vấn đề, không gì sánh được với mi.
Ông ấy khóc một lúc vì xúc động, sau đó đi xức dầu cho bọ hung, nhưng tôi để ý ông không còn dùng loại dầu đắt tiền như trước nữa, vì sắp vào bờ và ông ấy tin mình sẽ vượt qua mọi chuyện với sự láu cá của mình khi ở Ai Cập.
Chỉ đến khi thuyền cập vào bến cảng rộng lớn ở miền Hạ, tôi mới hiểu mình đã chán nhìn những bộ quần áo rộng thùng thình nhiều màu sắc, những bộ râu quăn tít và những thân hình to béo đến mức nào. Những mạn sườn mỏng gầy của phu khuân vác, xà rông của họ, những