← Quay lại trang sách

Sách thứ mười một Merit

❖ 1 ❖

Chắc ai cũng đã từng nhìn thấy nước chảy ra từ đồng hồ nước như thế nào. Thời gian của con người cũng trôi đi như vậy, nhưng thời gian của con người không đo được bằng đồng hồ nước mà bằng tất cả những gì xảy ra với họ. Đây là một sự thật lớn lao và cao cả mà người ta chỉ có thể hiểu được vào tuổi xế chiều, khi thời gian trôi đi hoài phí và không có gì xảy ra; mặc dù ta luôn nghĩ sẽ có nhiều điều xảy ra, nhưng ngay sau đó lại nhận ra chẳng có gì. Bởi nếu có nhiều chuyện xảy ra trong một ngày, đến mức trái tim con người thay đổi và biến dạng, thì khi ấy một ngày với người đó có thể dài hơn một, hai năm so với khi anh ta làm việc và sống một cuộc đời đơn giản khiến mình không thay đổi. Ở thành phố Akhetaton, tôi đã nhận ra được sự thật này, vì ở đó thời gian của tôi giống như dòng nước chảy và cuộc đời tôi giống như một giấc mơ ngắn hay một bài hát hay ngân lên hoài phí. Mười năm sống dưới bóng của Pharaon Ekhnaton trong cung điện vàng của ngài ở thành phố Akhetaton với tôi còn ngắn hơn cả một năm tuổi trẻ, thời mà tôi có các chuyến đi và những ngày xảy ra nhiều điều khiến mỗi ngày dài hơn cả năm trường.

Trong thời gian này, kiến thức và kỹ năng của tôi không được bổ sung thêm, trái lại tôi đã phung phí những điều mình thụ đắc được những ngày còn trẻ ở nhiều miền đất, như con ong vào những ngày đông tiêu cạn kiệt số mật mà nó đã tích góp được về tổ của mình trong mùa hoa nở. Nhưng có lẽ thời gian đã bào mòn trái tim tôi như nước chảy chầm chậm bào mòn đá và có lẽ trong khoảng thời gian đó trái tim tôi đã đổi thay, mặc dù bản thân tôi không nhận ra, bởi tôi không còn quá cô đơn như trước. Có lẽ tôi cũng đã trầm lặng hơn và không còn khoe khoang về bản thân và kỹ năng của mình nhiều như trước, nhưng đây chắc không phải là công của bản thân tôi mà chỉ vì Kaptah không sống cùng tôi; ông ấy sống trong nhà tôi ở Thebes, trông coi tài sản và lợi tức của tôi cùng với quán rượu có tên Đuôi Cá Sấu của ông.

Thành phố Akhetaton tự thu mình trong vỏ bọc, trong những giấc mơ và ảo vọng của Pharaon Ekhnaton; thế giới bên ngoài không quan trọng đối với nó mà mọi chuyện xảy ra ngoài ranh giới của Aton đều xa vời, không thực như ánh trăng trên mặt nước và sự thật duy nhất là những gì xảy ra bên trong nó. Sau này nghĩ lại, tôi thấy có lẽ tất cả những điều này đã sai, có lẽ thành phố Akhetaton cũng như tất cả những gì đã xảy ra ở đó chỉ là một cái bóng và đẹp đẽ bề ngoài, còn sự thật ở bên ngoài ranh giới của thành phố là đói khổ và chết chóc. Bởi vì tất cả những gì khiến Pharaon Ekhnaton không hài lòng, người ta đều giấu ngài, hoặc nếu có điều gì đó buộc phải có quyết định của ngài, nó được bọc trong vải mềm, tẩm mật ong và lúa mạch đen thơm, cẩn trọng dâng cho ngài để đầu ngài không bị đau nhức.

Điều đó thường xảy ra vì con người ta yếu đuối và không ai muốn mất ân sủng của Pharaon khi thường xuyên kể cho ngài những điều khó chịu. Nhưng tôi tin và biết rằng như thế cũng chỉ vì tình thương yêu ngài, vì bất cứ ai yêu kính ngài đều muốn ngài càng ít đau đớn và buồn phiền càng tốt.

Ngay cả những sự việc và tai ương nhỏ nhặt cũng tác động đến ngài mạnh hơn so với người thường, khiến ngài bất an và trở nên lo lắng bồn chồn, bệnh của ngài sẽ tái phát và nhiều người yêu thương ngài sợ ngài sẽ không sống nổi nếu ngài biết hết mọi chuyện xảy ra bên ngoài ranh giới thành phố của mình. Tôi tin và biết Pharaon Ekhnaton chỉ muốn sống trong sự thật và sẽ là người đầu tiên quở trách những ai muốn che giấu ngài sự thật vì yêu thương ngài. Nhưng vì ngài chỉ chăm chăm nhìn vào cõi vĩnh hằng, nên tất cả đối với ngài chỉ là cái bóng mờ ảo, và vì thế với ngài mọi chuyện xảy ra bên ngoài thành phố của ngài thậm chí còn mỏng manh hơn cái bóng mờ ảo ấy. Sự thật cũng có thể được kể bằng nhiều cách khác nhau, êm dịu và khéo đến mức khó nhận ra đó là sự thật.

Trong thời gian này, giáo sĩ Eje nắm quyền ở Thebes như là người cầm trượng quyền lực bên phải nhà vua và trên thực tế Thebes vẫn là thủ đô thật sự của cả hai vương quốc, vì Pharaon Ekhnaton bỏ lại ở đó tất cả những gì buồn tẻ và khó chịu trong bộ máy triều đình như sưu thuế, thương mại, tòa án và không muốn nghe gì về những điều đó mà hoàn toàn tin tưởng Eje, cha đẻ của Nefertiti, quốc trượng của ngài, một người đầy tham vọng. Như thế trên thực tế, giáo sĩ Eje trị vì cả hai vương quốc, vì mọi việc liên quan đến đời sống của dân chúng, dù là nông dân hay thị dân, đều nằm trong tay ông ta. Khi Amon bị lật đổ, không còn thế lực nào kìm hãm quyền lực của Pharaon, mà trên thực tế là quyền lực của Eje, ông ta rất thỏa mãn với điều này vì hy vọng đất nước sẽ dần dần ổn định, thoát khỏi ách Amon. Bởi vậy không có gì làm ông ta hài lòng hơn thành phố Akhetaton, nơi giữ Pharaon ở xa Thebes, và ông ta đã làm những gì có thể để gom góp tiền của vào việc xây dựng, làm đẹp thành phố và liên tục gửi đến những món quà sang trọng, quý giá khiến Akhetaton ngày càng đẹp hơn trong mắt Pharaon. Như thế, đất nước quả thật đã có thể yên bình và mọi thứ trở lại như trước, chỉ là không có quyền lực của Amon, nhưng Pharaon Ekhnaton là cây gậy giữa tăm bánh xe và là hòn đá làm lật cỗ xe của ông ta.

Bên cạnh giáo sĩ Eje, Horemheb nắm quyền ở Memphis, nằm trên biên giới giữa hai vương quốc, lãnh trọng trách về trật tự, an ninh của đất nước, nên thật ra anh ấy là sức mạnh trong cây gậy của những người thu thuế và là sức mạnh trong những chiếc búa tạ của thợ đục đá khi những người này đục xóa tên của Amon khỏi tất cả các tượng đài, bia ký và xông vào cả các hầm mộ để tẩy xóa cái tên này. Pharaon Ekhnaton cũng sai mở lăng mộ của cha mình để xóa tên Amon. Đến Eje cũng không phản đối ngài, chừng nào ngài vẫn bằng lòng với trò giải trí trẻ con ấy, và ông ta thấy tốt nhất cứ để mọi suy nghĩ của ngài vướng bận vào những việc thần linh, tín ngưỡng này, những việc không ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày của dân chúng.

Vì vậy, sau những ngày kinh hoàng ở Thebes, cả Ai Cập như mặt nước phẳng lặng, không cơn bão nào tàn phá sự yên bình của nó trong một thời gian. Giáo sĩ Eje đã giao việc thu thuế cho các tổng trấn, điều này giúp ông ta tiết kiệm rất nhiều công sức, còn các tổng trấn bán quyền thu thuế cho các lại viên thuế vụ của các thành phố, làng mạc và trở nên rất giàu có. Đến lượt các lại viên thuế vụ của các thị trấn và làng mạc lại tiếp tục cho không biết bao người giúp việc thuê lại quyền này và trở nên giàu có, và những người giúp việc thu thuế cũng không nghèo đi khi làm việc này, vì họ dùng gậy để đảm bảo quyền lợi của mình. Như thế trong một thời gian, bề ngoài mọi việc vẫn diễn ra như trước và nếu người nghèo kêu than về thân phận mình, rắc tro lên tóc sau khi người thu thuế rời đi, thì đó là điều không lạ với người nghèo trong mọi thời kỳ.

Nhưng sự ra đời của công chúa thứ tư ở Akhetaton là tai họa lớn, hơn cả sự sụp đổ của Simyra ở Syria, và Hoàng hậu Nefertiti bắt đầu nghi ngờ mình bị bỏ bùa, chỉ sinh con gái, nên đã đến Thebes cầu xin các phù thủy da đen của Hoàng thái hậu trợ giúp. Quả thật, hiếm có người đàn bà nào sinh liên tiếp bốn con gái mà không sinh nổi một con trai. Thế nhưng đây chính là số phận của Hoàng hậu, sinh hạ cho Pharaon Ekhnaton cả thảy sáu công chúa mà không có một hoàng tử nào, và cũng là định mệnh của Pharaon Ekhnaton.

Thời gian trôi đi, tin từ Syria ngày càng đáng lo hơn và mỗi khi có thuyền mang tin đến, tôi lại vào văn khố hoàng gia để đọc những lời kêu cứu mới từ các bảng đất sét. Khi đọc chúng, tôi như thấy những làn tên bay chiu chíu xung quanh mình và mùi khói từ những đám cháy bốc lên trong mũi tôi. Tôi nghe trong những lời lẽ tôn kính tiếng gào của những người đàn ông hấp hối và tiếng kêu cứu của trẻ em bị hành hạ, vì quân Amori là đội quân dã man và tràn đến gây chiến dưới sự chỉ huy của các võ quan Hittite, vậy nên dần dần, không một đơn vị đồn trú nào ở Syria có thể chống cự được với chúng. Tôi đã đọc các bảng đất sét của vua Byblos và Thái tử Jerusalem nhắc tới tuổi tác và sự trung thành của họ, những kỷ niệm và tình bạn của họ với phụ vương của Pharaon để mong Pharaon Ekhnaton cứu giúp, cho đến khi ngài quá đau đớn và tức giận trước lời cầu xin của họ, truyền gửi thẳng thư của họ tới văn khố mà không hề đọc, nên chỉ các ký lục và tôi là những người đọc chúng. Nhưng các ký lục chỉ đánh số và sắp xếp chúng theo thời gian nhận được chứ không quan tâm đến nội dung.

Sau khi Jerusalem thất thủ, cả những thành phố cuối cùng trung thành với Ai Cập ở Syria cũng liên minh với vua Aziru, trong số ấy có Joppa. Khi đó Horemheb từ Memphis đến Akhetaton để xin lập quân đội cho cuộc chiến ở Syria, vì anh ấy không thể đến Syria tổ chức phản công nếu không có binh lính, bởi như thế anh sẽ mất hết danh tiếng. Cũng vì danh tiếng mà từ trước đến giờ anh ấy chỉ tiến hành cuộc chiến bí mật bằng thư từ và vàng để giữ lại cho Ai Cập ít nhất một chiến tuyến ở Syria. Anh ấy nói với Pharaon Ekhnaton:

- Xin quốc vương cho phép hạ thần trả lương cho ít nhất một trăm lần một trăm giáo thủ và cung thủ với một trăm cỗ chiến xa, thần sẽ lấy lại toàn bộ Syria cho ngài, vì quả thật, nếu cả Joppa cũng bị thất thủ thì quyền lực của Ai Cập ở Syria sẽ mất.

Pharaon Ekhnaton rất lấy làm tiếc khi biết tin Jerusalem bị tàn phá, vì ngài đã sai làm nhiều việc nhằm biến nó thành thành phố Aton để trấn an Syria. Vì vậy, ngài nói:

- Ông già Jerusalem này, có bộ râu dài mà ta không còn nhớ tên, vốn là bạn của phụ vương ta và ta gặp ông ấy trong cung điện ở Thebes hồi còn bé. Vì thế để bồi hoàn cho ông ấy, ta sẽ tiếp tục cấp hưu bổng cho ông ấy từ Ai Cập, mặc dù doanh thu từ thuế giảm mạnh kể từ khi giao thương với Syria chấm dứt.

Horemheb nói:

- Tâu quốc vương, ông ta không còn vui lòng với tiền hưu và vòng cổ Ai Cập nữa. Vua Aziru đã sai lấy hộp sọ của ông ta làm chiếc bát đẹp, mạ vàng và gửi nó làm quà cho vua Shubbiluliuma ở Khattushash, nếu như quân do thám của thần không nhầm.

Mặt Pharaon thoắt tái nhợt và mắt ngài bắt đầu đỏ lên, nhưng ngài cố kìm cơn đau và bình tĩnh nói:

- Thật khó tin như thế về một vị vua như Aziru, người mà ta đã nghĩ là bạn và ta đã vui lòng gửi thánh giá sự sống, nhưng có lẽ ta đã nhìn nhầm ông ta và tim ông ta đen hơn ta nghĩ. Nhưng Horemheb ạ, đề nghị của khanh về giáo binh và các cỗ xe là bất khả thi, vì ta mới nghe người dân xì xào về mức thuế và mùa màng cũng không như ta mong đợi.

Horemheb nói:

- Tâu quốc vương, vì Aton của ngài, hãy trao cho thần lệnh của ngài cùng với mười cỗ chiến xa và mười lần mười giáo binh để thần có thể đi đến Syria và cứu vãn những gì còn có thể cứu được.

Nhưng Pharaon Ekhnaton nói:

- Vì Aton ta không thể tham chiến, bởi đổ máu là một điều ghê tởm đối với ngài và ta thà buông bỏ Syria còn hơn, hãy để cho Syria được tự do và lập liên minh của họ và chúng ta sẽ giao thương với họ như trước, vì nếu không có ngũ cốc của Ai Cập, Syria sẽ không có đủ cái ăn.

- Quốc vương có thực sự nghĩ họ sẽ bằng lòng với điều đó không, thưa ngài? - Horemheb kinh ngạc hỏi. - Mỗi người Ai Cập bị giết, mỗi bức tường bị phá, mỗi thành phố đầu hàng đều kích động lòng tự tôn của họ và khiến họ cố giành thêm những điều không tưởng. Sau Syria sẽ đến các mỏ đồng ở Sinai và nếu Ai Cập mất chúng, chúng ta sẽ không còn rèn được giáo và tên nữa.

- Chẳng phải ta đã nói giáo gỗ là thích hợp cho các vệ binh ư, - Pharaon Ekhnaton cáu kỉnh nói. - Sao ngươi tra tấn tai ta khi liên tục nói về giáo mác và mũi tên, đến mức những từ ngữ đó ong ong trong đầu khi ta đang cố sáng tác một bài thơ ca ngợi Aton.

- Sau Sinai sẽ đến lượt miền Hạ, thưa quốc vương. - Horemheb chua chát nói. - Như ngài đã nói, Syria sẽ không thể làm gì được nếu không có ngũ cốc của Ai Cập, mặc dù thần biết rằng bây giờ họ nhận ngũ cốc từ Babylon. Nhưng nếu ngài không sợ Syria, ít nhất hãy sợ người Hittite vì tham vọng quyền lực của họ là vô biên.

Pharaon Ekhnaton bật cười tỏ vẻ thương hại, như một người Ai Cập sáng suốt vẫn cười khi nghe lời nói ngớ ngẩn, và ngài nói:

- Chừng nào chúng ta còn nhớ được, không kẻ thù nào đặt chân được đến miền đất đen và sẽ không có kẻ nào dám làm điều đó, vì Ai Cập là vương quốc giàu có và hùng mạnh nhất thế giới. Nhưng ta có thể nói để trấn an ngươi, vì ngươi mê thấy nhiều điều tồi tệ quá. Hittite chỉ là đám mọi rợ chăn thả gia súc trong vùng núi nghèo nàn của họ và đồng minh của chúng ta ở Mitanni sẽ là lá chắn của chúng ta để chống lại họ. Ngoài ra, ta đã gửi thánh giá sự sống cho quốc vương Shubbiluliuma và thể theo đề nghị của ông ta, ta đã gửi cả vàng cho ông ta để ông ta có thể cho dựng tượng ta trong đền của mình, thế nên ông ta sẽ không quấy nhiễu sự bình yên của Ai Cập. Ta gửi vàng cho ông ta mỗi khi ông ta yêu cầu mặc dù dân ta rên rỉ về thuế khóa và ta cũng không muốn lấy sưu thuế đày đọa dân ta.

Các mạch máu trên mặt Horemheb căng phồng lên, nhưng anh ấy đã quen kiềm chế nên không nói gì thêm mà chỉ đi theo tôi khi tôi nói là thầy thuốc, tôi không cho phép anh ấy làm phiền Pharaon thêm nữa. Nhưng khi vừa bước vào nhà tôi, anh lấy roi vàng quất tới tấp vào chân mình và nói:

- Thề với thần Seth và tất cả ma quỷ, cứt bò rải trên đường còn hữu ích hơn thánh giá của ngài ta. Nhưng điều điên rồ nhất là khi ngài nhìn thẳng vào mắt tôi và thân mật đặt tay lên vai tôi như bạn bè, tôi tin sự thật của ngài, mặc dù tôi biết rất rõ rằng mình đúng, ngài sai. Thề có thần Seth và tất cả ma quỷ, ngài ta được nhồi đầy sức mạnh trong thành phố được sơn vẽ loang lổ như một ả điếm và có mùi nhà thổ. Thật vậy, nếu có thể dẫn từng người trên trái đất này đến trước mặt ngài, để ngài có thể tiếp chuyện với từng người và đưa những ngón tay mềm mại của mình chạm vào họ, thì tôi nghĩ thế giới có thể thay đổi, nhưng điều đó là không thể.

Để làm Horemheb vui lên, tôi nói có lẽ điều đó là có thể. Anh ấy phấn chấn hẳn và nói:

- Nếu điều đó có thể, thực sự cần có một cuộc chiến lớn để tôi có thể dẫn tất cả đàn ông, đàn bà và trẻ em trên thế giới đến trước ngài để ngài có thể tiếp năng lượng của mình cho họ và làm mới trái tim họ. Nói thật, tôi nghĩ nếu tôi ở đây lâu, ngực tôi cũng sẽ phồng lên như đám cận thần của ngài và có lẽ tôi đã bắt đầu cho trẻ con bú.

Anh ấy bắt viên ký lục của mình tính xem sẽ mất bao lâu nếu từng người trên thế giới hiện diện trước Pharaon Ekhnaton, trong lúc đó chúng tôi đến xưởng của Thotmes, bạn chúng tôi, vì Horemheb vẫn nhớ lời Thotmes hứa sẽ tạc cho anh một bức tượng và tôi biết trong hầm của Thotmes có rượu ngon. Cửa sổ nhà anh ta nhìn ra hướng bắc, ánh sáng tràn ngập các phòng, anh ta có nhiều nô lệ và môn đệ phụ giúp mọi công việc, nên sân nhà anh ta giống như một mỏ đá với đủ loại đá, không khí trong các phòng đặc quánh bột màu khô và bụi đá vụn. Anh ta ra đón chúng tôi, tóc, mặt ướt đẫm mồ hôi, đôi mắt sáng rực và nói rằng Hoàng hậu Nefertiti đang ngồi làm mẫu, không được phiền người. Nhưng sau khi nghe tiếng chúng tôi, Nefertiti cho phép chúng tôi ngồi lại nhìn người, vì càng được nhiều đàn ông nhìn và ngưỡng mộ thì Hoàng hậu càng thêm phấn khích. Người hầu của Thotmes mang rượu cho chúng tôi và cả Nefertiti cũng uống với chúng tôi. Hoàng hậu đưa bàn tay xinh đẹp đặt khẽ lên ngực, mắt sáng long lanh nhìn Horemheb và nói:

- Horemheb, ta thường lấy làm ngạc nhiên tại sao ngươi chưa chịu chọn hôn thê cho mình, dù bao nhiêu cung nữ than vắn thở dài vì ngươi? Hãy nói cho ta biết lý do vì sao để tiêu khiển ta một chút, vì ta ngồi đây thật khó chịu và Thotmes này rất buồn tẻ, lạnh lùng nhìn ta và nói rằng má ta tóp lại, đang xấu đi trong mắt anh ta.

Horemheb sững sờ trước câu hỏi của Hoàng hậu, mặt thoắt đỏ tía, nhưng anh ấy có thời gian để nghĩ câu trả lời của mình, vì Thotmes ném đục và búa xuống sàn, bật khóc vì mệt mỏi và nói:

- Nói thật, Hoàng hậu này làm tôi phát điên với những lời nói của người và ngày lại ngày Hoàng hậu lấy móng tay cào cấu trái tim tôi vì biết rất rõ ai đã từng nhìn thấy người thì không thể nghĩ tới bất cứ điều gì khác ngoài vẻ đẹp của người. Vì Aton, hãy để tôi yên, người phụ nữ khủng khiếp kia, vì tôi đã năm lần tạc người vào đá nhiều màu và cả người tôi nóng bừng bừng, khi nhìn khuôn mặt, thân hình và chiếc cổ mảnh mai của người thì đá không còn nằm trong tay tôi nữa. Thưa Nefertiti, lần sau thần sẽ tạc người vào gỗ, thần sẽ tạc người và vương miện vào gỗ cứng để có thể tô màu của người lên gỗ, vì có lẽ người sẽ sống trên gỗ tốt hơn trên đá. Với đôi má hóp, người xinh đẹp, sống động hơn bao giờ hết và không người phụ nữ nào có thể đội vương miện hoàng hậu tốt hơn người.

Nhờ thế, Horemheb có thời gian để suy nghĩ, trấn tĩnh lại và nói theo Thotmes:

- Thưa Hoàng hậu Nefertiti, làm sao thần có thể nghĩ đến ai khác khi đã thấy người, và cũng không thèm bận tâm đến các cung nữ của Hoàng hậu, vì thần đã nhiều lần vui thú cùng họ đủ để biết rằng thịt da họ mịn như vỏ trứng, mềm như lông tơ, nhưng đầu họ đặc sệt như phân và thần không hề ngạc nhiên khi họ buộc phải dùng chỏm đầu giả. Nhưng Hoàng hậu là một phụ nữ thông minh và được thừa hưởng ánh mắt sáng lạnh lùng từ quốc trượng, người có tài cai quản đất nước tuy có cổ hủ. Sao Hoàng hậu không khuyên Pharaon mà lại để ngài ngày càng chìm sâu vào những điên rồ, khiến chúng ta không còn biết mình đứng bằng đầu hay bằng chân và màu đen hóa thành trắng trong mắt chúng ta.

Nefertiti nhìn quanh và khi không thấy ai khác ở gần, người mới nói:

- Trong ngài ấy âm thịnh dương suy và nếu ta nói điều gì khiến ngài khó chịu thì tất cả chất đàn ông của ngài biến mất. Vì vậy, tốt hơn hết ta không nói chuyện quốc gia đại sự với ngài, dù vận mệnh vương quốc rơi hết xuống vực sâu của địa ngục cũng kệ, vì điều quan trọng hơn tất cả là ta phải sinh cho ngài một hoàng tử. Vì vậy, ta không thể để ngài bỏ ta quay sang phi tần nào khác. Nhưng theo thời gian, tiếng cười đông cứng trong miệng ta và thái dương ta đau nhức khi nghĩ đến sự điên rồ của ngài, đến nỗi mỗi cái động chạm của ngài đều khiến ta khó chịu và bụng ta bắt đầu đau nhói khi buộc phải nuốt từng từ sắc bén có thể làm tổn thương ngài. Sinuhe, là một danh y, chắc ngươi có thể giải thích điều đó tốt hơn ta, vì quả thực ta đã từng nghĩ một hoàng hậu vĩ đại như ta phải có một cuộc sống tốt hơn nhiều, thế nhưng ngài đã biến ta thành bò cái sinh nở hết năm này đến năm khác, khiến má ta hóp lại, ánh mắt bớt long lanh và thân hình ta trở nên xấu xí, mặc dù ở độ tuổi này đáng ra ta vẫn còn rực rỡ lắm.

Chúng tôi đồng thanh nói với Hoàng hậu rằng người đã quá lời về tác hại của kỳ thai nghén tới vóc dáng của mình, vì thân hình người vẫn còn mảnh mai và xinh đẹp như của thiếu nữ và Hoàng hậu làm như vô tình hở vạt váy để chúng tôi có thể chiêm ngưỡng cái bụng mịn màng, trơn bóng của người. Nhưng Thotmes trở nên trầm tư và nói:

- Hạ thần hiểu gần như tất cả những điều Hoàng hậu nói, chỉ một điều thần không rõ là tại sao Hoàng hậu có thể nói trong Pharaon âm thịnh dương suy, vì theo thần biết thì Hoàng hậu làm gì có ai khác để mà so sánh.

Lần này đến lượt Nefertiti đỏ mặt và nhìn sang hướng khác, ra chiều lưỡng lự; điều này khiến tôi rất vui vì rõ ràng Hoàng hậu vẫn còn rất ngây thơ. Nghĩ một lát, Hoàng hậu nói:

- Thotmes thật khiếm nhã, nhưng ta không thể mong đợi điều gì khác ở anh ta, vì anh ta được sinh ra với phân dính giữa các ngón chân. Nhưng dù sao ta cũng đã đọc thơ và nếu như ta không có ai khác để so sánh, ít nhất ta đã từng thấy những người thợ xây cởi bỏ khố, áo ướt đẫm mồ hôi và nhảy xuống sông bơi. Nhưng những bài thơ cho ta biết nhiều điều hơn mắt mình.

Hoàng hậu mỉm cười mơ màng và trầm giọng nhắc lại:

Nếu ta là mảnh vải quấn quanh hông em,

Nếu ta là mùi dầu xức trong mái tóc em,

Nếu ta là rượu ngọt trong miệng em.

Rồi người thở dài và nói:

- Các nhà thơ nói như vậy đấy, nhưng còn ngài, ngài nói về Aton cả khi trên giường và ta không nghĩ người đàn bà nào có số phận hẩm hiu hơn ta. Ta có gì vui đâu, dù khuôn mặt ta xinh đẹp, vì làn gió xuân chưa bao giờ vuốt ve mơn trớn nó.

Thotmes lại gần Hoàng hậu, đôi mắt nâu vui vẻ thẫm đen lại vì cảm xúc và anh nói:

- Nefertiti, xin người đừng giễu cợt nguồn gốc xuất thân của thần, bởi vì thần sinh ra trong xưởng chứa các cỗ chiến xa và máu của người lính chảy trong huyết quản của thần, nhưng đôi tay thần làm đá sống lại. Nefertiti, hãy giơ tay lên, để gió xuân hôn lên mặt Hoàng hậu và dòng máu nóng hôn khắp thân thể người.

Nefertiti mỉm cười, mơ màng nhìn về nơi xa xăm bằng đôi mắt sáng và nghiệt ngã. Hoàng hậu từ từ nghiêng chiếc cốc trong tay để phần rượu còn lại trong cốc tràn xuống đất và ngắm nhìn rượu thấm vào nền đất. Rồi người đặt cốc sang bên và đứng dậy bước tới chỗ Thotmes, vuốt mớ tóc đẫm mồ hôi trên trán anh ta và nhè nhẹ áp môi mình lên đó. Hoàng hậu không hối tiếc vì đã nói chuyện với chúng tôi, trái lại rất vui và khi ra về người vẫn còn lảo đảo. Nhưng khi người đi khuất, tôi nói với Thotmes:

- Mắt anh đỏ như bị sốt và anh ra quá nhiều mồ hôi. Tôi nghĩ một chuyến đi ngắn sẽ giúp anh sảng khoái và khỏe khoắn lên. Vì Aton, anh nên theo Horemheb đến Memphis và tạc tượng của anh ấy ở đó để anh ấy có thể dựng tượng ở quê hương Hetnetsut của mình như đã dự định. Ở Memphis cũng có những cô gái xinh đẹp và rượu ở đó nghe nói rất ngon.

Nhưng Thotmes nói:

- Cậu nói ngu như một mụ già ấy, Sinuhe ạ, vì tôi có vô số công việc dở dang ở đây và ý tưởng sáng tạo sôi sục trong tôi như nhựa trong cây. Tôi có thể tạc tượng Horemheb ở đây, chỉ cần đầu tiên vẽ anh ấy, rồi lấy các điểm chính ở thân hình và đúc mẫu khuôn mặt vào thạch cao.

- Sinuhe ạ, - Horemheb chen vào, - nhân nói về chuyến đi, cậu cũng nên đến Thebes để nhìn ngó xung quanh vì ở đây, trong thành phố của những người thong manh và mơ ngủ này, các cậu sẽ không tin nếu tôi kể những gì đang xảy ra ở Ai Cập và những gì dân chúng đang xì xào. Đúng đấy Sinuhe, cậu nên đến Thebes rồi về kể lại cho Pharaon những gì cậu thấy, vì Pharaon tin cậu và nghe cậu.

Anh ấy nhổ nước bọt xuống đất rồi dùng chân chà nước bọt và nói:

- Nefertiti này có lẽ không phải là người chung giường dễ chịu, dù nhìn ngắm bà ta thì cũng thích đấy, vì trí thông minh của bà ta sắc nhọn như dao, miệng bà ta đầy ong độc và tôi nghĩ không chóng thì chầy bà ta sẽ bắt đầu vui thú với những người lạ, nếu như tôi am hiểu đủ về đàn bà.

Thotmes nổi xung lên vì những lời này, nhưng tôi trấn an anh ta và nói:

- Đúng là tôi nên đi Thebes để gặp Kaptah, nhưng giường của tôi ở đây dễ chịu, tôi đã quen với những món ăn đầu bếp của tôi nấu, chân tay tôi đã mềm yếu và thân thể tôi không còn chịu được sự rung lắc của thuyền. Hơn nữa, tôi không biết mình có đủ dũng khí để kể cho Pharaon những gì mình nhìn thấy không, bởi vì ngài chỉ muốn nghe nói về những đứa trẻ béo tốt, những người vợ hay cười và cả những người chồng không ngớt chửi rủa nhân danh Aton, trong khi từ lời khuyên của anh, tôi có thể đoán mình sẽ phải kể cho ngài nghe điều gì đó làm ngài buồn. Horemheb ạ, tôi cũng nghe nói những con cá sấu đã chứng tỏ sự khôn ngoan của chúng khi theo anh đến Memphis, vì quản giáo và lính canh của anh thường hay cho chúng ăn cho dù lượng đánh bắt không được nhiều như ở Thebes.

Horemheb uống cạn cốc rượu của mình, đổ đầy cốc rồi lại nốc cạn một hơi và nói:

- Thật tình tôi chỉ ước mình là cá sấu mỗi khi nghĩ đến tương lai Ai Cập. Thôi kệ. Nếu Sinuhe cũng không muốn giúp, có lẽ tôi không biết làm gì khác ngoài việc say xỉn như trước đây mỗi khi nghĩ về tương lai của Ai Cập dưới thời Pharaon Ekhnaton.

❖ 2 ❖

Sau khi Horemheb đã trở lại Memphis, những lời anh ấy nói bắt đầu hành hạ tâm trí tôi và tôi tự trách mình là người bạn xấu của anh ấy và là phò tá tồi cho Pharaon. Nhưng giường của tôi rất mềm và dễ chịu, đêm đến tôi ngủ dưới lọng che và đầu bếp của tôi tẩm ướp những con chim nhỏ trong mật ong cho tôi, trên bàn ăn không thiếu món linh dương nướng và nước chảy nhanh trong đồng hồ nước của tôi. Meketaton, công chúa thứ hai của Pharaon, mắc bệnh suy nhược, rồi sốt và bắt đầu ho, hai má đỏ bừng vì sốt và Công chúa gầy rộc khiến xương đòn nhô cao dưới làn da. Tôi cố gắng tăng lực cho cô bé bằng thuốc bổ và bắt cô uống vàng pha loãng. Tôi nguyền rủa số phận mình vì những cơn bệnh của Pharaon vừa dứt thì con gái ngài lại phát bệnh nên tôi không thể yên thân cả ngày lẫn đêm. Cả Pharaon cũng bắt đầu lo lắng, vì ngài rất yêu thương các hoàng nhi; hai công chúa lớn, Meritaton và Meketaton, được theo ngài lên ban công cung điện vào những ngày ngài xuất hiện trước dân chúng và ném dây chuyền vàng hay biểu tượng hoàng gia cho những người mà Pharaon muốn ban thưởng.

Bản tính của con người là vậy, vì ốm yếu, bệnh tật mà công chúa này được Pharaon yêu quý nhất trong bốn hoàng nhi, ngài cho con gái những quả bóng bằng bạc và ngà voi và một con chó nhỏ để nó theo Công chúa từng bước và nằm bên chân giường canh giấc ngủ cho Công chúa. Bản thân Pharaon cũng trằn trọc, hao gầy vì lo lắng và ngài thức dậy nhiều lần trong đêm lắng nghe hơi thở của hoàng nhi đang bệnh tật, từng tiếng ho của Công chúa như nhát dao cứa trái tim ngài.

Bản tính con người cũng thật kỳ lạ, cô bé ốm yếu này có ý nghĩa đối với tôi hơn cả tài sản của tôi ở Thebes và Kaptah, hơn cả năm mất mùa ở Ai Cập cũng như trận đói khát khiến nhiều người chết ở Syria vì Aton. Tôi đã dồn tất cả kiến thức và tài nghệ của mình để chữa cho cô bé và lơ là các bệnh nhân thuộc giới thượng lưu bị các căn bệnh do quá no đủ, đặc biệt là đau đầu, bởi chính Pharaon cũng bị đau đầu. Tôi có thể thu được rất nhiều vàng nếu chịu xoa dịu cơn đau đầu của họ, nhưng tôi chán vàng và chán phải khom lưng cúi đầu, vì vậy tôi thường xuyên gắt gỏng với bệnh nhân của mình nên mọi người nói: “Danh tiếng danh y hoàng gia đã bốc lên đầu Sinuhe và khi tưởng Pharaon nghe lời mình, ông ta quên những gì người khác nói với mình”.

Nhưng khi nghĩ đến Thebes, Kaptah và quán rượu Đuôi Cá Sấu, nỗi sầu muộn xâm chiếm tâm trí tôi và lòng tôi dâng lên cơn thèm khát, như thể không thức ăn nào có thể khiến nó nguôi ngoai. Tôi cũng nhận thấy tóc mình rụng dần, đỉnh đầu bắt đầu lộ ra dưới lớp tóc giả và có những ngày tôi quên việc của mình, hết mơ màng lại lang thang trên những con phố của Babylon và ngửi thấy mùi ngũ cốc đang dần khô trên nền đất sét cứng. Tôi nhận thấy mình mập ra và đêm đêm có những giấc mộng nặng nề dai dẳng; tôi thở dốc khi tản bộ ngay cả những quãng đường ngắn, mặc dù trước đây tôi chưa từng hụt hơi sau những quãng đường dài, vì vậy ghế kiệu không thể rời tôi.

Trái tim tôi cũng quá lười biếng, nói với tôi:

- Ngươi sướng thật, Sinuhe, chiếc giường của ngươi thật dễ chịu, là danh y khoan sọ hoàng gia, ngươi không cần lo kiếm miếng ăn. Ngươi có những người bạn vui vẻ rót rượu cho ngươi, tôn trọng lời nói của ngươi và luôn coi ngươi là người thông thái. Mắt ngươi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật mới và nhiều nghệ sĩ đã vẽ những hình ảnh kỳ diệu và sống động trên bức tường trong phòng ngươi khi ngươi chữa cho tay họ khỏi run vì say xỉn sau khi uống. Ngươi còn được Pharaon ban cho một ngôi mộ ở vùng núi phía đông, được Pharaon và các công chúa ban phước và sẽ tồn tại vĩnh hằng trong những bức tường của hầm mộ. Vì sao ngươi phải lo lắng về ngày mai, vì những ngày sắp tới của ngươi cũng sẽ chỉ giống như hôm nay. Còn nếu ngày mai không như thế, ngươi cũng không thể thay đổi được gì, bởi vì ngươi chỉ là con người, ngươi đã làm tiêu tan quá nhiều niềm vui và trộn ngải đắng vào cốc vui của Aton. Sao ngươi phải chuốc vạ vào thân và làm mình buồn khổ, vì biết nhiều chỉ buồn thêm, và không có từ nào diễn tả đúng hơn về điều đó.

Tôi đã có những cuộc trò chuyện như vậy với trái tim mình, nhưng đột nhiên tôi cảm thấy ghê sợ với ý nghĩ ngày mai sẽ lại như hôm nay và cuộc đời tôi sẽ không có gì khác hơn những điều đã xảy ra hôm nay. Trái tim con người thật điên rồ, không bao giờ hài lòng với phận mình mà làm mọi cách để xáo trộn sự bình yên và gieo rắc bất ổn, vì vậy tôi đã quá chán trái tim mình.

Nhưng khi mùa thu đến, nước lại dâng lên và chim én từ bùn dưới đáy sông lại ngoi lên và bay vút vào không trung với đôi cánh đập không ngừng nghỉ, sức khỏe của con gái Pharaon có những dấu hiệu bình phục, Công chúa đã mỉm cười và không còn thấy đau ở ngực nữa. Trái tim tôi bay theo cánh én và tôi lên thuyền để ngược sông trở về Thebes. Pharaon cho phép tôi đi và qua tôi gửi lời chào đến những người đã chia nhau đất của thần giả và bắt đầu trồng trọt bên bờ sông. Ngài cũng qua tôi gửi lời chào đến những ngôi trường mà ngài đã cho dựng lên và hy vọng tôi sẽ có nhiều điều tốt lành để kể cho ngài khi trở lại.

Vì vậy, tôi thường cho thuyền ghé vào bờ nơi có làng mạc và cho phép các già làng đến gặp để tôi có thể nói chuyện với họ. Và chuyến đi của tôi không gặp rắc rối như tôi lo ngại vì cờ của Pharaon treo trên cột buồm và giường của tôi trong khoang rất dễ chịu. Đầu bếp của tôi cũng đi theo và dân tất cả các làng đều mang quà lên cho anh ta nên đồ ăn của tôi luôn tươi ngon. Nhưng những cư dân mới đến gặp tôi, chồng thì gầy giơ xương, vợ lấm lét, sợ hãi nhìn quanh, giật mình trước từng tiếng động và con cái họ ốm đau, chân vòng kiềng. Họ cho tôi xem chỗ hạt lúa mạch mới được non nửa thùng và đầy những đốm đỏ như thể máu chảy trên đó rồi nói với tôi:

- Lúc đầu chúng tôi nghĩ mùa màng thất bát là do thiếu kinh nghiệm, bởi trước đây chúng tôi chưa gieo cấy bao giờ. Chúng tôi nghĩ vì lỗi của mình nên được ít lúa mạch như vậy và gia súc bị chết, nhưng bây giờ chúng tôi mới biết đất Pharaon ban cho chúng tôi là đất bị nguyền rủa và người gieo trồng nó cũng bị nguyền rủa. Đêm đêm những bàn chân vô hình giẫm nát ruộng đất của chúng tôi, đêm đêm những bàn tay vô hình chặt cây ăn trái của chúng tôi, gia súc của chúng tôi tự nhiên chết, kênh mương tưới tiêu của chúng tôi bị tắc nghẽn và chúng tôi thấy xác súc vật trong giếng nước, khiến cả nước chúng tôi cũng không có để uống. Nhiều người đã bỏ ruộng đất của họ, trở về thành phố thậm chí còn nghèo hơn trước và nguyền rủa tên của Pharaon và thần của ngài. Nhưng chúng tôi đã gắng gượng cho đến nay vì hy vọng và tin vào thánh giá nhiệm mầu cùng các chiếu, cáo Pharaon ban mà chúng tôi treo lên cọc giữa cánh đồng để xua đuổi châu chấu. Nhưng phép nhiệm mầu của Amon mạnh hơn phép của Pharaon, dù chúng tôi liên tục cầu xin thần của Pharaon, song điều đó cũng không giúp ích được gì. Vì vậy, đức tin của chúng tôi lung lay và sẽ không lâu nữa đâu, chúng tôi sẽ từ bỏ vùng đất bị nguyền rủa để không bị mất mạng như vợ con của nhiều người.

Tôi cũng đã đến xem trường học của họ và khi thấy thánh giá của Aton trên quần áo của tôi, các thầy giáo đã thành kính giấu ngay gậy của họ và đưa tay làm dấu thánh Aton, còn những đứa trẻ ngồi xếp chéo chân thành hàng ngay ngắn trên nền đất nện và nhìn tôi quên lau cả nước mũi. Các thầy giáo nói:

- Tất nhiên chúng tôi biết không có gì điên rồ hơn cho rằng mọi đứa trẻ đều nên học đọc và học viết, nhưng điều gì chúng tôi không làm cơ chứ vì chúng tôi yêu Pharaon và ngài là cha, là mẹ của chúng tôi và chúng tôi tôn kính ngài vì ngài là con trai thần của ngài. Tuy nhiên, chúng tôi là những người đàn ông có học và sao có thể ngồi trên sàn đất nện lau mũi những đứa trẻ bẩn thỉu và vẽ những ký tự xấu xí lên cát, vì chúng tôi thậm chí không có bảng viết cũng như bút sậy để dùng, và những chữ cái mới này hoàn toàn không biểu thị được học vấn và kiến thức mà chúng tôi đã học được với rất nhiều khó khăn và phí tổn. Cha mẹ bọn trẻ trả công cho chúng tôi thất thường và ít ỏi, thật không xứng; bia của họ nhạt và chua, dầu bị ôi thiu trong vò của chúng tôi. Mặc dù vậy chúng tôi vẫn làm tất cả những việc này để Pharaon thấy không thể dạy tất cả trẻ em đọc và viết, mà chỉ những đứa trẻ giỏi nhất với cái đầu thật mềm mới học đọc và học viết được. Chúng tôi cũng nghĩ bắt lũ con gái học viết là điên rồ, vì điều đó chưa bao giờ xảy ra và chúng tôi đoán ký lục của Pharaon đã mắc lỗi khi viết điều này, điều đó cũng cho thấy cách viết mới này không hợp và không hoàn thiện như thế nào.

Tôi đã xem thử học vấn của họ và trình độ của họ không làm tôi hài lòng, tôi còn không hài lòng hơn khi nhìn vào khuôn mặt sưng phù và cái nhìn lảng tránh của họ, vì họ là những viên ký lục kém cỏi không được ai thuê làm nữa. Trình độ có hạn, họ nhận ấn triện của Aton chỉ để kiếm bánh mì cho mình và nếu trong số họ có bất kỳ ngoại lệ nào để tôi có thể khen ngợi, thì một con én cũng không làm nên mùa xuân.

Những cư dân mới và người già trong làng cũng nhân danh Aton và nói:

- Thưa ngài Sinuhe, xin ngài tâu với Pharaon rằng ít nhất nên gỡ gánh nặng học hành này cho chúng tôi vì nếu không, chúng tôi không thể sống được nữa khi con trai chúng tôi từ trường về nhà với những vết gậy bầm tím trên lưng, tóc trên trán bị giật đứt và những ông thầy ghê gớm này ăn thịt chúng tôi một cách vô độ như bầy cá sấu. Không có gì vừa lòng họ, mà họ còn khinh rẻ bánh và bia của chúng tôi, moi đến tấm đồng và tấm da bò cuối cùng của chúng tôi để mua rượu và khi chúng tôi ra đồng, họ vào nhà chúng tôi, ăn nằm với vợ chúng tôi rồi nói đó là ý muốn của Aton, rằng không có sự khác nhau giữa người đàn ông này với người đàn ông khác và người đàn bà này với người đàn bà kia.

Nhưng Pharaon chỉ cho phép tôi chào đón họ nhân danh ngài nên tôi không thể giúp họ được gì. Tuy nhiên, tôi nói:

- Pharaon không thể làm tất cả mọi việc thay các ông, mà lỗi cũng ở từng người các ông một khi Aton không ban phước cho các ông và đồng ruộng của các ông. Tôi cũng biết các ông là những người đàn ông tham lam, không muốn cho con cái mình đi học vì các ông cần chúng làm công việc đồng áng, và các ông bắt con trai của mình đào kênh tưới tiêu trong khi bản thân nằm dài lười biếng. Tôi cũng không thể giữ sự trong trắng của vợ các ông, vì họ tự quyết định muốn ăn nằm với ai. Tôi xấu hổ thay Pharaon khi nhìn các ông vì ngài đã giao cho các ông nhiệm vụ lớn lao và các ông tự quyết làm sao để hoàn thành nó, để có thể tạo ra một thay đổi lớn trên thế giới. Nhưng thay vào đó, các ông đã tàn phá những cánh đồng màu mỡ nhất của Ai Cập, giết mổ và bán đàn gia súc đã được các giáo sĩ mất công thuần hóa.

Nhưng họ hét to:

- Thật tình chúng tôi không muốn thay đổi gì trong cuộc sống của mình, vì ở thành phố dù nghèo nhưng chúng tôi vẫn thấy hạnh phúc và mỗi ngày đều được thấy điều gì đó mới mẻ, còn ở đây chúng tôi không thấy gì ngoài những cái rãnh đất sét và những con bò cái luôn kêu ò ọ. Những người từng cảnh báo chúng tôi đã đúng khi họ nói: “Hãy coi chừng từng sự đổi thay, vì đối với người nghèo mọi thay đổi đều theo hướng tồi tệ hơn và dù có bất cứ thay đổi nào trên thế giới, anh có thể chắc chắn rằng đồng thời, lương thực của người nghèo cũng giảm dần và dầu vơi đi trong các hũ của họ”.

Trái tim tôi mách bảo rằng về điều này họ đã đúng nên tôi không muốn đôi co thêm với họ nữa mà tiếp tục hành trình của mình. Nhưng tim tôi trĩu nặng và tôi tự hỏi vì sao tất cả những gì Pharaon Ekhnaton động đến đều đem lại tai họa, khiến những người siêng năng trở nên lười biếng và chỉ những người khốn khổ nhất quây quần bên Aton như ruồi bu quanh xác chết. Nhưng tôi cũng nhớ lại mình đã nghĩ gì khi xuôi dòng sông trước khi xây dựng Akhetaton, rằng tôi không còn gì để mất, vậy tại sao không theo Aton chứ. Vậy tôi có quyền gì trách cứ những kẻ lười biếng, tham lam và đáng thương, những kẻ không có gì để mất nếu đi theo Aton, mang theo sự lười biếng, khốn khổ và tham lam của họ. Vì điều tôi đã làm trong những năm qua là sống như một con mồi ký sinh trong hoàng cung của Pharaon và chỉ trong một tháng duy nhất, với tư cách là thầy thuốc của người nghèo ở Thebes, tôi đã làm được nhiều việc cho mọi người hơn tất cả những năm vàng son và no đủ ở thành phố Akhetaton.

Một ý nghĩ đáng sợ cũng xâm chiếm trái tim tôi: Pharaon muốn đến một lúc nào đó sẽ không còn kẻ nghèo hay người giàu, mà tất cả sẽ như nhau. Nhưng nếu đúng như vậy và điều này là mục đích duy nhất thì lúc đó dân chúng, những người làm công việc tay chân, sẽ là chính, còn những người khác chỉ là lớp vỏ vàng trên bề mặt. Và có lẽ chính Pharaon và cận thần trong cung điện vàng của ngài cùng với những người giàu sang và quyền quý cũng như những người rỗi rãi, nhàn hạ, và cả bản thân tôi trong những năm tháng cuối này, chỉ là những kẻ ăn bám, ký sinh trên đôi vai người dân như bọ chét sống trong lông chó. Có lẽ bọ chét trong lông chó nghĩ rằng nó mới là chính, còn con chó sống chỉ để nuôi nó béo mầm. Có lẽ cả Pharaon và Aton của ngài cũng chỉ là con bọ trong lông chó, chỉ gây ra phiền hà cho chó chứ không đem lại điều gì tốt đẹp, vì chó có thể sống khỏe hơn nếu không có bọ chét.

Thế là trái tim tôi lại bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài, chối bỏ thành phố Akhetaton. Tôi nhìn xung quanh với cặp mắt mới và không thấy điều gì tốt đẹp quanh mình. Nhưng có lẽ tất cả là vì ma thuật của Amon vẫn bí mật cai trị toàn bộ Ai Cập, lời nguyền của thần này đã khiến mắt tôi nhìn thấy ngược và Thành phố Thiên Đường là nơi duy nhất ở Ai Cập mà quyền lực của thần này không với tới được. Cái gì là sự thật trong tất cả những điều này, tôi không thể nói, vì có những người luôn nghĩ theo một cách và rụt đầu vào mai như những con rùa khi thấy điều gì đó mới mẻ, còn suy nghĩ của tôi luôn thay đổi theo những gì tôi đã thấy, đã nghe và đã hiểu, và nhiều điều tôi đã thấy hoặc nghe cũng đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của tôi, mặc dù tôi chưa hiểu nó.

Vậy là tôi lại nhìn thấy ba ngọn núi ở đường chân trời, ba vệ sĩ vĩnh cửu của Thebes; mái và những bức tường thành của ngôi đền cũng hiện lên trước mắt tôi, song đỉnh của các tháp hình kim không còn lấp lánh như lửa trong ánh sáng ban ngày vì không ai mạ vàng chúng lại. Nhưng cảnh quan này thật thân thương với trái tim tôi và tôi đã đổ rượu từ cốc của mình xuống dòng nước sông Nile, giống như các thủy thủ khi trở về nhà sau một chuyến đi dài, mặc dù họ đổ bia vào nước sông chứ không phải rượu, vì đồng của họ ít nên nếu có được và đủ mua rượu trên đường trở về nhà, họ thà uống nó còn hơn. Tôi lại nhìn thấy những cầu thuyền bằng đá lớn của Thebes và ngửi thấy mùi của bến cảng Thebes, mùi hạt mốc thối và nước nhiễm bẩn, mùi các gia vị và nhựa cây, những mùi rất đỗi thân thương với trái tim tôi.

Nhưng khi tôi về lại ngôi nhà của người thợ đúc đồng ngày trước tại khu phố nghèo gần bến cảng, nó quá nhỏ bé trong mắt tôi; con hẻm phía trước bẩn thỉu, hôi hám và đầy ruồi. Cây sung trong sân không làm tôi mừng rỡ, mặc dù chính tay tôi trồng nó và nó đã mọc cao khi tôi đi vắng. Như thế, sự giàu có và xa hoa của Akhetaton đã làm tôi hư hỏng, khiến tôi xấu hổ về mình và lòng tôi trở nên buồn bã khi không còn thấy vui với nếp nhà cũ của mình.

Kaptah cũng không ở nhà mà chỉ có đầu bếp Muti ra đón tôi và khi nhìn thấy tôi, bà ta hờn giận nói:

- Đội ơn ngày tốt lành đã đưa ông chủ tôi về nhà, nhưng phòng chưa được dọn dẹp, chăn gối đã đưa đi giặt giũ và ông trở về mang lại cho tôi nhiều phiền muộn, lo âu mặc dù tôi thường không đợi chờ niềm vui từ cuộc đời. Nhưng tôi không ngạc nhiên chút nào trước sự trở về bất ngờ của ông vì đây là thói quen của đàn ông và đàn ông chưa bao giờ mang lại điều tốt lành.

Tôi trấn an bà ta rằng tối nay tôi sẽ ngủ trên thuyền và hỏi về Kaptah, nhưng bà ta đạp cầu thang, đá bụi cây trong sân, giậm chân thình thịch trong bếp và tỏ ra rất buồn bực với sự trở về của tôi, vì tôi về chỉ làm phiền bà ta và bà đã già. Vì vậy tôi kệ bà ta ở đó và đi đến quán Đuôi Cá Sấu. Merit ra đón tôi ở cửa và chắc chắn không nhận ra tôi vì trang phục và chiếc kiệu quyền quý của tôi, nàng hỏi:

- Ông đã đặt chỗ cho buổi tối chưa vì nếu chưa, tôi không thể cho ông vào được.

Nàng hơi mập ra, gò má không còn nhô cao trên khuôn mặt như trước, nhưng đôi mắt nàng vẫn như khi tôi nhìn vào trước đây, chỉ có điều xung quanh có nhiều nếp nhăn li ti hơn. Vì vậy, lòng tôi ấm lại, tôi đặt tay lên eo nàng và nói:

- Tôi hiểu rằng em không còn nhớ tôi nữa sau khi ôm ấp nhiều người đàn ông cô đơn và buồn rầu khác trên thảm của em, nhưng tôi tin mình sẽ tìm thấy một chỗ trong nhà em và một cốc rượu lạnh, dù tôi không dám nghĩ đến thảm của em.

Nàng kinh ngạc reo lên:

- Sinuhe, là anh thật ư? - Và nói thêm - Cảm ơn ngày đã đưa ông chủ tôi về nhà.

Rồi nàng đặt đôi bàn tay xinh đẹp, rắn chắc lên vai tôi và nhìn tôi, nói đầy trách móc:

- Sinuhe, Sinuhe, anh đã làm gì với chính mình thế, vì trước đây sự cô đơn của anh là của một con sư tử thì bây giờ là sự cô đơn của một con chó được o bế, béo mẫm và anh còn có dây xích quàng quanh cổ thế này.

Nàng nhấc bộ tóc giả trên đầu tôi rồi nhẹ nhàng vuốt ve cái đầu trọc lốc của tôi và nói:

- Ngồi xuống đi, Sinuhe, em sẽ mang rượu ướp lạnh cho anh vì anh đầy mồ hôi thế này và còn thở dốc nữa sau chuyến hành trình vất vả.

Nhưng tôi vội vã nhắc nàng:

- Đừng mang đuôi cá sấu cho tôi nhé vì bụng tôi chắc không thể chịu được nó nữa và đầu tôi có thể bị đau.

Nàng đưa tay chạm vào má tôi và nói:

- Em già, béo và xấu đến nỗi điều đầu tiên anh nghĩ đến là bụng của mình khi gặp lại em sau nhiều năm phải không? Trước kia anh không hề sợ đau đầu khi có em bên cạnh, trái lại còn tham lam uống hết bao nhiêu đuôi cá sấu khiến em phải ngăn anh.

Tôi thấy buồn vì những lời nói thật lòng của nàng và sự thật thường khiến người ta buồn chán. Vì vậy tôi nói với nàng:

- Ôi, Merit, bạn của anh, anh cũng già đi và chẳng còn làm được gì nữa.

Nhưng nàng nói:

- Anh chỉ tưởng tượng mình đã già đi nhưng mắt anh không hề già đi tí nào khi nhìn em và điều đó khiến em vui thích.

Lúc đó tôi nói với nàng:

- Merit, vì tình bạn của chúng ta, hãy mau mang ra cho anh một đuôi cá sấu, nếu không anh sợ mình sẽ cư xử thô bạo với em và danh tiếng danh y khoan sọ hoàng gia không thích hợp để gây ồn ào, nhất là ở Thebes và trong quán rượu bến cảng.

Merit mang đồ uống ra và đặt vào lòng bàn tay tôi cốc vỏ sò. Tôi nâng cốc lên uống và đuôi cá sấu thiêu đốt cổ họng vốn quen với các loại rượu nhẹ của tôi, nhưng sự bỏng rẫy này thật dễ chịu vì tay kia của tôi vẫn đặt trên eo nàng. Tôi nói với nàng:

- Merit, có lần em bảo với anh lời nói dối có thể ngọt ngào hơn sự thật nếu người ta cô đơn và mùa xuân đầu tiên của người ấy đã tàn lụi. Vì thế anh nói với em rằng trái tim anh vẫn còn trẻ và sục sôi khi anh nhìn thấy em; trong những năm tháng dài đằng đẵng chúng ta xa cách, không ngày nào anh không thì thầm vào gió tên em, mỗi cánh én bay qua lên phía nguồn sông, anh đều gửi lời chào đến em và mỗi sáng mai thức dậy, môi anh thầm thì tên em.

Nàng nhìn tôi, trong mắt tôi nàng vẫn mảnh mai, xinh đẹp, thân thương và trong đáy mắt nàng vẫn ẩn chứa nụ cười và nỗi buồn, như khi ta nhìn vào đáy giếng sâu. Nàng áp tay vào má tôi và nói:

- Anh nói rất hay, Sinuhe, bạn của em. Vậy sao em lại không thừa nhận với anh trái tim em rất mong nhớ anh, và bàn tay em ao ước đôi tay anh khi em nằm cô đơn trong đêm trên thảm của mình. Mỗi lần đuôi cá sấu ngấm, khi đám đàn ông bắt đầu nói những điều ngu ngốc với em thì em lại nhớ đến anh và thấy buồn vô hạn. Nhưng trong cung điện vàng của Pharaon chắc chắn có rất nhiều phụ nữ xinh đẹp và là danh y hoàng gia, chắc anh đã tận dụng hết thời gian rảnh rỗi của mình để chữa trị cho họ.

Quả là tôi đã từng ăn nằm với một vài cung nữ, những người trong cơn buồn chán đã đến xin tôi lời khuyên với tư cách thầy thuốc, vì da của họ mịn như vỏ quả mọng, mềm như lông tơ và nhất là vào mùa đông, hai người nằm bên nhau sẽ ấm hơn đơn chiếc. Nhưng những điều này đều thật phù phiếm và vô nghĩa đến mức tôi thậm chí không buồn viết bất cứ điều gì về nó trong cuốn sách của mình, vì nó không hề để lại dấu ấn trong tôi. Vì thế tôi nói với nàng:

- Merit ạ, đúng là đôi lúc anh không ngủ một mình, nhưng em vẫn là người phụ nữ duy nhất là bạn của anh.

Đuôi cá sấu bắt đầu ngấm, cơ thể tôi trở nên trẻ trung như trái tim tôi, một ngọn lửa yêu đương chạy dọc theo huyết quản và tôi nói với nàng:

- Chắc chắn trong thời gian này có nhiều người đàn ông đã chung thảm với em, nhưng tốt nhất em nên cảnh báo họ về anh, chừng nào anh còn ở Thebes, bởi vì khi tức giận, anh là một người hung dữ. Trong trận chiến chống lại quân Khabiri, những người lính của Horemheb đã đặt cho anh biệt danh “Con Trai Lừa Hoang”.

Nàng làm bộ hoảng sợ giơ tay lên và nói:

- Đây là điều em vô cùng lo sợ và Kaptah đã kể cho em nghe về nhiều cuộc cãi cọ và ẩu đả ác liệt anh đã dính vào ở nhiều miền đất chỉ vì tính nóng nảy của mình, mà chỉ có sự bình tĩnh và trung thành của ông ấy mới giúp anh giữ được cái đầu nguyên vẹn. Tuy nhiên, anh phải nhớ là cha em luôn có một cây gậy giấu dưới chỗ ngồi và sẽ không để cho bất kỳ cuộc ẩu đả nào xảy ra trong ngôi nhà này.

Nhưng khi nghe đến tên Kaptah và đoán ra tất cả những chuyện bịa đặt mà ông ấy đã kể cho Merit về tôi và cuộc sống của tôi nơi xứ lạ, tôi vô cùng cảm động, nước mắt giàn giụa và tôi kêu lên:

- Kaptah, nô lệ và đầy tớ ngày xưa của anh, giờ ở đâu, để anh có thể ôm ông ấy, vì anh rất nhớ ông ấy, mặc dù điều này không thích hợp với danh vị của anh vì ông ấy trước đây đã từng là nô lệ của anh.

Merit vừa ngăn tôi lại vừa nói:

- Em thấy anh không quen uống đuôi cá sấu, mà cha em đang giận dữ nhìn về phía này và tìm gì dưới ghế vì anh làm ầm lên. Nhưng anh không gặp được Kaptah trước tối nay, vì ông ấy phải dành thời gian cho việc làm ăn trong các thương vụ lớn ở chợ ngũ cốc và ở các quán rượu, nơi ký kết các vụ bán mua ngũ cốc, và em nghĩ anh sẽ vô cùng ngạc nhiên khi thấy ông ấy, vì ông ấy hầu như không nhớ mình từng là nô lệ và xách dép của anh với cái gậy trên vai. Vì vậy tốt hơn là em nên đưa anh ra ngoài hít thở không khí trong lành để đuôi cá sấu bay hết khỏi đầu anh trước khi ông ấy về, vì chắc anh muốn thấy Thebes đã thay đổi thế nào trong thời gian anh đi vắng và như vậy chúng ta được chỉ mình với nhau.

Nàng đi thay đồ, xoa lên mặt dầu thơm đắt tiền và đeo thêm đồ trang sức bằng vàng, bạc khiến chỉ có thể phân biệt được nàng với phụ nữ quý phái qua tay chân nàng, mà thật ra ít phụ nữ quý phái nào có ánh mắt rạng rỡ, tự tin và cái miệng kiêu hãnh như nàng. Tôi bảo các nô lệ đưa chúng tôi đi dọc theo con hẻm Nhân Sư và thấy Thebes vẫn chưa được như trước, những vườn hoa bị giẫm nát, những cành cây bị chặt vẫn chọc lên lổn nhổn và dọc theo vài con phố, người ta xây những ngôi nhà mới thay cho những ngôi nhà bị cháy rụi. Chúng tôi ngồi sát bên nhau trong kiệu và tôi hít ngửi mùi dầu thơm của nàng, đó là mùi của Thebes, hăng hơn và nồng say hơn mùi của tất cả các loại dầu đắt tiền của Akhetaton. Tôi cầm tay nàng và trong lòng không còn một ý nghĩ xấu xa nào nữa, mà như thể tôi trở về nhà sau một chuyến đi dài.

Thế là chúng tôi đến ngôi đền và bầy quạ đen bay lượn, quang quác phía trên ngôi đền hoang vắng vì chúng chưa trở về núi mà ở lại Thebes, không ai quấy rầy chúng trong khu vực đền vì đây là vùng đất bị nguyền rủa và mọi người sợ hãi tránh xa nơi này. Chúng tôi xuống kiệu và dạo bộ qua những khoảng sân vắng vẻ. Không bắt gặp bóng người nào ngoại trừ ở sân trước Nhà Sống và Nhà Chết, vì việc dời hai nhà này đi nơi khác rất nhiêu khê và tốn kém. Nhưng Merit kể mọi người cũng tránh xa cả Nhà Sống, vì thế hầu hết các thầy thuốc đã chuyển vào thành phố để hành nghề và giành nhau bệnh nhân. Chúng tôi cũng đi bộ trong vườn của đền, nhưng cỏ mọc đầy trên các lối đi, cây cối bị đốn trộm, cá cụ kỵ ở hồ thánh bị đâm xuyên, bắt hết và nếu chúng tôi nhìn thấy ai trong khu vườn mà Pharaon đã dành làm nơi cho dân chúng tản bộ và sân chơi cho trẻ em, thì đó là một người rách rưới, bẩn thỉu, sợ sệt và lén lút nhìn theo chúng tôi.

Tâm hồn tôi trống vắng hơn khi đi qua khu đền thờ hoang vắng và bóng của thần giả nặng nề đè xuống người tôi, tất cả những điều này minh chứng rằng quyền lực của thần ấy không mất đi cho dù tượng bị phá bỏ, mà ngài vẫn còn lấy sự hoảng sợ thống trị trái tim con người. Chúng tôi cũng đến ngôi đền lớn, cỏ mọc um tùm giữa những phiến đá trên nền, không ai ngăn chúng tôi bước vào nơi linh thiêng nhất và những thánh thư trên tường thật xấu xí và bị báng bổ khi những người thợ đá bất cẩn đục bỏ tên và ảnh của các thần giả trên bản khắc. Merit nói:

- Đây là nơi đầy tai họa và cái lạnh bóp nghẹt trái tim em khi anh đưa em đến đây, nhưng chắc rằng thánh giá của Aton sẽ bảo vệ anh, mặc dù em muốn anh tháo nó ra khỏi cổ, bởi vì ở nơi vắng vẻ, anh có thể bị ném đá hay xỉa dao vào bụng khi trên người có thánh giá Aton. Hận thù vẫn còn rất lớn ở Thebes.

Nàng nói đúng, vì khi chúng tôi đang tay trong tay trở lại sân trước đền, người ta nhổ nước bọt xuống đất khi nhìn thấy thánh giá của Aton trên cổ áo tôi. Tôi cũng vô cùng kinh ngạc khi thấy một giáo sĩ Amon mặc đồ trắng, công khai đi lại giữa đám đông, đầu cạo nhẵn bất chấp lệnh cấm của Pharaon. Khuôn mặt anh ta sáng nhờn mỡ, chiếc áo choàng là loại vải lanh tốt nhất và dường như không một tai ương hay thiếu thốn nào làm anh ta bận tâm, và mọi người vẫn kính trọng nhường lối cho anh ta. Cẩn tắc vô áy náy, tôi liền đưa tay lên ngực để che cây thánh giá Aton, vì tôi không muốn gây náo động vô ích. Tôi không muốn xúc phạm cảm xúc của mọi người một cách không cần thiết, bởi vì không như Pharaon, tôi muốn để mỗi người có đức tin của mình và có lẽ vì Merit, tôi cũng muốn tránh bị quấy rầy.

Thế là ch?