Sách thứ tám Nhà tối
❖ 1 ❖
Biển bao la, sóng dềnh trước mặt và xung quanh, trong nhiều ngày liền chúng tôi không thấy bờ, nhưng tôi không sợ vì có Minea bên cạnh, nàng lấy lại thần sắc khi được hít thở không khí biển. Trăng lấp lánh trong mắt nàng khi nàng đứng trên mũi thuyền, người vươn về trước và tham lam hít khí trời như muốn dùng sức mạnh của mình thúc thuyền đi nhanh hơn. Bầu trời trong xanh phía trên chúng tôi, mặt trời tỏa sáng và gió không quá mạnh, chỉ vừa đủ thổi căng những cánh buồm và đưa chúng tôi đi đúng hướng. Đấy là thuyền trưởng nói thế và tôi không có lý do để nghi ngờ lời của anh ta. Khi đã quen với sự lắc giật của thuyền, tôi không bị say nữa, cho dù một nỗi sợ vô hình bóp nghẹt tim tôi khi những con mòng biển vẫn chấp chới đôi cánh trắng lượn vòng quanh chúng tôi rồi cuối cùng cũng bỏ thuyền lại vào ngày thứ hai và bay đi. Thay vào đó, các cỗ xe của thần biển bắt đầu bám theo thuyền và những con heo biển uốn mình phơi tấm lưng lấp lánh trên mặt nước, Minea hét to chào chúng bằng ngôn ngữ riêng của mình vì chúng trao cho nàng lời chào từ thần của nàng.
Biển cũng không hoàn toàn vắng vẻ, một thuyền chiến Crete với những tấm khiên đồng lấp lánh bên mạn thuyền đang chạy hướng ngược lại, họ chào chúng tôi bằng cờ hiệu sau khi nhận ra thuyền chúng tôi không phải là thuyền của cướp biển. Cả Kaptah cũng dậy, ra khỏi chỗ nằm sau khi nhận ra có thể đi lại trên thuyền và khoác lác với các thủy thủ về những chuyến đi đến nhiều nước của mình. Nhận thấy mình sẽ không bị say nữa, ông ấy kể về chuyến đi từ Ai Cập đến Simyra, về cơn bão đã xé toạc cánh buồm ra khỏi thuyền khiến chỉ thuyền trưởng và ông ấy có thể ăn trên thuyền, còn những người khác nằm trên sàn rên rỉ và nôn thốc nôn tháo theo hướng gió. Ông ấy cũng kể về những quái vật biển đáng sợ canh giữ đồng bằng sông Nile và sẽ nuốt trọn bất cứ thuyền đánh cá nào dám đi quá xa ra biển. Đám thủy thủ cũng không chịu thua, kể cho ông ấy nghe về những cây cột chống trời ở nửa bên kia của biển và những nàng tiên đuôi cá bám theo các thủy thủ để phù phép, bắt họ vui thú cùng mình; những câu chuyện kể về quái vật biển khiến Kaptah sợ dựng tóc gáy, chạy đến chỗ tôi mặt tái xanh tái xám và túm chặt lấy vai áo tôi. Còn miếng mỡ lợn thì ông ấy đã ném xuống biển vì không thể nuốt được.
Minea ngày càng hoạt bát hơn, tóc nàng bồng bềnh trong gió, đôi mắt nàng giống như ánh trăng dưới biển, nàng trông thật mềm dẻo và xinh đẹp, khiến tim tôi tan chảy trong lồng ngực khi nhìn nàng và nghĩ về việc tôi sắp mất nàng. Tôi cảm thấy trở về Simyra và Ai Cập khi không có nàng thật vô vị, bởi tôi đã quen ở bên nàng; cuộc đời như đắng ngắt trong miệng khi tôi nghĩ sẽ đến lúc không nhìn thấy nàng nữa, tay nàng không còn để lên tay tôi và hông nàng không còn áp vào cạnh hông tôi. Nhưng thuyền trưởng và các thủy thủ rất cảm phục nàng khi nghe kể nàng nhảy múa trước những con bò đực và là người đã được chọn để có quyền bước vào nhà của thần trong đêm rằm, cho dù vụ đắm thuyền đã ngăn cản nàng. Khi tôi gặng hỏi về thần linh của họ, họ không trả lời tôi và nói: “Chúng tôi không biết”. Một số khác nói: “Chúng tôi không hiểu tiếng của anh, một ngôn ngữ lạ”. Tôi chỉ hiểu rằng thần Crete cai trị biển và các hải đảo đã gửi những chàng trai và cô gái trẻ của họ đến nhảy múa trước những con bò của thần.
Rồi đến ngày Crete nhô lên trước mắt chúng tôi như một đám mây xanh dương trên biển, đám thủy thủ thốt ra những tiếng kêu sung sướng, còn thuyền trưởng tạ ơn thần biển vì ngài đã ban cho chúng tôi gió thuận và thời tiết đẹp. Những ngọn núi và bãi biển dốc của Crete với những cây ô liu nhô dần lên trước mắt và tôi nhìn nó như một miền đất xa lạ mình không biết chút gì, dù sẽ phải chôn chặt trái tim mình ở đó. Nhưng Minea nhìn đất mẹ của mình và vui sướng khóc òa khi thấy vẻ hùng vĩ của những rặng núi và màu xanh êm ả của đất mẹ trong vòng ôm của biển, cho tới khi những cánh buồm hạ xuống và các tay chèo đẩy mái chèo xuống nước và chèo thuyền vào bến, lướt qua các con thuyền đang neo đậu, trong đó có những thuyền buôn và thuyền chiến từ khắp các nước. Ở cảng Crete có đến cả ngàn thuyền và Kaptah vừa nhìn chúng vừa nói rằng ông sẽ không bao giờ tin nếu ai đó nói trên thế giới có nhiều thuyền đến thế. Ở cảng không có tháp, tường thành hay đồn biên phòng, mà thành phố bắt đầu ngay từ cảng. Quả thật Crete hoàn toàn cai trị biển và thần của Crete rất hùng mạnh.
❖ 2 ❖Giờ tôi sẽ kể về Crete và tôi muốn kể những gì tận mắt nhìn thấy, chứ không muốn kể mình nghĩ gì về đất nước và thần linh xứ này, tôi giấu những suy nghĩ ấy trong tim và chỉ kể bằng mắt mình. Tôi chưa thấy nơi nào trong tất cả các vùng đất mình từng đặt chân tới đẹp và lạ như Crete. Như biển xô những con sóng lấp lóa vào bờ, như những bóng nước phát ra cả năm sắc cầu vồng và như những vỏ trai lấp lánh màu ngọc trong vắt, Crete cũng lấp lánh, chói lòa trong mắt tôi. Bởi không ở đâu niềm vui cuộc sống và sự hưởng lạc của con người lại tự nhiên và thất thường như ở Crete, họ không sẵn sàng làm bất cứ điều gì khác ngoài điều họ chợt nghĩ ra, do vậy rất khó có được thỏa thuận hay lời hứa với người ở đây, ai cũng làm theo ý mình và thay đổi quyết định như trở bàn tay. Cũng vì vậy, họ thường nói tất cả đều đẹp hoặc dễ thương mặc dù điều đó có thể không đúng, vì âm điệu du dương của từ ngữ làm họ thích thú; và ở đất nước họ không ai biết đến cái chết, thậm chí tôi nghĩ trong ngôn ngữ của họ không có từ chết, vì họ giấu nó đi và nếu ai đó chết, người đó được bí mật đưa đi để người khác không lấy làm buồn. Tôi nghĩ, mặc dù tôi không biết chắc, rằng họ đốt xác của người quá cố vì khi ở Crete tôi không thấy ai chết, cũng không thấy nấm mồ nào trừ lăng mộ của các vị vua trước đây được xây bằng những tảng đá lớn từ thời cổ đại và họ tránh nơi đó thật xa vì không muốn nghĩ đến cái chết, cứ như thể làm thế họ thoát được nó.
Nghệ thuật của họ cũng thật lạ lùng và kỳ dị, các nghệ sĩ đều vẽ như ý mình muốn, bỏ qua mọi quy tắc và chỉ yêu thích những gì đẹp theo cách nhìn của mình. Bình và lọ của họ màu sắc sặc sỡ, trên thân chúng tất cả các loài thủy vật và hải sản kỳ lạ của biển bơi lội tung tăng, những bông hoa khoe sắc mọc và những con bướm bay lượn trong không trung, khiến những người vốn quen với các quy tắc nghệ thuật nghiêm ngặt cảm thấy băn khoăn và nghĩ như mình đang mơ khi ngắm nhìn các tác phẩm của họ.
Các tòa nhà của họ không to lớn và hùng vĩ như các đền thờ và cung điện ở các xứ khác, mà khi xây họ nhằm đến sự thoải mái và sang trọng chứ không quá chú ý đến hình thức bên ngoài của các công trình. Họ yêu thích sự thoáng đãng và sạch sẽ, các chấn song cửa sổ của họ thưa để gió lùa vào các phòng và nhà của họ có nhiều phòng tắm, trong đó cứ xoay vặn vòi là nước nóng và lạnh từ các ống bạc chảy xuống những cái bồn sáng loáng. Nhà vệ sinh của họ, nước xả xuống rất mạnh làm sạch mọi thứ phía dưới bồn, khiến tôi thấy không ở đâu có sự xa xỉ như trong các ngôi nhà Crete, và không phải chỉ nhà của giới quyền quý và giàu có mà cả nhà của những người không sống ở bến cảng, người nước ngoài và dân lao động.
Đàn bà của họ dành không biết bao nhiêu thời gian để tắm rửa, cạo nhổ lông trên người, làm đẹp và vẽ mặt đến nỗi mỗi khi được mời, họ không bao giờ sửa soạn xiêm áo xong kịp thời gian mà khi nào xong mới đến. Khi được vời đến yến tiệc của đức vua, họ cũng tùy ý đến lúc nào họ muốn. Nhưng lạ lùng nhất là xiêm áo của đàn bà: họ mặc những bộ đồ bó sát người được may từ vải dệt bằng sợi bạc và vàng, che kín cơ thể, chỉ để hở cánh tay và bầu vú, bởi vì họ hãnh diện về bầu vú đẹp của mình; họ thêu hàng ngàn hoa văn lên chiếc váy rộng, gấp nếp và để các họa sĩ vẽ lên đó nhiều hình trang trí. Họ cũng có những bộ trang phục được làm từ hàng trăm mảnh vàng hình những con cá mực, các loài bướm, những thuyền lá cọ và làn da của họ sáng lấp ló giữa chúng. Họ dành cả ngày khéo léo uốn xoăn tóc lên cao và trang trí tóc bằng những chiếc mũ nhỏ, nhẹ và gắn lên tóc những chiếc ghim vàng, khiến chúng rung rinh như những con bướm bay trên đỉnh đầu. Thân hình họ thon thả và mảnh mai, hông họ hẹp như của những đứa bé trai khiến việc sinh nở rất khó khăn với họ, họ gắng hết sức để không sinh con và không coi việc không có con là xấu hổ, hoặc chỉ có một hoặc hai con.
Đàn ông đi ủng có trang trí cao đến đầu gối, nhưng xà rông của họ rất đơn giản và họ quấn cơ thể rất chặt vì họ tự hào với vòng eo hẹp và bờ vai rộng. Đầu họ thon nhỏ, tay chân thanh tú và giống như đàn bà, họ không chịu để một sợi lông nào mọc trên cơ thể. Rất ít người trong số họ nói tiếng nước ngoài vì họ yêu mến đất nước mình và không muốn sang sống ở các vương quốc khác, những nước không mang lại cho họ sự thoải mái và niềm vui như ở đất nước mình. Mặc dù họ có được tất cả sự giàu có nhờ có bến cảng và việc buôn bán trao đổi hàng hóa, nhưng tôi đã gặp trong số họ những người đàn ông không bao giờ chịu đến bến cảng vì ở đó có mùi hôi và họ không thể làm các phép tính đơn giản, mà hoàn toàn tin tưởng người quản gia của mình trong mọi việc. Do đó, những người lạ có tay nghề cao sẽ nhanh chóng trở nên giàu có ở Crete nếu bằng lòng cư ngụ ở bến cảng.
Họ cũng có các loại máy nhạc phát âm thanh ngay cả khi nhạc công không có mặt và còn khẳng định họ có thể ghi lại nhạc để người khác chỉ cần đọc những bản ghi ấy là chơi được nhạc ngay cho dù trước đó chưa bao giờ được nghe. Các nhạc công Babylon cũng khẳng định họ có kỹ năng như vậy và tôi không muốn tranh luận với họ hay người Crete, vì bản thân tôi không phải là nhạc công và nhạc cụ của các vùng đất khác nhau làm tôi bối rối. Nhưng từ những điều này, tôi hiểu tại sao người các xứ khác có câu tục ngữ nói về người dân xứ này: “Nói dối như người Crete”.
Họ không có những ngôi đền nổi bật và cũng không quan tâm nhiều đến thần linh mà chỉ bằng lòng phụng sự những con bò đực của mình. Họ còn làm điều này hết sức nhiệt tình, đến mức hiếm có ngày nào trôi qua mà không thấy họ trên khán đài để xem bò. Tuy nhiên, tôi không nghĩ điều này là do tôn kính thần linh mà đúng hơn là bởi sự hồi hộp và niềm mê say mà những điệu nhảy múa trước những con bò mang đến cho người xem.
Tôi cũng không thể nói họ hết lòng tôn kính quốc vương của họ, vì ông ta cũng như họ, cho dù ông ta sống trong một cung điện lớn hơn nhiều so với nhà của dân chúng. Nhưng họ gặp gỡ, cư xử với vua của mình như người đồng vai phải lứa, đùa cợt và kể chuyện khôi hài về đức vua, đến chỗ vua khi được bất chợt vời đến và ra về theo ý muốn của mình khi thấy buồn chán hay chợt nảy ra điều gì đó khác. Họ uống rượu rất sành để tinh thần vui vẻ và tập quán của họ rất tự do, song không bao giờ họ uống say vì họ nghĩ đó là thói quen mọi rợ và tôi chưa thấy ai nôn ọe vì uống quá nhiều trong các bữa tiệc, như thường thấy ở Ai Cập và các vương quốc khác. Thay vào đó, họ bất chợt mê đắm nhau, bất kể đó là chồng hay vợ của ai và vui vẻ cùng nhau với bất cứ cách nào hay khi nào họ muốn. Những nam thanh nhảy múa trước bò đực rất được phụ nữ ưu ái, khiến nhiều quý ông thượng lưu luyện tập nhảy múa trước bò đực mặc dù không được thụ phong. Họ làm điều đó để giải trí và đôi khi để có được tài nghệ giống như những thanh niên đã được thụ phong cho thần linh, và họ không được ăn nằm với đàn bà, giống như các thiếu nữ được thụ phong bị cấm giao cấu với đàn ông. Nhưng vì sao lại thế, tôi không thể hiểu, bởi vì dựa trên phong tục của họ, ai có thể nghĩ là họ sẽ chú ý đến vấn đề này như vậy.
Tôi kể tất cả những điều này để chứng tỏ tôi đã kinh ngạc biết bao lần trước khi làm quen được với tập quán Crete, nếu như có lúc nào đó tôi có thể quen được, bởi họ luôn tự hào khi nghĩ ra điều gì đó mới mẻ và gây kinh ngạc, đến nỗi không bao giờ có thể biết trước điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Nhưng giờ tôi phải kể về Minea, mặc dù trái tim tôi quặn đau khi kể về nàng.
Sau khi cập cảng, chúng tôi vào một nhà trọ dành cho người ngoại quốc, một ngôi nhà về mặt tiện nghi là xa hoa nhất trong tất cả các nhà trọ mà tôi nhìn thấy, mặc dù nó không to lắm, đến mức "Vọng lâu Ishtar" ở Babylon, với tất cả sự tráng lệ bụi bặm và đám nô lệ dốt nát của nó, thật thô sơ, mọi rợ bên cạnh ngôi nhà này. Ở đó chúng tôi tắm rửa và thay quần áo, Minea cho uốn tóc, mua váy áo mới để có thể đi gặp bạn bè khiến tôi rất ngạc nhiên khi thấy nàng, vì trên đầu nàng có một chiếc mũ nhỏ giống như một cái đèn, dưới chân là đôi giày gót cao rất khó đi. Nhưng tôi không muốn làm nàng bực mình nên không nói gì về xiêm áo của nàng, thay vì thế tôi tặng nàng bông tai và một chiếc vòng cổ chạm những viên đá màu sắc khác nhau mà theo lời người bán là để dùng vào ngày hôm đó ở Crete, nhưng ngày mai sẽ dùng loại gì thì anh ta không thể nói. Tôi cũng kinh ngạc nhìn hai bầu vú để hở nhô lên từ làn da bàng bạc và hai núm vú được tô màu đỏ, khiến nàng tránh cái nhìn của tôi và bực tức nói rằng bầu vú của nàng không có gì đáng xấu hổ mà có thể sánh với bất kỳ phụ nữ nào ở Crete. Sau khi ngắm nhìn kỹ, tôi không phản đối vì thấy trong việc này có thể nàng nói đúng.
Sau đó chúng tôi gọi kiệu đưa mình từ bến cảng vào trong thành phố, nơi có những tòa nhà thanh thoát và những mảnh vườn nhỏ, một thế giới khác hẳn sau tiếng ồn ào, mùi tôm cá và cảnh buôn bán ở bến cảng. Minea đưa tôi đến gặp một nhà quý tộc lớn tuổi, là bạn đồng thời là người bảo trợ đặc biệt của nàng, người đã đánh cược tài năng của nàng ở sân đấu bò nên Minea đã sống ở chỗ ông ta và sử dụng nhà ông ta như nhà mình. Ông ta đang xem kỹ danh sách bò đực của mình và ghi chú vào tờ giấy để đặt cược cho ngày mai, nhưng khi thấy Minea ông ta quên hẳn việc đó, mừng vui khôn xiết, không ngượng ngùng ôm lấy Minea và nói:
- Cháu đã trốn ở đâu mà quá lâu ta không được gặp cháu, cứ nghĩ rằng cháu đã tới lượt vào ở nhà thần rồi. Tuy nhiên ta vẫn chưa chọn cho mình người mới để bảo trợ, vì vậy phòng của cháu vẫn y nguyên, nếu gia nhân vẫn nhớ lau dọn nó hay vợ ta không sai dỡ nó và xây một bể nước thay vào đó, vì bà ấy đã bắt đầu nuôi các loại cá trong nhiều bể nước và hiện giờ không còn nghĩ đến điều gì khác.
- Helea đã bắt đầu nuôi cá trong bể à? - Minea ngạc nhiên hỏi.
- Bà ấy không phải là Helea, - ông nói, với chút lúng túng, - mà ta có một người vợ mới và bà ấy vừa mới vào phòng với một người đấu bò trẻ chưa được thụ phong để xem cá và ta nghĩ bà ấy sẽ không vui nếu chúng ta làm phiền họ. Nhưng hãy nói cho ta hay về người bạn của cháu để anh ấy cũng có thể là bạn của ta và nhà này là nhà của anh ấy.
- Bạn cháu là Sinuhe, Người Ai Cập, Người Cô Đơn và là danh y, - Minea nói.
- Ta ngờ rằng anh ta sẽ không cô đơn ở đây lâu, - ông già nói, giọng đùa đùa. - Nhưng cháu không bị ốm khi đi cùng danh y đó chứ Minea, điều mà ta không muốn, vì ta hy vọng cháu sẽ nhảy múa trước những con bò ngay ngày mai và đem lại may mắn cho ta? Cháu biết không, quản gia của ta ở bến cảng than phiền rằng thu nhập của ta không còn đủ chi tiêu hay chi tiêu không đủ cho thu nhập, thế nào cũng được, vì ta không hiểu các phép tính rối rắm mà anh ta luôn đưa ra trước mắt ta, khiến ta đâm lo lắng.
- Cháu không ốm, - Minea nói. - Nhưng bạn cháu đã cứu cháu khỏi nhiều hiểm nguy và chúng cháu đã đi qua nhiều vương quốc để trở về đất mẹ vì cháu bị đắm thuyền khi đang trên đường đến Syria để nhảy múa trước bò ở đó.
- Thật thế sao? Thật vậy ư? - Ông lão nói, vẻ bồn chồn. - Nhưng ta hy vọng cháu vẫn còn trinh trắng dù đã có tình bạn của mình, bởi vì nếu không cháu sẽ bị loại khỏi cuộc thi và sẽ gặp điều bất hạnh khác như cháu cũng biết rõ. Ta thật lấy làm tiếc về việc này, vì ta thấy cặp vú của cháu to ra và phát triển rất đáng ngờ, đôi mắt cháu ươn ướt. Minea, Minea, lẽ nào cháu đã làm hư mình?
- Không, - Minea tức giận đáp. - Khi cháu nói không thì ông có thể tin lời cháu và không ai cần phải động chạm sờ mó cháu, như người ta đã làm tại chợ nô lệ ở Babylon. Ông khó mà hiểu được rằng nhờ sự giúp đỡ của người bạn này mà cháu thoát khỏi tất cả những hiểm nguy để trở về đất mẹ của mình và cháu nghĩ bạn bè của cháu sẽ vui mừng khi thấy cháu trở về, nhưng ông chỉ nghĩ đến những con bò của mình và cá cược.
Nàng bắt đầu khóc nức nở vì tức giận khiến những giọt nước mắt chảy thành vệt dài làm bẩn hai gò má.
Ông lão trở nên bối rối và ân hận nói:
- Ta không nghi ngờ là cháu thấy khủng khiếp về hành trình của mình vì ở xứ lạ, cháu khó có thể tắm hằng ngày, phải vậy không? Ta không nghĩ bò ở Babylon được như bò của chúng ta. Từ chuyện này đột nhiên ta nhớ ra đáng lẽ mình cần ở chỗ Minos lâu rồi, mặc dù ta đã quên hẳn việc này, nên ta phải đi đây và thôi không cần thay quần áo nữa. Mà chắc không ai chú ý đến trang phục của ta bởi ở đó luôn có rất nhiều người. Vậy nên ăn và uống đi nhé, những người bạn quý, Minea, hãy bình tĩnh lại và nếu vợ ta đến, hãy nói rằng ta lên chỗ Minos vì ta không muốn quấy rầy niềm vui với đấu sĩ bò trẻ trung của bà ấy. Thật ra ta cũng có thể đi ngủ, vì chắc chắn không có ai ở Minos để ý ta có ở đó hay không, nhưng ta chợt nhớ mình cũng có thể tạt qua chuồng để xem con bò mới có đốm bên hông thế nào, nên có lẽ tốt nhất là ta đi. Đó thật sự là một con bò tuyệt vời.
Ông ta hờ hững tạm biệt chúng tôi cho đến khi Minea nói:
- Chúng cháu sẽ đi cùng ông tới chỗ Minos để cháu có thể gặp tất cả bạn bè của mình và giới thiệu Sinuhe với họ.
Thế là chúng tôi đi đến cung điện của Minos và rốt cuộc là đi bộ, vì ông lão không dứt khoát được có nên đi kiệu hay không, với một quãng đường ngắn như vậy. Chỉ đến khi chúng tôi đến cung điện, tôi mới hiểu Minos là vua và biết được vua của họ luôn có tên là Minos, để phân biệt vua với người khác. Nhưng vua là Minos thứ bao nhiêu, không ai biết, bởi không ai đủ kiên nhẫn tính và ghi nhớ vì một ngày nào đó Minos này sẽ biến mất và một Minos mới sẽ thay thế hệt như trước, vậy nên không có gì thay đổi ở Crete.
Cung điện có rất nhiều phòng; trên tường của phòng khánh tiết, các loại rong biển đung đưa, những con cá mực và sứa lược tung tăng bơi trong nước trong veo. Cả sảnh lớn đầy kín người, người này ăn vận kỳ lạ và sang trọng hơn kẻ khác, họ đi lại và chào hỏi, nói chuyện với nhau, cười to, uống đồ uống lạnh, rượu hoặc nước trái cây từ những chiếc bát nhỏ và phụ nữ so bì xiêm áo với nhau. Minea giới thiệu tôi với một vài người bạn của nàng, tất cả đều quá lịch sự và lạnh lùng, vua Minos nói vài lời xã giao bằng tiếng Ai Cập, cảm ơn tôi đã giải cứu Minea cho thần của họ và đưa nàng về để việc đầu tiên là nàng có thể vào nhà của thần, mặc dù lượt của nàng do con tạo ấn định đã qua.
Sau đó, tôi đứng sang một bên, nhìn xung quanh và cảm thấy mình lạc lõng ở nơi tôi không thể hiểu được ngôn ngữ và nguyên cớ của niềm vui, cho đến khi một phụ nữ đứng tuổi với kiểu tóc búi cao như cái tháp được trang trí bằng những bông hoa tươi đi lại chỗ tôi, người mà tôi thấy dù có được trả tiền cũng không nên để lộ vú của mình. Bà ta nói với tôi bằng tiếng Ai Cập ngọng nghịu:
- Chắc chắn chúng ta đã từng gặp nhau mặc dù tôi không nhớ tên anh, nhưng chắc anh là giáo sĩ Ai Cập đã làm lễ thụ phong cho chúng tôi trong một nghi lễ thần bí của thần Isis.
Tôi nói tôi không nhớ đã từng gặp bà ta và cam đoan với bà ta nếu đã gặp chắc chắn tôi sẽ nhớ, và điều đó là thật bởi bà ta thực sự giống một con dê đang ngoạm nhúm cỏ khô. Tôi cũng nói mình không phải là giáo sĩ mà là một danh y và bà ta hỏi:
- Anh cũng chữa cho cả bò chứ?
Tôi thấy bị xúc phạm dù không có lý gì để cảm thấy như thế bởi bò ở Crete được quý trọng hơn những người cao quý nhất, và chữa bệnh hay chọc chúng cho đến điên loạn chính là tài năng. Nhưng vì không biết thế nên tôi nói:
- Quả thực tôi đã chữa cho đôi ba dê và khỉ cái, nhưng chưa chạm vào bò.
Lúc ấy bà ta đùa đùa lấy quạt đánh tôi và nói tôi là một người đàn ông tồi tệ. Tôi nghĩ mình không thể thoát nếu Minea không đến và cứu tôi ra khỏi tầm với của bà ta.
Minea đi lại trong cung điện cứ như ở nhà và dẫn tôi đi từ phòng này sang phòng khác, nàng sung sướng reo lên khi nhìn thấy những đồ vật quen thuộc và chào hỏi những người hầu chào đón nàng như thể nàng chưa hề đi vắng. Minea cũng kể bất kỳ quý tộc nào của Crete cũng có thể rời thành phố về trang trại của mình hoặc đi xa đâu đó bất cứ lúc nào anh ta muốn, không cần báo với bạn bè và không ai ngạc nhiên về điều đó hay bất ngờ về sự vắng mặt của anh ta, mà khi trở về, anh ta gặp lại mọi người cứ như không có chuyện gì xảy ra. Có lẽ điều này cũng khiến người ta chết dễ dàng, bởi vì nếu ai đó mất đi, sẽ không ai hỏi cho đến khi người đó bị lãng quên, và nếu ai đó nhớ tới anh ta vì một hợp đồng, một cuộc gặp gỡ hay lời mời đã được đồng ý trước thì họ cũng không băn khoăn khi người đó không đến, bởi vì rốt cuộc có khi anh ta muốn làm một việc gì khác.
Cuối cùng Minea đưa tôi đến một căn phòng xinh đẹp nằm trên sườn đồi cao hơn hẳn các ngôi nhà khác, nên từ cửa sổ lớn của nó nhìn xuống thấy những sân bãi, cánh đồng, rừng ô liu và vườn cây như đang mỉm cười nơi ngoại vi thành phố. Nàng bảo đó là phòng của nàng, mọi thứ vẫn nguyên vẹn như thể nàng mới đi vắng hôm qua, mặc dù trang phục và đồ trang sức trong thùng quần áo và những cái hộp của nàng đã quá cũ kỹ nên không dùng được nữa. Khi đó tôi mới biết nàng sinh ra đã là một Minos của Crete, mặc dù tôi đã có thể đoán điều đó từ tên của nàng. Do đó vàng, bạc và những món quà quý giá chẳng có ý nghĩa gì với nàng vì ngay từ bé nàng đã quen được nhận tất cả những gì nàng muốn. Nhưng nàng đã được dâng hiến cho thần ngay khi còn nhỏ nên được nuôi dưỡng trong nhà trại của bò và sống ở đó thay vì trong cung điện hay trong nhà của người bảo trợ hoặc với bạn bè, vì việc người Crete sống ở đâu cũng thất thường như cuộc sống của họ.
Tôi tò mò muốn được nhìn nhà trại của bò, vì vậy chúng tôi trở lại phòng khánh tiết để từ biệt người bảo trợ Minea; ông ấy vô cùng kinh ngạc khi thấy tôi và lịch sự hỏi liệu trước đây chúng tôi đã gặp nhau chưa vì theo ông ấy tôi nhìn rất quen. Sau đó Minea đưa tôi đến nhà trại bò, thực ra là cả một thành phố, với chuồng trại, đồng cỏ, đấu trường, sân chạy, trường học và khu nhà ở của giáo sĩ. Chúng tôi đi từ trại này đến trại khác trong mùi hôi thối của bò, Minea không ngớt nói chuyện với bò và gọi chúng bằng những cái tên âu yếm, mặc dù chúng cố chọc những chiếc sừng vào nàng qua hàng rào và gầm gừ đào cát bằng những chiếc móng sắc, mắt long lên sòng sọc.
Nàng cũng gặp các chàng trai và các cô gái mà nàng quen, mặc dù những người nhảy múa trước bò thường không phải là bạn bè vì họ ghen tị với tài năng của nhau và không muốn dạy cho nhau các mánh lới của mình. Nhưng các giáo sĩ huấn luyện bò và nuôi dạy các vũ công chào đón chúng tôi; khi biết tôi là danh y, họ đã hỏi tôi vô số điều về hệ tiêu hóa của bò, hỗn hợp thức ăn và độ mượt của lông, mặc dù có thể họ còn biết nhiều hơn tôi về những chuyện này. Họ đặc biệt ưa thích Minea, vì nàng được nhận bò và số dự thi cho cuộc thi vào ngày mai. Nàng gần như bị kích động bởi ước muốn cho tôi xem tài năng của mình trước những con bò tốt nhất.
Cuối cùng Minea đưa tôi đến một ngôi nhà nhỏ, nơi vị giáo sĩ trưởng của thần Crete sống một mình cùng những con bò ở đó, bởi vì dù Minos trên danh nghĩa cũng là giáo sĩ trưởng, song vì phải lo việc trị vì và thương chánh nên ngài không có thời gian để can thiệp vào việc đấu bò mà cũng chỉ cá cược trong những cuộc đua như những người Crete khác. Giống như Minos luôn được gọi là Minos, giáo sĩ trưởng luôn là Minotauros và vì lý do nào đó ông ta là người đáng kính và đáng sợ nhất ở Crete, mọi người tránh nhắc đến tên mà chỉ gọi ông là “người đàn ông trong nhà bò nhỏ”. Ngay cả Minea cũng sợ đến nhà ông ta, mặc dù nàng không tiết lộ điều này với tôi song tôi nhận ra từ đôi mắt của nàng, đôi mắt mà mọi biểu hiện đều quá quen thuộc với tôi.
Khi được báo có chúng tôi đến thăm, ông ta tiếp chúng tôi trong căn phòng sáng nhờ nhờ và khi thấy ông, tôi nghĩ mình đã thấy thần linh và tin mọi chuyện kể về Crete, vì đó là một người giống người nhưng có đầu bò vàng. Tuy nhiên sau khi chúng tôi cúi chào, ông ta lấy đầu bò vàng xuống và để lộ mặt trước chúng tôi. Nhưng dù ông ta mỉm cười lịch sự với tôi, tôi không thích ông ta vì có gì đó cứng rắn và tàn nhẫn trên khuôn mặt vô cảm của ông ta, mặc dù tôi không thể giải thích từ đâu tôi có cảm giác này, vì ông ta là một người đẹp trai, da rất sậm màu và dường như sinh ra để chỉ huy. Minea không cần giải thích gì với ông ta, vì ông ta đã biết tất cả về vụ đắm thuyền và các chuyến đi của nàng, ông ta cũng không hỏi bất cứ điều gì không cần thiết mà chỉ cảm ơn tôi về tình bạn tôi dành cho Minea, cho Crete cũng như thần của họ và nói rằng rất nhiều món quà mà ông ta nghĩ tôi sẽ thích đang đợi tôi ở nhà nghỉ.
- Tôi không nghĩ đến quà, - tôi nói. - Với tôi kiến thức quan trọng hơn vàng, vì thế tôi đã đi tới nhiều vương quốc để tích lũy thêm tri thức cho mình, nhờ vậy mà bây giờ tôi biết các vị thần của Babylon và cả của người Hittite. Giờ đây tôi muốn được biết về thần của người Crete, vị thần mà tôi đã nghe kể nhiều điều kỳ lạ, chỉ yêu thích các thiếu nữ trinh trắng và các chàng trai tơ, trái ngược với thần của Syria có các ngôi đền là những nhà vui và được các giáo sĩ hoạn phụng sự.
- Chúng tôi có nhiều thần mà người dân thờ phụng, - ông ta nói. - Ngoài ra ở bến cảng còn có đền thờ thần của các xứ khác, vì vậy anh có thể tế thần Amon hoặc thần Baal ở bến cảng nếu muốn. Tuy nhiên, vì không muốn anh hiểu lầm, tôi thừa nhận rằng sức mạnh của Crete phụ thuộc vào vị thần đã được bí mật tế lễ từ rất lâu kể từ khi chúng tôi biết đến thần. Chỉ những ai đã được thụ phong mới có thể biết ngài và cũng chỉ biết khi trực tiếp gặp, song chưa một ai trở về để kể hình dạng ngài ra sao.
- Thần của người Hittite là bầu trời và mẹ đất, và mưa từ trời rơi xuống làm cho đất màu mỡ, - tôi nói. - Tôi hiểu biển là thần của Crete, vì sức mạnh và sự giàu có của Crete bắt nguồn từ biển.
- Có lẽ anh nói đúng, Sinuhe ạ, - ông ta nói và mỉm cười rất lạ. - Song anh cần biết rằng người Crete chúng tôi thờ một vị thần sống, khác với các dân tộc lục địa thờ các vị thần đã chết và các tượng gỗ. Thần của chúng tôi không phải là tượng ảnh, mặc dù bò có thể tượng trưng cho ngài, nhưng chừng nào thần của chúng tôi còn sống, sức mạnh của Crete vẫn còn trên biển. Đó là điều đã được tiên đoán và chúng tôi biết điều đó, dù chúng tôi cũng rất tin vào các thuyền chiến của mình, những chiến hạm mà không vương quốc biển nào có thể sánh được.
- Tôi nghe nói thần của các ông ở trong mê cung của ngôi nhà tối, - tôi gặng hỏi. - Tôi rất muốn được thấy mê cung mà tôi đã nghe nói đến rất nhiều, nhưng tôi không hiểu vì sao những người được thụ phong không bao giờ trở về từ đó, mặc dù họ được phép quay về sau khi ở đó một tuần trăng.
- Vinh dự lớn nhất và hạnh phúc tột bậc mà một chàng trai tơ và một trinh nữ Crete có được là được vào lâu đài của thần, - giáo sĩ Minotauros nhắc lại những lời ông ta đã nói không biết bao nhiêu lần, - vì thế các hải đảo đua nhau tiến cử những thiếu nữ xinh đẹp nhất và những chàng trai tài hoa nhất của họ đến nhảy múa trước bò của chúng tôi để họ được bốc thăm. Tôi không biết anh đã nghe chuyện về các sảnh lớn của thần biển chưa, nơi cuộc sống rất khác với cuộc sống trên đất liền, khiến không ai đã vào đó lại còn muốn trở về với đau khổ và nỗi buồn trên mặt đất. Hay cô còn sợ bước vào lâu đài của thần, Minea?
Nhưng Minea không trả lời, và tôi nói:
- Tôi đã thấy ở bãi biển Simyra xác những thủy thủ chết đuối, đầu bị sưng, bụng trương phồng và nét mặt không biểu lộ niềm vui gì. Đó là điều duy nhất tôi biết về các sảnh đường của thần biển, nhưng tôi không nghi ngờ lời ông nói và tôi chúc Minea mọi điều tốt đẹp.
Minotauros lạnh lùng nói:
- Anh sẽ được thấy mê cung, vì chỉ mấy hôm nữa thôi là đến đêm rằm và đêm đó, Minea sẽ vào nhà thần.
- Thế nếu Minea từ chối vào nhà thần thì sao? - Tôi vội hỏi, vì điều giáo sĩ nói khiến tôi ngạc nhiên và trái tim quặn đau, tuyệt vọng.
- Điều đó chưa bao giờ xảy ra, - Minotauros nói. - Anh đừng lo, Sinuhe, Người Ai Cập ạ. Sau khi nhảy trước những con bò của chúng tôi, Minea sẽ tự nguyện vào nhà thần.
Rồi ông ta nhấc đầu bò vàng đội lên đầu để báo hiệu đã đến lúc chúng tôi phải đi và chúng tôi không còn nhìn thấy ông ta nữa. Minea nắm lấy tay tôi và dắt tôi đi, không còn chút hào hứng nào nữa.
❖ 3 ❖Khi tôi về nhà trọ, Kaptah đã ở nhà. Ông ấy đã uống rất nhiều trong quán rượu ở bến cảng và nói với tôi:
- Ông chủ ơi, đất nước này là miền tây của gia nhân, vì ở đây không ai lấy gậy đánh người hầu của mình, cũng không ai nhớ mình có bao nhiêu vàng trong túi hay mình đã sắm những vòng gì. Quả thật đây là miền tây trên mặt đất với người hầu, vì nếu người chủ tức giận và đuổi người hầu ra khỏi nhà là hình phạt tồi tệ nhất ở đây, thì người hầu chỉ cần trốn đi và trở lại vào ngày hôm sau khi người chủ đã quên mọi chuyện. Nhưng với thủy thủ và nô lệ trên bến cảng, đây là một nơi tồi tệ, bởi các giám quản là những người bủn xỉn, dùng những cây gậy sắc, và các thương lái lừa đảo người Simyra cũng dễ dàng như người Simyra lừa dối người Ai Cập. Tuy nhiên, họ có loài cá nhỏ được ngâm với dầu trong các hũ sành, nhắm cùng rượu ngon tuyệt. Tôi đã tha thứ cho họ rất nhiều vì loại cá tuyệt ngon này.
Ông ấy nói những điều này với vẻ hơi ngà ngà như thường lệ, nhưng sau đó ông đóng cửa lại và khi đã chắc chắn không có ai nghe trộm, ông nói:
- Ông chủ ơi, ở đất nước này đang xảy ra những chuyện kỳ lạ, bởi các thủy thủ trong quán rượu nói thần của Crete đã chết và các giáo sĩ đang khẩn cấp tìm vị thần mới. Nhưng đây là những lời nguy hiểm, vì vậy đã có một số thủy thủ bị ném từ vách đá xuống biển làm mồi cho bạch tuộc, bởi có tiên đoán rằng sức mạnh của Crete sẽ tiêu tan nếu thần của họ chết.
Lúc đó trong lòng tôi tràn ngập hy vọng điên rồ và tôi nói với Kaptah:
- Vào đêm rằm tới đây Minea phải vào nhà của thần, nhưng nếu thần của họ quả thực đã chết, có thể là vậy - cuối cùng người dân luôn biết mọi chuyện dù không ai nói gì với họ, lúc đó có lẽ Minea sẽ trở về từ nhà của thần, nơi mà từ trước đến nay chưa có ai trở lại.
- Không phải cô gái đáng nguyền rủa này đã mang đến cho chúng ta quá đủ rắc rối và khó xử rồi ư, - Kaptah nói, - vì theo suy nghĩ của tôi, thật không thích hợp với thanh danh của tôi khi một đứa con gái lấy dép của mình đánh tôi chảy máu mũi. Nhưng ông nói đúng: cuối cùng người dân luôn biết mọi chuyện, mặc dù không ai nói với họ, lúc đầu họ biết mọi chuyện mơ hồ như trong một giấc mộng, nhưng rồi mọi việc sẽ sáng rõ với họ như một tia chớp, và lúc đó người ta đánh nhau ở các góc phố, những ngôi nhà bốc cháy và nhiều thứ thay đổi theo. Tôi hoàn toàn không ghen tị với giới quyền quý Crete nếu thần của họ quả thực đã chết, vì tôi nghĩ khi tin đó lộ ra, cả bến cảng sẽ ùa vào thành phố, thợ rèn cầm búa tạ, ngư dân cầm lưỡi câu và thợ khuân vác sẽ bẻ cây làm chùy, tôi nghĩ thế dù mọi việc có thể khác đi.
Khi ông ấy nói, tôi nhớ lại điều các nhà chiêm tinh Babylon đã dự đoán nên bảo:
- Các giáo sĩ Babylon đã tiên đoán dựa trên các vì sao rằng năm của thế giới sắp kết thúc và các dân tộc sẽ chuyển sang năm mới, khi đó các vị thần sẽ chết và sau đó tất cả sẽ đổi thay. Nhưng có lẽ lời tiên tri này dành cho Crete, bởi thần của Syria và Ai Cập không bao giờ chết mà tồn tại mãi mãi.
- Ông chủ của tôi thật thông thái, - Kaptah nói, - nếu như trong đầu tôi có đủ hơi men, chắc chắn tôi đã hiểu rõ điều ông nói, nhưng lúc này các vì sao và các giáo sĩ, các vị thần và các năm của thế giới rối loạn trong đầu tôi nên điều duy nhất tôi hiểu là điều ông nói về Minea. Cô ta là bắt đầu và kết thúc, là tâm điểm của vòng tròn trong tất cả những câu chuyện của ông nên tôi thấy thật thương hại ông, bởi đã nhiều lần tôi nói với ông, từ một đứa nô tỳ hay gái nhà vui ông vẫn nhận được điều đó, ít phiền toái hơn nhiều. Hơn nữa, những người đàn bà khoe vú như ở Crete này không khép gối vào nhau, theo như tôi nghe được trong quán rượu. Nhưng nếu ông muốn cô ta, vấn đề thật đơn giản: chúng ta lấy gậy đập đầu cô ta, bỏ cô ta vào một cái bao và đưa lên thuyền rồi cùng cô ta dong buồm đến Ai Cập với sự giúp đỡ của bọ hung. Điều này có gì khác hơn đâu, mặc dù tôi tin chắc rằng như thế là ông mang bao mèo hoang vào nhà mình. Nhưng tôi sẵn sàng vì ông mà giúp ông trong công việc nguy hiểm này, bởi tôi không thể đứng nhìn ông vừa nói vừa be be như con dê rầu rĩ và gầy rộc đi, tóc rối bết như lông mèo đực vào kỳ động cái.
Tôi không bực Kaptah vì sự hỗn xược đó mà đã ngẫm nghĩ rất lâu về những lời ông ấy nói và kế hoạch của ông cám dỗ tôi. Nhưng tôi quý trọng Minea và ý chí của nàng đến nỗi trong cơn điên của mình tôi cũng không làm theo lời khuyên của Kaptah. Tôi nghĩ Minea không bao giờ tha thứ cho tôi nếu tôi cướp nàng như mèo trong bao bố.
Ngày hôm sau, nhờ số của Minea, tôi được một chỗ ngồi tốt trong trường đấu bò rộng lớn, nơi những hàng ghế đá cao dần từ dưới lên, ghế sau cao hơn ghế trước nên không ai bị che và đều nhìn thấy bò. Tôi ngạc nhiên và khâm phục sự sắp xếp hợp lý này, điều mà tôi chưa từng thấy ở bất kỳ nơi nào khác, vì ở Ai Cập người ta dựng các sân khấu cao cho các đám rước thần và các cuộc trình diễn để ai cũng nhìn thấy thần cũng như giáo sĩ và vũ công. Những con bò lần lượt được thả ra sân và mỗi vũ công khi đến lượt thực hiện tiết mục phức tạp, đòi hỏi sự khéo léo của mình; vì mỗi tiết mục liên quan đến nhiều màn trình diễn khác nhau, tất cả đều phải được thực hiện chính xác và theo một thứ tự nhất định, mà khó nhất là nhảy giữa sừng bò và từ đó nhảy lộn vòng lên không rồi kết thúc khi đứng trên lưng con bò đang chạy. Không phải tất cả những người thành thạo nhất đều có thể thực hiện toàn bộ các động tác mà không phạm lỗi, vì điều này phụ thuộc nhiều vào bò, cách nó dừng lại, chạy hoặc cúi đầu. Những người quyền quý và giàu có ở Crete đặt cược vào các con số và những vũ công mình mến mộ, nhưng sau khi nhìn các dãy số, tôi không còn muốn hiểu về sự nhiệt thành vô hạn của họ, bởi vì với tôi tất cả bò đều nhàm chán như nhau và tôi không thấy các màn trình diễn có gì khác nhau.
Minea cũng nhảy trước những con bò và tôi sợ thay cho nàng cho đến khi kỹ năng tuyệt vời và sự mềm dẻo của cơ thể nàng mê hoặc tôi, đến mức tôi không còn nhớ đến sự nguy hiểm mà nàng đối mặt nữa mà cùng những người khác mừng rỡ cổ vũ nàng. Ở đây các thiếu nữ cũng như các chàng trai đều trần truồng nhảy múa trước bò, bởi vì trò diễn của họ đầy xảo thuật đến mức ngay cả trang phục nhỏ nhất cũng có thể cản trở sự di chuyển của họ và có thể làm họ gặp nguy hiểm chết người. Theo tôi, Minea là người đẹp nhất, khi nàng nhảy múa thân thể lấp lánh ánh dầu, mặc dù phải thừa nhận cũng có những cô gái xinh đẹp khác, cũng được hò reo khích lệ. Tuy nhiên, mắt tôi chỉ hướng về Minea. So với những người khác, nàng chưa được luyện tập nhiều sau thời gian dài đi vắng và chưa giành được một vòng nguyệt quế nào. Người bảo trợ già đã đặt cược vào nàng rất đau khổ và tức giận về điều này, cho đến khi ông ta quên số bạc đã mất của mình và đi đến nhà bò để chọn những con bò mới và những con số mới mà ông ta được hưởng vì là người đỡ đầu của Minea.
Nhưng khi gặp lại tôi tại nhà bò sau buổi trình diễn, Minea nhìn xung quanh và lạnh lùng nói với tôi:
- Sinuhe, em không thể gặp anh được nữa, vì bạn em rủ em đến các bữa tiệc của họ và em còn phải chuẩn bị đến nhà thần vì ngày kia là rằm rồi. Vì thế chúng ta có thể sẽ không gặp nhau trước khi em đến nhà thần, nếu như anh muốn cùng với những người bạn khác của em tiễn em đến đó.
- Được thôi, như em muốn, - tôi đồng ý, - vì chắc chắn anh có rất nhiều thứ để xem ở Crete, và anh rất thích phong tục của vương quốc này cũng như trang phục của phụ nữ. Khi anh ngồi vào nơi có số của em, nhiều bạn gái của em đã mời anh đến nhà họ, mà nhìn khuôn mặt và ngực của họ cũng dễ chịu, cho dù họ hơi mập hơn và dễ dãi hơn em.
Lúc đó nàng níu chặt lấy cánh tay tôi và đôi mắt lóe lên, nàng thở gấp và nói:
- Em sẽ không cho anh ra ngoài vui chơi với bạn gái của em khi không có em bên cạnh. Sinuhe, vì em ít nhất anh hãy chờ đến khi em đi xa. Mặc dù có lẽ em quá gầy trong mắt anh, điều mà trước đây em không bao giờ nghĩ đến, nhưng anh có thể chấp thuận việc này vì tình bạn với em khi em đề nghị.
- Anh chỉ đùa thôi, - tôi nói, - anh cũng không muốn làm phiền em, vì em có rất nhiều việc phải làm trước khi vào nhà thần. Vậy nên anh sẽ về nhà trọ và chữa cho những người bệnh ở đó, vì ở bến cảng có rất nhiều người bệnh cần đến tay nghề của anh.
Tôi rời khỏi chỗ nàng và rất lâu sau này tôi vẫn ngửi thấy mùi bò trong mũi và cả mùi bò trong nhà bò Crete, tôi cũng không bao giờ quên được, đến nỗi mỗi khi nhìn thấy đàn bò và ngửi thấy mùi chúng, tôi phát ốm đến không thể ăn và trái tim tôi nhói đau. Nhưng tôi vẫn rời nàng, tiếp bệnh nhân ở nhà trọ, chữa cho họ và giúp họ đỡ đau cho đến khi trời tối, đèn trong các nhà vui ở bến cảng sáng lên. Tôi nghe thấy tiếng nhạc vang lên qua các bức tường, tiếng cười nói vô lo của mọi người, vì những nô lệ và người hầu ở Crete cũng học được sự vô lo của chủ nhân họ; ai cũng sống như thể không bao giờ phải chết và trên thế gian không có bệnh tật, nỗi buồn hay khổ đau.
Tối đến tôi ngồi trong phòng và Kaptah đã trải thảm để tôi ngủ, nhưng tôi không muốn thắp đèn mà chỉ ngồi trong bóng tối. Trăng lên to và sáng dù vẫn chưa tròn hẳn, song tôi thấy ghét nó vì đã chia cách tôi với người duy nhất mà tôi có thể gọi em yêu trong cuộc đời, tôi cũng ghét chính mình vì hèn nhát, yếu đuối và không biết mình muốn gì. Cho đến khi cửa mở, Minea bước vào, cẩn thận ngoái nhìn lại phía sau và xung quanh, không còn mặc theo kiểu Crete nữa, trên người chỉ có bộ xiêm áo đơn giản giống như khi nàng nhảy múa cho những người quyền quý cũng như thường dân ở nhiều vương quốc xem, tóc buộc bằng một dải ruy băng vàng.
- Minea, - tôi kinh ngạc kêu lên, - sao em đến đây, anh cứ nghĩ em phải chuẩn bị cho thần của mình?
Nàng bảo:
- Anh nói nhỏ thôi, vì em không muốn người khác nghe thấy.
Nàng ngồi xuống bên tôi, nhìn lên mặt trăng và thốt lên lạ lùng:
- Em không thích giường của mình trong nhà bò, cũng không muốn ngồi giữa đám bạn của mình như trước nữa. Nhưng vì sao em đến đây với anh, đến nhà trọ bến cảng này dù nó hoàn toàn không thích hợp, em không thể nói được. Tuy nhiên, nếu anh muốn ngủ, em không dám làm phiền anh mà sẽ đi, nhưng mỗi khi không ngủ được, em lại muốn một lần nữa được hít thở mùi thuốc và thảo dược quanh anh, véo tai và túm tóc Kaptah vì những lời nói ngu ngốc của ông ta. Những chuyến đi và những dân tộc xa lạ hẳn đã xáo động tâm tính em, bởi em không còn thấy nhà bò là nhà của mình như trước, em cũng không mừng vui vì được cổ vũ trên đấu trường và thậm chí không còn thấy luyến nhớ nhà thần; lời nói của mọi người xung quanh em giống như tiếng mè nheo của những đứa trẻ khờ dại, niềm vui của họ như bọt sóng ven biển và em không còn thấy có gì vui trong các trò tiêu khiển của họ. Trái tim em trống rỗng, đầu em cũng trống rỗng, em không có đến một ý nghĩ nào có thể gọi là của riêng mình. Tất cả những điều đó khiến em đau khổ và em chưa bao giờ cảm thấy buồn như vậy. Vì thế em muốn anh nắm chặt tay em một lúc như trước đây, vì khi anh nắm chặt tay em, em sẽ không sợ điều tệ hại nào và không sợ cả cái chết, Sinuhe ạ, mặc dù em biết anh thích nhìn những người phụ nữ đầy đặn hơn, xinh đẹp hơn em và muốn cầm tay họ.
Tôi nói với nàng:
- Minea, em yêu dấu của anh, thời thơ ấu và niên thiếu của anh giống như một con suối sâu trong vắt, nhưng thời trai trẻ của anh như một dòng sông lớn, nước tràn lên một vùng rộng lớn và bao phủ nhiều miền đất, song nước của nó nông, tù đọng và bốc mùi hôi. Nhưng khi em đến với anh, Minea ạ, em đã dồn nước lại và nước hân hoan chảy xuống dòng sâu, mọi thứ trong anh được gột sạch, thế giới mỉm cười trong mắt anh và tất cả những điều xấu xa đối với anh như mạng nhện, chỉ cần dùng tay nhẹ nhàng gạt nó sang bên. Vì em, anh muốn thành người tốt, chữa bệnh cho mọi người bất kể quà cáp họ cho anh là gì và những thần độc ác không còn quyền lực với anh. Mọi điều là vậy khi em đến với anh, nhưng giờ đây khi em rời xa anh, mọi thứ xung quanh anh trở nên tối tăm và anh như con quạ cô đơn nơi hoang mạc, anh không còn muốn tốt với người khác nữa mà căm hận tất cả kể cả thần linh và không còn muốn nghe chút gì về những đấng ấy. Thế đấy Minea ạ, vì vậy anh muốn nói với em: trên thế giới có nhiều vùng đất, nhưng chỉ có một dòng sông Nile. Hãy để anh đưa em đến miền đất đen bên bờ sông, nơi những con vịt kêu trong đám sậy và mặt trời chèo thuyền vàng băng qua bầu trời mỗi ngày. Hãy đi với anh, Minea, chúng ta sẽ cùng nhau đập vỡ vò và trở thành vợ chồng, sẽ không bao giờ xa nhau, cuộc sống sẽ dễ dàng với chúng ta và khi chết thi thể của chúng ta gặp nhau ở miền tây, cùng sống ở đó mãi muôn đời.
Nhưng nàng bóp chặt tay tôi trong tay nàng rồi đưa ngón tay chạm vào mắt, môi và cổ tôi, nói:
- Sinuhe, em không thể đi cùng anh, dù em muốn, vì không thuyền nào đưa chúng ta ra khỏi Crete, không thuyền trưởng nào dám giấu chúng ta trên thuyền, vì người ta đã canh giữ em cho thần linh và em không thể để người ta giết anh vì em. Cho dù có muốn, em cũng không thể theo anh, vì khi em nhảy múa trước bò, ý chí của bầy bò mạnh hơn ý muốn của em, mặc dù em không thể giải thích điều đó với anh vì bản thân anh chưa trải qua việc ấy. Do đó, em phải bước vào nhà thần vào đêm trăng tròn, điều này em cũng như anh hay bất kỳ thế lực nào khác trên thế gian đều không ngăn cản được. Nhưng vì sao lại thế, em không thể giải thích và có lẽ không ai khác có thể biết ngoài Minotauros. Em đã lớn lên trong bóng thần linh từ khi còn nhỏ xíu và hôm nay khi em nhảy múa trước bò, chúng đã thắng em. Nhưng em bắt đầu căm hận những con bò với nỗi phẫn uất cay đắng, vì chúng bắt em lìa anh; em cũng bắt đầu chán ghét người dân nước mình, bởi họ xem niềm vui chỉ là cái bóng thoảng qua, cuộc đời là trò chơi trẻ con và họ độc ác như những đứa trẻ khát khao thấy máu tuôn chảy trước những con bò. Ngay cả hôm nay, họ rất bất mãn và tiếc nuối khi những đôi sừng bò không đâm thủng ai, không ai bị trượt chân để đàn bò có thể giày xéo lên, xé ruột người đó quấn quanh sừng. Đây là sự thật về cá cược và niềm đam mê lớn lao dành cho những con bò, mặc dù họ không thừa nhận điều đó với nhau hoặc với chính mình mà nói vì ngưỡng mộ tài năng trác tuyệt.
Nàng hôn môi và cổ tôi, dang tay ôm quanh người tôi rồi ép sát người vào tôi và nói:
- Vì tất cả những điều này, Sinuhe ạ, em sẽ rời nhà thần về với anh, vì em được phép làm việc này theo luật của thần bò, mặc dù chưa có ai trở về từ đó. Nhưng em muốn mình là người đầu tiên sẽ trở lại. Sau đó anh sẽ làm cho em những gì anh muốn và cuộc đời của anh sẽ là cuộc đời của em, bạn của anh sẽ là bạn của em và thần của anh cũng là thần của em, Sinuhe ạ.
Nhưng tim tôi trống rỗng như một nấm mồ trong ngực, tôi nói:
- Không ai biết ngày mai chuyện gì sẽ đến và anh không tin là em sẽ trở về từ nơi mà từ trước đến nay chưa có ai trở về. Có lẽ trong các sảnh vàng của thần biển, em sẽ uống sự sống vĩnh cửu từ giếng thần và sẽ quên đi mọi thứ của trần gian, quên cả anh, mặc dù anh không tin điều đó, bởi tất cả những điều như thế chỉ là cổ tích và cho đến nay, tất cả những gì anh thấy từ thần linh ở tất cả các miền đất đều khiến anh không tin vào cổ tích. Vậy nên em phải biết anh sẽ theo dấu chân em vào nhà thần đón em nếu em không trở về trong thời gian đã ấn định. Anh sẽ đón em ngay cả khi em không muốn quay về. Đó là điều anh sẽ làm, Minea, cho dù đó là việc làm cuối cùng của anh trên thế gian này.
Nhưng Minea hoảng sợ đưa tay che miệng tôi và nhìn xung quanh rồi nói:
- Im nào! Điều như thế anh không thể nói ra, thậm chí không được nghĩ tới, vì nhà của thần là nhà tối tăm mà không người lạ nào tìm được đường đến và người chưa được thụ phong bước vào đó sẽ chết thảm thương. Thậm chí anh không thể đến đó vì những cánh cổng bằng đồng đỏ đóng kín nhà thần, em mừng vì thế bởi em biết anh sẽ làm điều anh nói trong sự điên rồ của mình và như thế sẽ đưa mình vào thảm họa. Nhưng hãy tin em, tự em sẽ vui lòng trở về với anh, vì thần của em không xấu xa đến nỗi không cho phép em quay lại với anh nếu em muốn. Ngài quả thật là một vị thần kỳ diệu và đẹp đẽ, người bảo vệ quyền lực của Crete và muốn điều tốt lành cho vạn vật, khiến những cây ô liu tươi tốt, ngũ cốc chín trên các cánh đồng và thuyền dong buồm từ cảng này đến cảng khác. Ngài làm gió thuận chiều và dẫn thuyền đi trong sương mù để những ai được sự bảo trợ của ngài không gặp điều gì xấu. Vậy thì sao ngài lại muốn làm tổn thương em?
Minea đã lớn lên dưới bóng của thần từ khi còn nhỏ, nên nàng lóa mắt vì mù quáng và tôi không thể làm mắt nàng sáng được, mặc dù tôi đã chữa cho người mù bằng kim và giúp họ nhìn lại được. Vì thế trong cơn giận dữ vì bất lực của mình, tôi ôm chặt nàng vào lòng rồi hôn và lấy tay vuốt ve nàng; chân tay nàng mềm, nhẵn như thủy tinh và nàng trong vòng tay tôi như nguồn nước mát dành cho kẻ lang thang nơi hoang mạc. Minea không phản đối mà run rẩy áp mặt vào cổ tôi, nước mắt nàng chảy dài nóng rẫy trên cổ tôi khi nàng nói:
- Sinuhe, anh yêu của em, nếu anh nghi ngờ em sẽ không trở về, em không muốn từ chối anh điều gì nữa, mà anh hãy làm điều anh muốn với em, nếu điều đó mang lại cho anh niềm vui, cho dù vì thế mà em phải chết, vì trong vòng tay anh, em không sợ chết và tất cả đều vô nghĩa nếu thần của em bắt em xa anh.
- Nhưng liệu việc ấy có làm em vui không? - Tôi hỏi Minea.
- Em không biết, - Minea do dự đáp. - Em chỉ biết cả người em bứt rứt và em thấy tuyệt vọng khi không ở bên anh. Em chỉ biết mắt em mờ đi và đầu gối em bủn rủn khi được anh ôm. Trước đây, em ghét mình vì điều đó và sợ anh chạm vào em, bởi vì trước đây mọi thứ trong em đều trong sáng, không gì có thể làm mờ đi niềm vui của em khi em chỉ hãnh diện về tài năng của mình, về sự mềm dẻo của cơ thể và sự hoàn hảo của mình. Giờ đây em biết được vòng tay của anh thật nồng ấm dù nó có thể làm em đau, nhưng em vẫn thực sự không biết liệu mình có vui không nếu anh làm điều anh muốn với em, hay có thể em lại buồn sau đó. Nhưng nếu nó làm anh vui thì xin đừng ngần ngại vì niềm vui của anh là niềm vui của em và em không muốn gì hơn là mang lại niềm vui cho anh.
Tôi buông Minea ra, đưa tay lên vuốt tóc, mắt và cổ nàng rồi nói:
- Chỉ cần em lại là em như khi chúng ta cùng nhau trên hành trình trên những con đường của xứ Babylon, với anh thế là đủ. Hãy đưa cho anh dây vàng buộc tóc em, thế là đủ với anh và anh không muốn gì thêm từ em.
Nhưng nàng ngờ vực nhìn tôi, rồi đưa tay ướm vòng eo hông mình và nói:
- Có lẽ anh thấy em quá gầy, có khi cơ thể em không làm anh vui và có thể anh thích một người phụ nữ nhẹ dạ hơn em. Nhưng nếu anh muốn, em sẽ cố gắng vô tư hết mức có thể và làm mọi thứ theo cách anh muốn, để anh không thất vọng, vì em muốn mang đến cho anh thật nhiều niềm vui.
Tôi mỉm cười, đưa tay chạm vào đôi vai mịn màng của Minea:
- Minea, trong mắt anh không có thiếu nữ nào xinh đẹp hơn em và không ai có thể mang lại hạnh phúc cho anh nhiều hơn em, nhưng anh không muốn ôm em chỉ cho niềm vui của riêng mình, vì điều đó có thể làm em không vui khi em luôn băn khoăn về thần của mình. Nhưng anh biết một việc chúng ta có thể làm mang lại hạnh phúc cho cả hai ta. Chúng ta hãy lấy vò theo phong tục của đất nước anh và cùng nhau đập vỡ nó. Sau khi cùng làm điều đó, chúng ta sẽ thành chồng và vợ, mặc dù anh chưa ân ái cùng em và ở đây không có giáo sĩ nào để làm chứng và viết tên của chúng ta vào sách của đền. Vậy ta hãy để Kaptah mang đến một cái vò để chúng ta có thể làm điều đó.
Đôi mắt nàng mở to, sáng bừng lên dưới ánh trăng và nàng vỗ tay, mỉm cười sung sướng. Vì vậy tôi đi gọi Kaptah, nhưng Kaptah đang ngồi trên sàn ngoài cửa phòng tôi, khóc tấm tức, lấy mu bàn tay chùi hai gò má đẫm nước và khóc òa thành tiếng khi nhìn thấy tôi.
- Có chuyện gì vậy, Kaptah, - tôi hỏi. - Vì sao ngươi khóc?
Kaptah nói ngay không hề ngần ngại:
- Ông chủ ơi, trái tim tôi yếu đuối nên tôi không thể không khóc khi nghe những gì ông chủ và cô gái eo thon đó nói với nhau trong phòng của ông, vì tôi chưa bao giờ nghe điều gì cảm động đến như thế.
Tôi tức điên, đá ông ấy và nói:
- Ngươi định nói ngươi đã ở trước cửa này và nghe lỏm được tất cả những gì chúng ta nói phải không?
Kaptah đáp vẻ ngây thơ vô tội:
- Đúng là điều tôi định nói, bởi có nhiều người đã xông đến trước cửa phòng ông để nghe, những người không có việc gì với ông mà chỉ đi theo rình mò cô ta, vì vậy tôi đã đuổi họ đi, dọa sẽ cho họ ăn gậy của ông và tôi ngồi trước cửa này để canh cho ông vì tôi nghĩ ông sẽ không vui vẻ gì nếu bị quấy rối giữa cuộc nói chuyện quan trọng này. Nhưng khi ngồi đây, tôi không thể không nghe những gì hai người nói, những điều thật đẹp, nên dù có ngốc nghếch khờ dại, tôi không thể không khóc.
Nghe ông ấy kể như vậy, tôi không thể giận được nữa vì sự hồn nhiên của ông, mà chỉ nói:
- M