← Quay lại trang sách

Sách thứ mười hai ồng hồ nước đo thời gian

❖ 1 ❖

Thế là điều mà Kaptah đã ước cho tôi khi bị tôi bắt thực hiện chuyến đi gian nan phát lúa mạch giống cho cư dân mới của Aton đã thành hiện thực, mà lại còn tệ hại hơn rất nhiều những gì tôi có thể tưởng tượng ra, vì tôi cũng như ông ấy không chỉ từ bỏ ngôi nhà và chiếc giường êm ái của mình, mà còn phải nếm trải những kinh hoàng của chiến tranh vì Pharaon. Rồi tôi nhận ra rằng tốt nhất người ta nên nghĩ kỹ về những ước muốn trước khi nói ra, vì những ước muốn được nói thành lời rất dễ thành hiện thực và dễ nhất nếu mình ước điều độc ác cho người khác. Ý tôi là, khi ai đó mong ước điều ác cho người khác thì điều ác này dễ thành hiện thực hơn rất nhiều so với khi ước điều tốt cho người đó.

Tôi nghĩ về những điều này và nói với Thotmes khi chúng tôi ở trên thuyền của Pharaon xuôi dọc dòng sông và uống rượu cùng nhau. Nhưng Thotmes bắt tôi im và vẽ những con chim đang bay lên giấy. Anh ấy cũng vẽ chân dung tôi mà không cường điệu chút nào, vì thế tôi phật ý và nói anh không thể là người bạn thật sự của tôi vì đã vẽ tôi theo cách đó. Nhưng anh ấy nói nghệ sĩ không được trở thành bạn của ai trong khi vẽ mà phải tuân theo mắt mình nhìn. Tôi bực quá, liền nói:

- Nếu đúng thế thì đôi mắt cậu đã bị bỏ bùa, vì cậu thấy mọi thứ xấu xa, lố bịch, thấp hèn và tôi cũng trở nên nực cười trong bức vẽ của cậu. Trong mắt cậu chỉ có Hoàng hậu Nefertiti là vẫn đẹp, dù cổ dài và gầy, má hóp và ngày một xấu đi vì những lần mang bầu.

Thotmes hất rượu từ cốc của mình vào mặt tôi và hét lên:

- Đừng nói với tôi về Nefertiti.

Nhưng ngay lập tức anh ấy làm lành, tỏ ra hối hận vì đã làm như thế khi say rồi lau rượu trên mặt tôi và nhã nhặn nói:

- Tôi không có ý xấu, nhưng có lẽ người phụ nữ đó đã thật sự bỏ bùa mắt tôi, như cậu nói, vì tôi không thể thấy ai đẹp hơn người và không ai xấu xí, kinh tởm hơn Pharaon Ekhnaton, mặc dù tôi nên yêu quý ngài vì tất cả những điều ngài làm cho tôi.

Tôi nói với anh ấy như một người bạn:

- Những giấc mơ của cậu thật tệ hại và Nefertiti không thể cho cậu nhiều hơn một nô tỳ nghèo hèn nhất có thể cho.

Nhưng sự thông thái của tôi chẳng an ủi anh ấy chút nào, mà còn khiến anh bức bối trở lại. Vì thế chúng tôi hăm hở uống nhiều hơn, bởi vì rượu, tuy gây ra những cuộc cãi vã và xung khắc, nhưng cũng làm dịu mọi hiềm khích, bất đồng và củng cố tình bạn giữa con người. Không có cuộc cãi vã tồi tệ nào mà rượu không thể xoa dịu, chỉ cần uống đủ.

Thế là chúng tôi đến Hetnetsut, một thị trấn nhỏ ven sông, nhỏ đến mức cừu và gia súc được chăn thả trên đường phố và đền được xây bằng đất sét. Quan lại của thị trấn nồng nhiệt đón chúng tôi và Thotmes đã dựng tượng Horemheb trong ngôi đền trước đây vốn là đền thờ Horus nhưng đã được dâng hiến cho Aton vì Ekhnaton. Điều này không làm người dân thị trấn bận tâm vì họ vẫn thờ Horus, thần đầu chim ưng, trong đền mặc dù ảnh tượng của thần đã bị dẹp khỏi đó. Họ rất vui khi tượng của Horemheb được dựng trong đền và tôi đồ rằng họ sẽ sớm coi anh ấy với Horus là một và tôn thờ anh ấy như Horus, dâng đồ cúng cho anh, vì Aton không có ảnh tượng và nhiều người dân trong thị trấn không biết đọc.

Chúng tôi cũng gặp bố mẹ Horemheb; được Horemheb chu cấp rất nhiều thứ, họ sống trong một ngôi nhà gỗ, mặc dù trước đây họ thuộc nhóm người nghèo nhất thị trấn. Với thói háo danh, Horemheb cũng đã tác động để Pharaon ban cho họ các chức việc như thể họ thuộc hàng quan lại, mặc dù suốt đời họ sống bằng nghề chăn gia súc và nấu pho mát. Bố anh ấy hiện là người giữ dấu triện và là người giám quản các tòa nhà ở nhiều thị trấn và làng mạc, còn mẹ anh ấy là cung nữ và là người trông coi đàn bò của Pharaon, mặc dù cả hai đều không biết đọc và viết. Tất nhiên, những danh vị này chỉ là tước vị danh dự và không liên quan gì tới cuộc sống của họ nhưng cũng nhờ đó mà Horemheb, khi viết tên mình, có thể viết bố mẹ mình thuộc hàng quan lại và không ai khác ở Ai Cập có thể đoán được rằng anh ấy không sinh ra trong một gia đình cao sang. Thói háo danh của Horemheb rõ trơ trẽn.

Nhưng bố mẹ anh ấy là những người chân chất và ngoan đạo, họ mặc những bộ quần áo đẹp, đứng trong đền thờ, ngượng ngập di di những ngón chân trần lên nền đất sét trong khi dân thị trấn quấn những vòng hoa lên tượng con trai họ. Sau buổi lễ, họ mời Thotmes và tôi về nhà, rồi sau khi thay bộ trang phục vướng víu bằng bộ quần áo màu xám sặc mùi bò, họ tiếp đãi chúng tôi, mời chúng tôi pho mát và rượu chua do họ tự chế. Họ cúi đầu thật thấp trước chúng tôi, tay thõng ngang đầu gối và xin chúng tôi kể về con trai mình. Bố Horemheb nói:

- Chúng tôi nghĩ thằng bé ngớ ngẩn khi buộc một mẩu đồng vào đầu cây gậy chăn cừu của nó rồi mài đồng thật sắc và không chịu nhún nhường, mặc dù chúng tôi không ngớt khuyên nó phải ngoan ngoãn vâng lời.

Còn mẹ Horemheb kể:

- Tôi luôn thót tim vì nó, vì từ hồi nhỏ nó thà húc đầu vào đá còn hơn phải đi vòng để tránh, và mỗi khi nó ra khỏi nhà, tôi sợ nó sẽ bị toác đầu, sứt trán hoặc què quặt hoặc bị đánh nhừ tử khi trở về nhà. Thế mà bây giờ nó trở về, được tạc tượng bằng đá trong vinh quang và danh vọng. Nhưng lòng tôi hằng đêm không yên vì nó, sợ nó ăn quá nhiều thịt vì thịt không hợp với bụng nó, và tôi sợ nó chết đuối khi bơi dưới sông vì nó học bơi mặc mọi lời đe nẹt của tôi.

Với sự chất phác của mình, họ nói chuyện với chúng tôi như thế, sờ sờ quần áo và đồ trang sức của chúng tôi, hỏi thăm sức khỏe của Pharaon, Hoàng hậu Nefertiti và cả bốn công chúa nhỏ. Họ cũng kể ngày ngày cầu nguyện thần linh, là Horus, vị thần của con trai họ, để Hoàng hậu sinh được thái tử thừa kế ngai vàng. Chúng tôi tạm biệt bố mẹ Horemheb như những người bạn và để lại tượng của anh ấy trong đền Horus cho người dân Hetnetsut phụng thờ. Thotmes cũng không đi tiếp cùng tôi đến Memphis, mặc cho tôi nài nỉ và van xin anh đi theo vì chính bản thân anh, mà quay trở lại Akhetaton để tạc tượng Hoàng hậu Nefertiti lên một phiến gỗ cứng, vì anh ấy không thể dùng lời nói để biểu đạt. Anh ấy đã bị vẻ đẹp của Nefertiti mê hoặc và tôi nghĩ điều này không tốt cho sức khỏe của anh ấy, vì vẻ đẹp đến mỹ miều của một người đàn bà rất nguy hiểm và gần như là ma thuật, nếu không phải là một loại bùa chú.

Vì vậy chuyến đi đến Memphis của tôi thật buồn tẻ. Tôi vừa giục các tay chèo vừa nghĩ nếu đằng nào cũng phải chết thì kéo dài thời gian nào có ích gì, mà tốt hơn là chết nhanh để không buồn nghĩ quá nhiều. Vì thế, ngồi trên chiếc ghế mềm trong thuyền của Pharaon với cờ hiệu của Pharaon bay phấp phới trên đầu, tôi ngắm nhìn bờ sậy, dòng sông, đàn vịt bay và tự hỏi: “Rốt cuộc, sống và nhìn ngắm những thứ này có đáng không?”. Rồi tôi nói với lòng mình: “Trời nóng như rang, ruồi bâu ngứa ngáy và niềm vui của con người mới ít ỏi làm sao so với tất cả những nỗi lo anh ta trải qua. Mắt anh ta mệt mỏi vì nhìn, tai anh ta bị chọc ngoáy bởi vô số âm thanh và lời nói phù phiếm và trái tim anh ta luôn có quá nhiều giấc mơ để có thể hạnh phúc”. Tôi trấn an lòng mình như thế trên hành trình xuôi dòng sông và ăn những món ngon do đầu bếp của Pharaon nấu, uống rượu cho đến say mèm và lòng thư thái. Ý nghĩ về cái chết do rượu bắt đầu gợi tôi nhớ đến người bạn cũ thân quen; với người ấy, cái chết không có gì đáng sợ, mà cuộc sống với tất cả những khổ đau của nó còn đáng sợ hơn cái chết; cuộc sống như bụi nóng, còn cái chết như làn nước mát.

Thế nhưng mới ở cảng Memphis, tôi đã gặp tình cảnh thật khó xử, tôi thấy ở đó những chiến thuyền mạn bị vỡ do bị đá ném trúng, mũi thuyền nứt toác và cột buồm gãy nát. Tôi thấy những cỗ chiến xa càng bị gãy, bánh bị long ra và ruồi bâu đen hút máu khô dưới thùng xe. Tôi cũng thấy những toán dân tị nạn túm tụm ngả nghiêng trên cầu cảng với vô số tay nải rách tướp, ốm yếu và thương tật, mắt sáng rực đáng sợ trên những khuôn mặt trơ xương. Họ là người Ai Cập và người Syria với quần áo Syria sặc sỡ trên người. Thấy cờ hiệu của Pharaon trên đầu tôi, họ giơ nắm tay bẩn thỉu về phía thuyền của tôi và la hét, chửi rủa tôi bằng nhiều thứ tiếng khác nhau cho đến khi lính canh lấy gậy quất họ và dẹp đường cho tôi rời bến cảng.

Vì là sứ giả của Pharaon, tôi được Horemheb kính cẩn chào đón và anh ấy cúi đầu rất thấp trước tôi, bởi trong dinh chỉ huy của anh ấy có mặt quan lại Syria và những người quyền quý Ai Cập từ các thành phố Syria chạy lánh sang đây, có cả các sứ thần và người đại diện các nước không tham gia vào cuộc chiến, chính vì họ nên anh ấy buộc phải tỏ lòng kính trọng Pharaon. Nhưng khi còn lại hai chúng tôi, Horemheb bắt đầu quất roi vàng vào chân mình và sốt ruột hỏi:

- Cơn gió độc nào thổi cậu đến chỗ tôi, mà lại là sứ giả của Pharaon nữa, cái đầu điên rồ của ông ta lại ấp ủ điều thối tha gì vậy?

Tôi nói việc của tôi là đến Syria và mua hòa bình từ Aziru bằng bất cứ giá nào. Nghe vậy Horemheb nổi khùng, chửi bới và gọi thần chim ưng của anh ấy bằng nhiều cái tên khác nhau rồi nói:

- Chẳng phải tôi đã dự đoán là ông ta sẽ làm hỏng mọi kế hoạch của tôi hay sao, những dự định mà tôi đã lao tâm khổ tứ và mất bao vàng bạc mới vạch ra được, vì cậu phải biết nhờ tôi mà chúng ta vẫn kiểm soát Gaza và Ai Cập vẫn còn một đầu mối cho các hoạt động quân sự ở Syria. Tôi lại phải vừa quà cáp vừa đe nẹt, dọa dẫm để thuyết phục đội thuyền chiến Crete bảo vệ đường biển đến Gaza, vì một liên minh Syria mạnh và tự chủ không có lợi cho Crete mà đe dọa uy lực hải quân của họ trên biển. Cậu cũng phải biết là Aziru đang rất vất vả mới điều khiển được các đồng minh của mình và nhiều thành phố Syria đang hỗn chiến với nhau sau khi đánh đuổi người Ai Cập đi. Những người đàn ông Syria mất nhà cửa, đồ đạc và vợ con đã gia nhập các đội quân ô hợp đang kiểm soát sa mạc từ Gaza đến Tanis và gây chiến chống lại quân của Aziru. Tôi đã trang bị vũ khí Ai Cập cho họ và nhiều người dũng cảm đến từ Ai Cập cũng đã tham gia cùng họ. Ý tôi là tất cả những cựu chiến binh, trộm cướp và những kẻ đào tẩu khỏi các hầm mỏ đã lấy mạng sống của mình tạo nên một lá chắn nơi hoang mạc để bảo vệ Ai Cập. Mặc dù cũng có thể hiểu rằng họ gây chiến chống lại bất cứ ai để kiếm kế sinh nhai từ mảnh đất mình đang gây chiến và hủy diệt tất cả sự sống ở đó, nhưng thà như thế sẽ tốt hơn, vì họ gây nhiều tổn thất và rắc rối cho Syria hơn là cho Ai Cập, vì thế tôi liên tục cung cấp vũ khí và lương thực cho họ. Nhưng quan trọng nhất là cuối cùng, quân Hittite đã dốc toàn lực tấn công Mitanni, quét sạch dân Mitanni ra khỏi lãnh địa và vương quốc Mitanni bị xóa sổ. Tuy nhiên, vũ khí và chiến xa của Hittite bị kẹt ở Mitanni và Babylon, vì đang hỗn loạn nên phải điều quân đến bảo vệ các cột mốc biên giới của họ, còn Hittite lúc này cũng không có đủ thời gian để hỗ trợ nhiều cho Aziru. Cũng có thể, nếu khôn ngoan Aziru sẽ quay sang dè chừng quân Hittite sau khi Mitanni thất thủ, vì không còn lá chắn nào giữa Hittite và Syria. Vì vậy, hòa bình mà Pharaon chào mời vào lúc này là món quà tốt nhất mà Aziru có thể hy vọng để củng cố quyền lực của mình và nhòm ngó xung quanh. Nhưng cậu hãy cho tôi chỉ nửa năm hoặc ít hơn cũng được, tôi sẽ mua cho Ai Cập một nền hòa bình vinh quang và sẽ buộc Aziru phải kính sợ thần linh Ai Cập bằng những mũi tên bay vèo vèo và những chiến xa lao ầm ầm.

Tôi bác lại anh ấy:

- Anh không thể gây chiến, Horemheb, vì Pharaon đã cấm việc đó và cũng không chu cấp vàng để anh tiến hành chiến tranh.

Nhưng Horemheb nói:

- Tôi thèm vào vàng của ông ta. Đúng là tôi đã nghèo kiết xác vì phải vay mượn khắp nơi để trang bị cho đội quân đến Tanis. Thành thực mà nói đây là những đội quân khốn khổ, chiến xa của họ rệu rã và ngựa của họ khập khiễng, nhưng cùng với quân ô hợp, họ có thể là mũi nhọn tấn công vào sào huyệt của Syria, thậm chí cả Jerusalem và Megiddo, khi tôi cầm quân. Sinuhe, lẽ nào cậu không hiểu là tôi đã mượn vàng của tất cả những người Ai Cập giàu có, những người ngày càng giàu hơn và bụng căng tròn như ếch trong khi dân chúng chịu thiếu thốn và kêu than vì sưu thuế nặng. Tôi đã vay vàng của họ, báo cho từng người số vàng tôi cần và họ vui vẻ cho tôi vay, vì tôi hứa sẽ trả cho họ với lãi suất một phần năm một năm. Nhưng tôi rất muốn thấy nét mặt họ nếu lúc nào đó họ dám đòi tôi lời lãi và vàng của mình, vì tôi làm những điều này để giải cứu Syria cho Ai Cập và nói cho cùng, chính những người giàu nhất sẽ được hưởng lợi từ việc đó, bởi những người giàu nhất luôn luôn hưởng lợi nhiều nhất từ chiến tranh với chiến lợi phẩm và điều tuyệt vời nhất là họ sẽ được hưởng lợi cho dù tôi có bị thất trận. Vì vậy, tôi hoàn toàn không tiếc vàng của họ.

Horemheb cười đắc chí, đập đập roi vàng vào chân rồi đặt tay lên vai tôi và nói tôi là bạn anh ấy. Nhưng rồi anh nghiêm túc trở lại và rầu rĩ nói:

- Vì chim ưng của tôi, Sinuhe, cậu không định phá hỏng hết và làm sứ giả hòa bình đến Syria đó chứ?

Tôi đành giải thích với anh ấy rằng Pharaon đã xuống chiếu và truyền trao cho tôi tất cả những bảng đất sét cần thiết cho việc hòa giải. Nhưng cũng thật hữu ích cho tôi khi biết Aziru cũng muốn hòa bình, nếu những gì Horemheb nói là đúng, vì trong trường hợp đó Aziru có lẽ sẵn sàng bán hòa bình với giá rẻ.

Nghe thế, anh ấy phát khùng, đá đổ ghế và hét lên:

- Nói thật nhé, nếu cậu làm nhục Ai Cập và mua hòa bình từ Aziru, tôi thề sẽ cho lột da sống cậu và quẳng cậu làm mồi cho cá sấu khi cậu trở lại, mặc dù cậu là bạn của tôi. Hãy nói với Aziru về Aton, làm ra vẻ ngốc nghếch và nói rằng với lòng tốt không thể hiểu nổi của mình, Pharaon muốn xá tội cho hắn ta. Chắc chắn Aziru sẽ không tin cậu, vì hắn là một kẻ xảo quyệt, nhưng hắn sẽ nghĩ đến nát óc trước khi đuổi cậu đi, mặc cả đến độ cậu mệt lử, như cách chỉ người Syria mới làm, và đe dọa tính mạng cậu, nhồi sọ cậu bằng những điều dối trá. Nhưng dù thế nào cậu cũng không nhường Gaza cho hắn và hãy nói rõ là Pharaon không thể chịu trách nhiệm về các đội quân ô hợp và việc cướp bóc của chúng. Các đội quân ô hợp sẽ không hạ vũ khí trong bất cứ tình huống nào, mà sẽ ỉa vào các bảng đất sét của Pharaon. Tôi sẽ lo việc đó. Tất nhiên cậu không cần phải nói điều này với Aziru. Cậu chỉ nói với hắn ta rằng quân ô hợp là những người hiền lành và kiên nhẫn, bị nỗi đau khổ làm cho mù quáng, nhưng khi hòa bình lập lại họ chắc chắn sẽ đổi ngọn giáo của mình lấy gậy của người chăn cừu. Nhưng đừng có nhường Gaza, nếu không tôi sẽ tự tay lột sống cậu. Tôi đã phải chịu rất nhiều nỗi đau, tôi đã phải ném quá nhiều vàng vào cát, tôi đã hy sinh những do thám tốt nhất của mình trước khi mở được những cánh cổng Gaza cho Ai Cập.

Tôi ở lại Memphis nhiều ngày để bàn thảo các điều khoản hòa bình với Horemheb và tranh cãi với anh ấy. Tôi đã gặp sứ thần của Crete, của Babylon và gặp cả những người quyền quý đã trốn khỏi Mitanni. Qua những lời họ kể, tất cả những gì đã xảy ra hiển hiện trước mắt tôi và khát vọng cháy bỏng muốn hiểu đã chế ngự tôi và lần đầu tiên tôi cảm thấy mình là một nhân tố quan trọng trong một trò chơi lớn, trong đó số phận của các thành phố và dân tộc đang bị định đoạt.

Horemheb nói đúng: hòa bình vào lúc này là món quà có giá trị với Aziru hơn với Ai Cập, nhưng theo tất cả những gì đang xảy ra trên thế giới, nền hòa bình này chỉ có thể là một cuộc đình chiến tạm thời, vì sau khi ổn định được tình hình ở Syria, Aziru sẽ quay lại đối đầu với Ai Cập. Xét cho cùng, Syria là chìa khóa của thế giới, và Ai Cập, vì an ninh của chính mình, không thể để Syria rơi vào sự kiềm tỏa của một liên minh thù địch đang rình rập và được mua bằng vàng sau khi quân Hittite triệt hạ Mitanni. Giờ đây, tương lai phụ thuộc vào việc người Hittite, sau khi ổn định quyền lực ở Mitanni, sẽ thông qua Babylon hay Syria chống lại Ai Cập. Lý trí của tôi nói rằng họ sẽ chọn nơi có sức kháng cự yếu nhất, mà Babylon vũ khí đã sẵn sàng, còn Ai Cập lại yếu và không được trang bị vũ khí. Chắc chắn không ai muốn liên minh với Hittite, nhưng nếu là đồng minh của Hittite, Aziru có sức mạnh phía sau, còn nếu là đồng minh của Ai Cập chống lại Hittite, Aziru chắc chắn sẽ phải đối mặt với diệt vong chừng nào Pharaon Ekhnaton còn trị vì Ai Cập và sau lưng ông ta chỉ có cát.

Tôi hiểu tất cả những điều này và với sự tỉnh táo lạnh lùng khi mọi nỗi kinh hoàng của chiến tranh đã lùi xa, tôi không còn nghĩ đến khói của những thành phố đang cháy và những sọ người đang dần làm trắng hếu các bãi chiến trường, cũng như không nghĩ đến những người chạy nạn đang xin bánh mì trên các ngõ phố ở Memphis, cũng không quan tâm đến các nhà quyền quý Mitanni đang rao bán vàng bạc và đồ trang sức để có thể rượu chè và búng những ngón tay thon nhỏ của họ vào lớp đất màu mỡ của Naharani mà họ gói trong những cuộn vải mang theo mình. Horemheb nói tôi sẽ gặp Aziru ở đâu đó giữa Tanis và Gaza, nơi ông ta cùng với các chiến xa đã chiến đấu chống quân ô hợp. Anh ấy cũng kể cho tôi nghe về tình hình Simyra và kể ra số căn nhà bị thiêu rụi trong cuộc vây hãm cũng như tên của những quý tộc đã bị giết trong cuộc bạo loạn, khiến tôi hết sức ngạc nhiên về lượng tin tức mà anh ấy có. Rồi anh ấy kể cho tôi nghe về những thám báo của mình, những người đã đến các thành phố của Syria và bám theo đoàn quân của Aziru trong vai kiếm sĩ, người làm trò ảo thuật, thầy bói, kẻ bán bia và thương buôn nô lệ. Nhưng anh ấy nói các do thám của Aziru cũng đã đến tận Memphis bằng những cách như vậy. Aziru cũng trả tiền cho các trinh nữ của nữ thần Astarte để đi dò la và họ rất nguy hiểm vì nhận được rất nhiều thông tin quan trọng trong khi mua vui cho các chỉ huy Ai Cập, nhưng may thay họ không hiểu mấy về những thông tin liên quan đến cuộc chiến. Cũng có những kẻ phục vụ cho cả Horemheb lẫn Aziru và Horemheb thừa nhận đây là những kẻ khôn ngoan nhất, vì sẽ không gặp nguy hiểm ở bất cứ phía nào mà còn giữ được mạng sống và kiếm được nhiều vàng.

Thế nhưng những người chạy nạn và các cai đội của Horemheb đã kể cho tôi nghe những câu chuyện rất đáng sợ về những người đàn ông Amori và quân ô hợp Ai Cập, khiến tim tôi run rẩy và đầu gối tôi mềm nhũn khi gần đến lúc phải lên đường. Horemheb bảo:

- Cậu có thể chọn đi theo đường biển hay đường bộ. Nếu đi theo đường biển, có thể thuyền của cậu sẽ được thuyền chiến của Crete bảo vệ đến tận Gaza, nhưng cũng rất có thể họ không làm thế mà sẽ tháo chạy khi thấy thuyền chiến của Sidon và Tyre trấn giữ phía ngoài biển Gaza. Trong trường hợp này, nếu cậu chiến đấu dũng cảm, thuyền của cậu sẽ bị đánh chìm và cậu sẽ chết đuối. Còn nếu không, thuyền của cậu sẽ bị cướp, cậu sẽ bị bắt làm người chèo thuyền trên các thuyền chiến của Syria và sẽ chết trong vài ngày vì roi vọt và nóng bức. Nhưng cậu là người Ai Cập và thuộc tầng lớp quyền quý, vì thế nhiều khả năng họ sẽ lột da cậu và treo lên khiên cho khô để dùng nó làm túi xách và ví đựng tiền. Tuy nhiên, tôi hoàn toàn không muốn dọa cậu, mà có thể cậu sẽ đến Gaza an toàn, như lần cuối thuyền chở vũ khí của tôi đã đến được đó, còn thuyền chở lương bị đánh chìm. Nhưng làm thế nào để cậu thoát ra từ Gaza bị bao vây để đến gặp được Aziru, tôi thực sự không thể nói.

- Có lẽ chắc chắn nhất, tôi sẽ đi theo đường bộ, - tôi ngập ngừng nói với Horemheb. Anh ấy gật đầu đồng ý và giải thích:

- Tôi sẽ cho một đội quân hộ tống cậu từ Tanis, với mấy tay giáo và chiến xa. Nếu liên lạc được với quân của Aziru, họ sẽ để cậu lại một mình ở hoang mạc và nhanh chóng rút đi. Nhưng khi biết cậu là người Ai Cập và là sứ thần, có thể quân Aziru sẽ xuyên cậu lên mũi giáo theo kiểu của người Hittite và đái lên các bảng đất sét của cậu. Cũng có thể dù được hộ tống, cậu vẫn rơi vào tay quân ô hợp và chúng sẽ trấn lột cậu sạch bong, bắt cậu quay cối xay đá cho đến khi tôi có thể chuộc cậu bằng vàng, mặc dù tôi không tin cậu sẽ trụ được lâu vì da cậu màu khói, không chịu được ánh nắng mặt trời và những ngọn roi được làm từ da hà mã. Nhưng cũng có khả năng là sau khi cướp sạch của cậu, chúng sẽ dùng giáo đâm thủng bụng cậu rồi để xác cậu lại cho quạ rỉa và đây không phải là cách tồi tệ nhất để kết thúc cuộc đời mà cậu được chết khá dễ dàng.

Nghe tất cả những điều này, tim tôi càng run hơn, chân tay tê lạnh dù đang giữa mùa hè nóng rực. Vì vậy, tôi bảo:

- Tôi rất tiếc vì bọ hung của tôi đã ở lại chỗ Kaptah để canh giữ tài sản cho tôi, vì có thể bọ hung còn giúp tôi tốt hơn Aton của Pharaon vì có thể thấy quyền lực của thần không đến được những vùng đất đầy tội lỗi này, qua những lời anh nói. Nhưng xét mọi khía cạnh, tôi sẽ gặp được Aziru hoặc chết nhanh nhất nếu tôi đi đường bộ và được chiến xa của anh hộ tống. Vì vậy tôi sẽ đi đường bộ. Nhưng hãy thề đi, Horemheb, vì tình bạn của chúng ta: nếu anh nghe tin tôi bị bắt kéo cối xay ở đâu đó, hãy mau chóng chuộc tôi về và đừng có tiếc vàng vì tôi là người giàu có hơn anh tưởng, mặc dù bây giờ tôi không muốn liệt kê hết tài sản của mình cho anh biết vì chính tôi không biết được tất cả.

Horemheb nói:

- Tôi biết rõ sự giàu có của cậu và tôi đã vay khá nhiều vàng của cậu từ Kaptah cũng như của những người Ai Cập giàu có khác, vì tôi là người ngay thẳng, không thành kiến và không muốn bỏ quên cậu khỏi công trạng này. Nhưng vì tình bạn của chúng ta, tôi hy vọng cậu không đòi tôi vàng của cậu, vì việc này có thể khuynh đảo hoặc xấu nhất là cắt đứt tình bạn. Vì vậy, đi đi, Sinuhe bạn tôi, hãy đến Tanis, lấy đội hộ tống ở đó rồi đi vào hoang mạc. Chim ưng của tôi sẽ bảo vệ cậu ở đó, việc mà tôi không thể làm nổi vì lực lượng của tôi không tới được vùng sa mạc. Nếu cậu bị bắt làm tù binh, tôi sẽ lấy vàng chuộc cậu ra, còn nếu cậu chết tôi sẽ trả thù cho cậu. Mong điều này an ủi cậu một khi có ai đó đâm giáo vào bụng cậu.

- Nếu được tin tôi chết, anh đừng phí công trả thù cho tôi, - tôi chua chát nói với anh ấy. - Anh hoàn toàn không an ủi được chiếc đầu lâu bị quạ mổ của tôi cho dù có lấy máu của những người khốn khổ tội nghiệp rưới lên nó. Hãy chỉ thay mặt tôi chào Công chúa Baketaton, vì nàng là một phụ nữ xinh đẹp và đáng mơ ước, dù nàng kiêu kỳ và bên quan tài của mẹ mình, nàng đã hỏi tôi rất nhiều về anh.

Sau khi bắn mũi tên tẩm độc này qua vai, tôi cảm thấy được an ủi phần nào và bảo ký lục ghi chép và chứng thực các ấn triện cần thiết vào di chúc, trong đó tôi xác nhận để lại tài sản của mình cho Kaptah, Merit và Horemheb. Tôi gửi bản di chúc này vào văn khố hoàng gia ở Memphis rồi dong thuyền đến Tanis và gặp những người lính biên phòng của Horemheb trong một pháo đài nằm bên hoang mạc dưới cái nắng như thiêu đốt. Họ uống bia và nguyền rủa ngày được sinh ra, săn linh dương nơi hoang mạc, rồi lại uống bia. Những túp lều đất sét của họ bẩn và khai rình mùi nước tiểu. Họ xoa dịu nỗi cô đơn của mình bằng việc vui vẻ với những người đàn bà khốn khổ nhất, những người mà thủy thủ ở cảng Hạ Ai Cập cũng không thèm ngó ngàng tới. Nói một cách ngắn gọn, họ có cuộc sống bình thường của lính nơi biên ải và háo hức chờ đợi Horemheb đến, dẫn họ vào cuộc chiến chống Syria để họ được đổi đời, có bia ngon hơn và đàn bà trẻ hơn. Vì dù phận đời nào đang đợi họ đi chăng nữa, thậm chí là cái chết, theo họ vẫn còn tốt hơn cuộc sống đơn điệu đến khủng khiếp trong những túp lều đất sét bị nắng hun nóng. Vì thế, họ khát khao ra trận và thề sẽ đi đầu các đội quân ô hợp, làm mũi nhọn tấn công đến Jerusalem và Megiddo, hất các đội quân hôi hám của Syria ra khỏi đường đi của họ như cơn lũ quét đám sậy khô cản đường. Nhưng những gì họ hứa sẽ làm cho Aziru và những người Amori cũng như các thủ lĩnh Hittite thì tôi không thể nhắc lại, vì đó là lời nói vô đạo.

Tinh thần quyết chiến vì vinh quang Ai Cập của họ hừng hực như thế và họ nguyền rủa Pharaon Ekhnaton, vì trong thời bình họ lẽ ra có cơ hội lúc đi thu thuế các đoàn lữ hành đến Ai Cập, lúc lại vui vầy với vợ những người du mục, nhưng Pharaon Ekhnaton vì thần của mình đã tạo ra một thời kỳ không chiến tranh mà cũng không yên bình. Trong nhiều năm, không có đoàn lữ hành nào đi qua Tanis đến Ai Cập và dân du mục đã chạy hết xuống Hạ Ai Cập. Còn nếu có đoàn lữ hành nào gắng đến Ai Cập từ Syria hoặc từ hoang mạc liền bị quân ô hợp cướp sạch trên đường đi trước khi lính biên ải của Pharaon kịp làm việc đó, bởi vậy lính biên ải của Pharaon rất coi thường quân ô hợp và gọi họ bằng những cái tên miệt thị.

Trong khi đội hộ tống chuẩn bị cho chuyến đi, đổ đầy các bao nước, bắt ngựa từ nơi chăn thả về và thợ rèn vặn chắc bánh những cỗ chiến xa, tôi nhìn ngó quanh mình và lúc đó tôi đã hiểu bí mật trong việc huấn luyện binh sĩ là gì và điều gì khiến binh lính dũng mãnh hơn sư tử. Người chỉ huy chiến trận tài giỏi tôi luyện lính của mình trong nhục hình khủng khiếp, bắt họ luyện tập liên miên và bằng mọi cách khiến cuộc sống của họ trở nên không thể chịu nổi, khiến họ hiểu rằng bất cứ điều gì đi nữa, chiến tranh hay ngay cả cái chết, vẫn tốt cho họ hơn là cuộc sống trong trại lính. Nhưng điều lạ nhất là khi ấy binh lính không hề căm ghét chỉ huy của họ mà còn ngưỡng mộ và hết lời ca ngợi anh ta, khoe khoang về tất cả những nhục hình mà mình phải chịu cũng như những vết gậy hằn trên lưng. Bản tính của con người thất thường và đáng kinh ngạc đến như thế, và khi nghĩ về điều đó, thành phố Akhetaton mờ đi trong tâm trí tôi như ảo mộng.

Theo lệnh của Horemheb, đội hộ tống tôi ở Tanis được trang bị mười cỗ chiến xa, mỗi chiếc do hai ngựa kéo kèm theo một con dự phòng và ngoài người điều khiển, mỗi cỗ xe có một chiến binh và một giáo thủ. Khi ra mắt tôi, viên chỉ huy đội hộ tống cúi đầu thật thấp trước mặt tôi và để thẳng tay xuống ngang đầu gối. Tôi nhìn anh ta rất kỹ, vì mạng sống của mình được đặt trong tay anh ta. Chiếc xà rông của anh ta bẩn và tả tơi như của lính tráng, nắng hoang mạc đã nướng sạm đen mặt và thân thể anh ta, chỉ có cây roi bện bạc phân biệt anh ta với quân lính.

Chính vì điều này mà tôi tin tưởng anh ta hơn là khi vai anh ta khoác tấm vải choàng đắt tiền và còn có ai đó cầm chiếc ô che nắng phía trên đầu. Nhưng khi tôi cố gắng nói với anh ta về chiếc kiệu thì anh ta quên hết sự kính trọng và phá lên cười. Và anh ta khiến tôi tin khi giải thích lá chắn duy nhất của chúng tôi là tốc độ và tôi phải đi cùng anh ta trên chiến xa, quên đi ghế kiệu và những tiện nghi khác của cuộc sống. Anh ta hứa để tôi ngồi trên các bao cỏ cho ngựa nếu tôi muốn, nhưng khuyên tôi rằng tốt hơn hết tôi nên làm quen với việc đứng trong thùng xe, đung đưa theo chuyển động của nó, bởi nếu không hoang mạc sẽ làm tôi tức thở vì xóc nảy và đập xương tôi vào sườn xe nát nhừ.

Tôi lấy hết can đảm và tự đắc nói với anh ta rằng đây không phải là lần đầu tiên tôi ngồi trên chiến xa, mà đã từng phóng chiến xa từ Simyra đến Amori trong thời gian ngắn kỷ lục khiến lính của Aziru cũng phải kinh ngạc về tốc độ của tôi, cho dù lúc đó tôi còn trẻ hơn bây giờ và địa vị của mình đòi hỏi tôi giữ cơ thể khỏi phải cố gắng quá mức. Viên chỉ huy tên Juju lịch sự lắng nghe tôi, sau đó tôi tin tưởng đặt mạng sống của mình vào thần linh Ai Cập và theo anh ta bước lên cỗ chiến xa đi đầu. Chúng tôi đi theo tuyến đường của các đoàn lữ hành vào hoang mạc, người tôi nảy tưng tưng trên các bao cỏ và tôi phải bám vào hai bên thành xe bằng cả hai tay, mũi tôi xước và tôi rên rỉ thương mình. Nhưng tiếng rên rỉ của tôi chìm trong tiếng ầm ầm của bánh xe, những người đánh xe phía sau xe tôi thích thú hét lên khi được lao vào hoang mạc, thoát khỏi địa ngục hừng hực của các túp lều đất sét.

Chúng tôi đi như thế cả ngày và tôi thừa chết thiếu sống qua đêm trên các bao cỏ, cay đắng nguyền rủa ngày mình được sinh ra. Ngày hôm sau, tôi cố gắng đứng trong thùng xe, giữ chặt dây lưng của Juju, nhưng một lúc sau, xe va phải một tảng đá, tôi bay khỏi xe theo đường vòng cung, đầu đâm xuống cát và những cây gai cứa xước mặt tôi. Tuy nhiên, điều này không còn quan trọng với tôi nữa. Đến lúc nghỉ đêm, Juju lo lắng về tình trạng của tôi và đổ nước lên đầu tôi, mặc dù anh ta dè sẻn không cho lính uống đủ nước để tiết kiệm. Anh ta nắm tay tôi, an ủi tôi rằng chuyến đi của chúng tôi đã gặp may và nếu hôm sau quân ô hợp không bất ngờ đánh úp chúng tôi, có thể vào ngày thứ tư chúng tôi sẽ gặp lính do thám của Aziru. Rồi anh ta kể cho tôi nghe những kinh nghiệm chiến trận của mình để làm tôi khuây khỏa:

- Quả thật, không có gì buồn tẻ đơn điệu hơn chiến tranh, vì chiến tranh là sự chờ đợi không dứt. Chiến tranh là sự hoài công chờ đợi kẻ thù, vì kẻ thù luôn đến muộn và không bao giờ xuất hiện ở nơi ta chờ chúng. Chiến tranh cũng là sự chờ đợi vô vọng một bữa ăn, vì trong chiến tranh, bữa ăn luôn muộn và không có gì đáng nguyền rủa bằng sự chậm chạp của đoàn tải lương. Chiến tranh là những cuộc di chuyển vô ích từ nơi này sang nơi khác rồi hành quân trở lại nơi xuất phát, tiến lên lùi lại cho đến khi lưỡi dính vào vòm miệng và bàn chân cứng đờ như thân gỗ chết khô. Nhưng chính đây mới là nghệ thuật chiến tranh và để học nó, người chỉ huy phải theo học các trường quân sự, phải biết đọc và viết. Tất cả những việc này là chiến tranh và rồi kẻ thù ập đến đúng lúc không ai chờ đợi chúng. Mà kẻ thù cũng luôn tấn công theo cách khác với cách kẻ thù tấn công trong bài học và theo một trình tự khác, và trong trận chiến người chỉ huy không biết lính của mình và lính cũng không biết đến người chỉ huy, mà mạnh ai nấy hét rồi đâm và chọc bất cứ ai mình nhìn thấy. Nếu lúc đó kẻ thù bỏ chạy, người chỉ huy sẽ được vinh danh, tài năng của anh ta được ca ngợi và Pharaon sẽ ném cho anh ta một sợi dây chuyền vàng từ ban công hoàng cung. Còn nếu bỏ chạy, chúng tôi sẽ cảm ơn vận may cho mình sống sót, sẽ tốn rất nhiều giấy mực và những người sống sót sẽ bị ăn roi, chỉ huy sẽ bị treo ngược trên tường. Tuy nhiên, nếu người chỉ huy có đủ quyền thế thì có thể dù thất bại anh ta vẫn được ném cho một sợi dây chuyền vàng từ ban công của Pharaon và sự thất trận của anh ta sẽ được loan báo là chiến thắng và được khắc vào đá để được truyền nhớ muôn đời. Chiến tranh là như vậy đấy, thưa ngài Sinuhe cao quý, vì thế đừng rên rỉ vì đau nữa, mà hãy tạ ơn vận may đã không bắt mình ra trận.

Bằng cách đó, anh ta đã làm tôi khuây khỏa và ngủ thiếp đi, nhưng vào nửa đêm, tôi tỉnh giấc bởi những tiếng hét kinh hoàng, tiếng vó ngựa cồng cộc và tiếng bánh xe ầm ầm. Đốt đuốc lên, chúng tôi phát hiện cả hai lính gác đêm nằm trên mặt đất, cổ họng bị cắt ngang và máu đang rỉ chảy. Một cỗ chiến xa với ngựa đã bị lấy trộm, các chiến xa và ngựa kéo còn lại là một đám hỗn độn quần thảo, khung xe, càng xe và bánh xe quấn chọc vào nhau. Sau khi tháo gỡ được chúng ra, chúng tôi tiếp tục hành trình mặc dù trời vẫn còn tối. Tôi không còn than phiền về những gian khổ của chuyến đi nữa vì những kẻ phục kích ban đêm này chắc chắn sẽ gọi thêm quân để bất ngờ tấn công chúng tôi và chiếm lấy ngựa, xe và nước của chúng tôi. Vì như Juju nói, ngựa cũng như các cỗ chiến xa và nước với những đội quân ô hợp đắt hơn cả vàng. Vì thế quân ô hợp cũng tấn công cả lính Ai Cập để cướp ngựa và chiến xa.

Vậy là một ngày lại đến, đầu tôi bắt đầu đau nhức dưới cái nắng thiêu đốt và cát làm mắt tôi cay xè, lưỡi tôi dính lấy vòm miệng. Cho đến khi cơn gió nóng bỏng của hoang mạc mang theo khói và mùi máu thổi vào mũi chúng tôi, ngựa bắt đầu phun phì phì và những người điều khiển chiến xa gắn lưỡi hái vào bánh xe. Sau khi vòng qua một vài ngọn đồi đỏ, chúng tôi thấy một nguồn nước và những túp lều bị đốt cháy quanh đó, những xác người bị cướp trần trụi, mắt bị quạ mổ và máu chảy nhuộm đỏ cát. Những người đàn ông cầm giáo lao đến tấn công chúng tôi và một vài mũi tên đã bắn về phía chúng tôi, nhưng quân ô hợp đánh cướp ở đây - không rõ là quân của Aziru hay của đám du mục hay đội quân tự do nào khác, tôi không bao giờ được biết - nhận thấy tốt nhất nên lánh đi sau khi so sánh số lượng và chiến xa của chúng với chúng tôi. Chúng đành hét lên phía sau chúng tôi đủ lời phỉ báng, đe dọa và lao giáo vào không trung, nhưng chúng tôi mặc chúng và tiếp tục hành trình của mình, mặc dù quân của Juju rất muốn quay lại, tập tấn công bằng chiến xa.

Đêm hôm sau, chúng tôi thấy ánh sáng của lửa trại hay nhà bị đốt cháy hừng lên ở chân trời. Juju bảo chúng tôi đang đến gần rìa hoang mạc bên đất Syria và sau khi cho ngựa ăn, chúng tôi thận trọng tiếp tục cuộc hành trình dưới ánh trăng cho đến khi tôi kiệt sức ngủ gục trên các bao cỏ trong thùng xe.

Rạng sáng hôm sau, tôi tỉnh giấc khi Juju ném tôi từ trên xe xuống cát không thương tiếc. Rồi anh ta ném các bảng đất sét với thùng hành trang của tôi xuống sau tôi và quay ngựa, để tôi lại cho thần linh Ai Cập và hét lên những lời động viên tôi. Anh ta giục ngựa phi nước đại khiến bánh xe va vào đá tóe lửa và những cỗ chiến xa khác bám theo sau.

Sau khi dụi cát bay vào mắt, tôi thấy một đoàn chiến xa cắm cờ Syria chạy theo hình quạt như dàn trận từ giữa những ngọn núi tiến về phía tôi. Tôi đứng dậy, nhớ ra vị thế của mình, bắt đầu cầm lấy cành cọ xanh bằng cả hai tay vẫy vẫy trên đầu ra hiệu hòa hoãn dù cành cọ đã khô và héo quắt lại trong suốt cuộc hành trình. Nhưng các chiến xa không thèm để ý đến tôi mà lao vút qua, chỉ để lại một mũi tên giận dữ như ong bắp cày bay vèo qua bên tai tôi rồi đâm xuống cát sau lưng tôi. Đoàn chiến xa đuổi theo các chiến xa của Juju, tôi thấy Juju và lính của anh ta vứt các bao cỏ và cả những túi nước khỏi xe để làm nhẹ xe. Nhờ vậy mà họ chạy thoát, chỉ duy nhất một chiến xa nằm lại vì ngựa vấp phải đá và một chiến xa lao vút qua, hất đổ ngựa lẫn xe, giết người điều khiển rồi lao đi mà không hề giảm tốc.

Sau cuộc rượt đuổi vô ích, các chiến xa của Aziru quay lại chỗ tôi và những gã đánh xe bước xuống. Tôi gào lên xưng tước vị của mình và giơ cho họ xem những bảng đất sét của Pharaon mà tôi cầm trên tay. Nhưng họ không để ý đến tiếng hét của tôi mà lạnh lùng đến gần, một vài người đút bàn tay vẫn còn rỉ máu vào thắt lưng. Họ trấn lột tôi, mở rương của tôi lấy vàng và lột quần áo của tôi, rồi buộc cổ tay tôi vào sau chiến xa, buộc tôi phải chạy theo sau xe của họ. Khi ấy, tôi nghĩ mình sắp nghẹt thở, cát chà xát da đầu gối của tôi, còn họ chẳng buồn để ý đến tiếng gào thét của tôi, mặc dù tôi đe dọa họ là Aziru sẽ hết sức giận dữ. Tôi phải hứng chịu tất cả những điều này vì Pharaon Ekhnaton.

Tôi chắc chắn sẽ chết nếu doanh trại của Aziru không nằm ngay sau dãy núi phía bên kia hẻm. Tôi lờ mờ nhìn thấy ở đó nhiều lều trại, những con ngựa ăn cỏ bên lều, các cỗ chiến xa và những ống xương bò chất thành tường bao xung quanh trại. Sau đó tôi không thấy gì nữa, mà chỉ tỉnh dậy khi những nô lệ đổ nước lên mặt và xoa dầu lên người tôi, vì một viên chỉ huy biết đọc đã nhìn thấy bảng đất sét của tôi nên sau đó họ đối xử với tôi một cách tôn trọng và trả lại quần áo cho tôi.

Khi tôi có thể nhúc nhắc được, họ ẩn tôi vào lều của Aziru, nơi sặc mùi ngựa, vải và hương liệu. Aziru đi về phía tôi, gầm gừ như một con sư tử, dây chuyền vàng leng keng quanh cổ và bộ râu quăn xù trong lưới bạc. Ông ta đến bên tôi và ôm tôi, nói:

- Tôi hết sức xin lỗi nếu lính của tôi đối xử tệ với anh, nhưng lẽ ra anh phải nói cho họ biết tên của mình, nói với họ anh là sứ giả của Pharaon và là bạn tôi. Anh cũng nên vẫy một cành cọ trên đầu như dấu hiệu hòa bình, nhưng đằng này người của tôi nói anh đã vung dao tấn công họ và giận dữ gào lên, khiến họ buộc phải khống chế anh để bảo vệ tính mạng.

Đầu gối tôi đau nhức như bị lửa nung, cổ tay như rời ra, vì vậy sự tức giận vò xé tâm trí tôi và tôi nói với Azuri:

- Hãy nhìn tôi và nói xem tôi có vẻ gây nguy hiểm cho tính mạng quân lính của ông không? Chúng chặt cành cọ của tôi và trấn lột của tôi mọi thứ kể cả quần áo của tôi, và còn chế nhạo tôi rồi giẫm lên các bảng đất sét của Pharaon. Vì thế, ông phải cho đánh chúng, ít nhất là một số kẻ, để chúng có thể học cách tôn trọng sứ giả của Pharaon.

Nhưng Azira giễu cợt phanh áo choàng ra rồi giơ mạnh tay lên đầy vẻ kinh ngạc và thề thốt:

- Chắc anh đã có một giấc mộng tồi tệ, Sinuhe, tôi không thể làm gì nếu đầu gối anh bị thương vì đạp phải đá trong hành trình khó khăn của mình. Tôi sẽ không cho đánh những người tốt nhất của mình vì yêu cầu của một gã Ai Cập khốn khổ và lời nói của sứ thần Pharaon như ruồi vo ve trong tai tôi.

- Aziru, - tôi nói, - ông là vua của các vị vua, ít nhất hãy sai đánh kẻ vô liêm sỉ đã đâm nhiều nhát vào lưng tôi khi tôi chạy sau cỗ xe. Hãy sai đánh hắn, để tôi hài lòng, vì tôi mang đến một món quà, đó là hòa bình cho ông và cho Syria.

Aziru vừa cười to vừa đấm vào ngực mình và nói:

- Sao tôi phải mủi lòng nếu Pharaon tội nghiệp của anh hạ mình xuống cát bụi trước mặt tôi và cầu xin tôi hòa bình! Tuy nhiên, điều anh nói có lý và vì anh là bạn của tôi, của vợ tôi và của con trai tôi, tôi sẽ cho đánh kẻ đã đâm sau lưng anh để thúc anh chạy, vì điều này trái với lối cư xử thượng võ và như anh biết, tôi ra trận với vũ khí tinh nguyên và vì những mục đích cao cả.

Tôi rất hài lòng khi chứng kiến kẻ đã hành hạ mình dã man nhất bị đánh trước đám quân đang tập trung gần lều của Aziru. Các đồng đội của hắn không hề thương hại mà chế nhạo hắn rồi cười rú lên và giơ ngón tay chỉ vào hắn khi hắn khóc, vì họ là lính và luôn muốn thấy bất kỳ điều gì khác lạ với đời binh nghiệp tẻ nhạt của mình. Không nghi ngờ gì rằng Aziru sẽ để hắn bị đánh đến chết, nhưng khi nhìn thấy thịt hắn xước ra khỏi xương sườn và máu rỉ ra, tôi nghĩ lưng hắn đã nhức nhối như mông và đầu gối của tôi, nên tôi giơ tay và tặng cho hắn ta mạng sống của hắn. Thấy sự đau đớn của hắn, tôi bảo đưa hắn đến căn lều mà Aziru dành cho tôi trước sự phẫn nộ của đám sĩ quan đang có mặt tại đó, còn các đồng đội của hắn la hét ca ngợi tôi, vì cứ nghĩ ngoài đánh bằng roi, tôi sẽ trừng trị hắn bằng nhiều cách tinh quái khác. Nhưng tôi đã xức vào lưng hắn thứ thuốc mỡ mà tôi đã xoa vào đầu gối và mông của mình, rồi tôi băng bó vết thương cho hắn và cho hắn uống bia, khiến hắn cuối cùng cho rằng tôi bị điên và không còn kính trọng tôi nữa.

Buổi tối, Aziru mời tôi thịt cừu rán và bánh gạo mạch nấu trong mỡ ở lều của ông ta. Tôi ăn với ông ta cùng các phò tá của ông ta và các chỉ huy Hittite; áo choàng và khiên của họ được trang trí hình những chiếc rìu đôi và mặt trời có cánh. Chúng tôi cùng nhau uống rượu và tất cả đều cư xử với tôi thân mật, chí tình và coi tôi như kẻ khờ vì đã đến mang lại hòa bình cho họ đúng lúc họ cần hòa bình nhất. Họ nói những lời có cánh về tự do và sự hùng mạnh của Syria trong tương lai và cái ách của kẻ áp bức mà họ đã tháo khỏi cổ mình. Nhưng khi đã uống rượu đủ say, họ bắt đầu cãi vã lẫn nhau, cuối cùng một người đến từ Joppa đã rút dao đâm vào cổ một người đến từ Amori khiến máu chảy ròng ròng. Nhưng vết thương không lớn, vì dao không cắt đứt động mạch, và tôi đã có thể chữa lành cho anh ta bằng cách của mình nên anh ta tặng tôi nhiều món quà. Vì việc này, tôi cũng bị cho là ngốc nghếch.

Thà tôi cứ để anh ta chết, vì trong khi tôi ở đây, chính người Amori này đã sai người hầu giết người Joppa đã đâm anh ta và Aziru ra lệnh treo ngược anh ta lên tường để giữ nghiêm quân luật trước khi cổ anh ta kịp lành lại hoàn toàn. Aziru đối xử với người của mình tàn nhẫn và nghiêm khắc hơn so với những người Syria khác, vì chính họ ghen tị nhiều nhất với quyền lực của ông ta và lập mưu chống lại ông ta, khiến ông ta nắm quyền mà như ngồi trên tổ kiến.

❖ 2 ❖

Ăn tối xong, Aziru đuổi các phò tá của mình và các chỉ huy Hittite ra khỏi lều mình để họ tiếp tục các cuộc cãi vã trong lều của họ. Ông ta chỉ cho tôi đứa con trai theo ông ta ra trận dù mới bảy tuổi. Cậu bé đã lớn, kháu khỉnh với đôi má như hai quả đào đầy lông tơ, đôi mắt đen láy, long lanh. Tóc cậu xoăn và đen như râu của bố, còn làn da trắng bóc của cậu được thừa hưởng từ mẹ. Aziru vuốt tóc con và nói với tôi:

- Anh đã bao giờ thấy đứa bé nào đẹp hơn chưa? Tôi đã sưu tập cho thằng bé nhiều vương miện. Nó sẽ trở thành một quốc vương vĩ đại và tôi thậm chí không dám nghĩ quyền uy của thằng bé sẽ được mở rộng đến mức nào, vì nó đã dùng thanh kiếm nhỏ của mình đâm thủng bụng một đứa nô lệ dám xúc phạm nó. Nó biết đọc, biết viết và không sợ chiến tranh, vì tôi đã cho nó theo mình ra trận, cho dù khi ấy chúng tôi chỉ trừng phạt những làng nổi loạn nên không cần lo cho mạng sống bé bỏng của nó.

Keftiu cai quản Amori khi Aziru ra trận. Aziru rất nhớ cô ta và nói rằng ông ta đã gắng lấp đầy nỗi khát khao dục vọng của mình với những nữ tù nhân và các trinh nữ của đền đi theo đội quân nhưng vô ích vì ai đã từng một lần được nếm trải tình yêu của Keftiu sẽ không bao giờ quên được cô ta; nét thanh xuân, vẻ tươi tắn của cô ta theo năm tháng càng rực rỡ và lộng lẫy nên chắc chắn tôi sẽ không còn tin vào mắt mình nếu nhìn thấy cô ta. Nhưng Aziru vẫn đưa con trai đi theo vì không dám để thằng bé ở lại Amori bởi sẽ đến lúc nó mang vương miện thống nhất của Syria.

Chúng tôi đang nói chuyện thì những tiếng la chói tai, hoảng loạn của đàn bà vọng lại từ trại khiến Aziru vô cùng tức giận và nói:

- Đám chỉ huy Hittite lại chọc ghẹo tù nhân rồi, mặc dù tôi đã cấm họ, nhưng tôi không thể làm gì họ vì tôi cần tài chinh chiến của họ. Họ tìm thấy niềm vui khi hành hạ, làm cho đàn bà van khóc gào thét, khiến tôi không thể hiểu nổi, vì chẳng phải ta sẽ vui sướng khi làm cho phụ nữ rên rỉ vì ham muốn hơn là vì đau ư? Nhưng mỗi tộc người đều có những cách thức riêng và tất nhiên tôi không thể mắng mỏ họ chỉ vì cách của họ khác với cách ở Syria. Nhưng dù sao, tôi cũng không muốn họ dạy cho quân lính của tôi những thói hư tật xấu của mình, vì quả thật chiến tranh đã khiến binh lính của tôi trở nên dã man như sói và sư tử.

Điều ông ta nói làm tôi kinh hãi, mặc dù tôi biết người Hittite, biết những gì họ có thể làm. Bởi vậy tôi nói luôn:

- Aziru, vua của các vị vua, dẹp ngay người Hittite đi trước khi chúng đập nát vương miện trên đầu ông và cả đầu ông, bởi không thể tin người Hittite được. Thay vào đó, hãy hòa hoãn với Pharaon ngay bây giờ khi người Hittite đang lâm chiến ở Mitanni. Cả Babylon cũng đang trang bị vũ khí để chống lại người Hittite, chắc chắn ông biết việc ấy, nên ông sẽ không được nhận ngũ cốc từ Babylon nữa nếu vẫn liên minh với Hittite. Vậy nên khi mùa đông đến, nạn đói như một con sói gầy sẽ lẻn vào Syria, trừ khi ông hòa hoãn với Pharaon để ngài gửi lương thực đến các thành phố của ông như trước.

Nhưng Aziru phản đối:

- Anh khờ quá, Sinuhe, vì người Hittite tốt với bạn song tàn ác với kẻ thù. Nhưng có sự ràng buộc nào bắt tôi phải liên minh với Hittite đâu, mặc dù họ gửi cho tôi những món quà đẹp và những chiếc khiên chạm khắc vương miện, tường thành tinh xảo, vì vậy tôi có thể cân nhắc hòa hoãn mà không cần đến người Hittite. Họ cũng đã chống lại thỏa thuận chiếm đóng Kadesh và sử dụng cảng Byblos như cảng riêng của mình. Mặt khác, Hittite đã gửi cho tôi một thuyền chất đầy vũ khí được rèn bằng kim loại mới và nhờ đó binh lính của tôi bất khả chiến bại trên chiến trường. Dù sao đi nữa, tôi yêu hòa bình hơn chiến tranh và tôi ra trận chỉ để đạt được hòa bình trong danh dự. Vì vậy, tôi sẽ sẵn lòng đình chiến nếu Pharaon trả lại thành Gaza đã bị lấn chiếm cho tôi và tước vũ khí của các toán cướp nơi sa mạc, đền bù bằng ngũ cốc, dầu và vàng cho tất cả những thiệt hại mà các thành phố Syria phải gánh chịu do hậu quả của cuộc chiến này, vì chính Ai Cập đã gây ra cuộc chiến này, như anh biết quá rõ.

Ông ta trơ trẽn nhìn tôi và che miệng mỉm cười ranh mãnh, nhưng tôi nóng nảy đáp:

- Aziru, kẻ trộm gia súc, kẻ lừa đảo và đao phủ giết người vô tội kia! Lẽ nào ông không biết trong mọi lò rèn trên khắp miền Hạ, giáo mác đang được rèn và số chiến xa của Horemheb đã vượt hơn số rệp trong lều trại của ông. Những con rệp này sẽ cắn ông đau nhói khi mùa thu hoạch đến. Horemheb mà ông từng nghe danh đã nhổ nước bọt vào chân tôi khi tôi nói với anh ta về hòa bình, nhưng vì thần linh của ngài nên Pharaon muốn hòa bình và không muốn đổ máu. Vì thế tôi cho ông một cơ hội cuối cùng, Aziru ạ, Gaza vẫn thuộc về Ai Cập và chính ông phải giải tán quân ô hợp nơi sa mạc, vì Ai Cập không phải chịu trách nhiệm về tội ác của lũ chúng. Chính sự tàn ác của ông đã buộc những người đàn ông Syria này chạy đến sa mạc để chống lại ông và đây là việc nội bộ của Syria. Ông cũng phải thả tất cả tù nhân Ai Cập và bồi thường thiệt hại mà thương nhân Ai Cập ở các thành phố của Syria phải gánh chịu, đồng thời trả lại tài sản của họ.

Aziru xé quần áo, rứt râu và tức giận gào lên:

- Chó dại đã cắn anh hay sao, Sinuhe, mà anh nói những lời rồ dại đến thế? Hãy trả lại Gaza cho Syria, các thương nhân Ai Cập hãy tự bồi thường thiệt hại và tù nhân vẫn bị bán làm nô lệ như thông lệ, nhưng tất nhiên không ai ngăn cản Pharaon chuộc lại họ nếu ông ta có đủ vàng cho việc này.

Tôi nói với ông ta:

- Nếu ông có hòa bình, ông có thể xây tường thành cao và các tháp canh hùng vĩ cho các thành phố của mình để không còn phải sợ người Hittite. Ai Cập ủng hộ ông. Chắc chắn các thương gia trong thành phố của ông sẽ giàu lên nhờ buôn bán với Ai Cập mà không phải trả thuế cho Ai Cập và người Hittite sẽ không thể làm gián đoạn việc buôn bán của ông vì họ không có thuyền chiến. Tất cả lợi ích đều nằm về phía ông, Aziru, nếu ông hòa giải, vì các điều kiện của Pharaon là hợp lý và tôi không thể nhân nhượng hơn.

Chúng tôi đã tranh cãi và điều đình, thương lượng hòa bình như thế từ ngày này qua ngày khác, và rất nhiều lần Aziru vừa xé quần áo và rắc tro lên tóc vừa nói tôi là một kẻ cướp vô liêm sỉ và khóc lóc cho số phận của con trai mình, rằng chắc chắn nó sẽ bị Ai Cập vắt kiệt và chết gục dưới rãnh như kẻ ăn xin. Đã một lần tôi bước ra khỏi lều của ông ta, gọi quân hộ tống cho kiệu đưa tôi đến Gaza và tôi đã kịp lên kiệu trước khi Aziru gọi tôi lại. Nhưng tôi nghĩ là người Syria, ông ta rất thích việc thương thuyết, mặc cả ngày này sang ngày khác như thế này, và cứ nghĩ đã lừa dối được tôi và giành lợi thế cho mình mỗi khi tôi nhượng bộ. Ông ta không thể ngờ rằng Pharaon đã lệnh cho tôi phải mua hòa bình bằng bất cứ giá nào, cho dù Ai Cập nghèo đi vì nó.

Vì vậy tôi rất tự tin, thông qua thương thảo giành được nhiều lợi ích to lớn cho Pharaon. Và thời gian có lợi cho tôi, vì sự chia rẽ ngày càng lớn trong doanh trại của Aziru và ngày ngày đều có những người rời nơi đó đến thành phố của họ mà ông ta không thể ngăn cản, vì quyền lực của ông ta chưa đủ mạnh. Cứ như thế, chúng tôi đã tiến rất xa cho đến khi ông ta đưa ra điều kiện cuối cùng để đi đến giải pháp như sau: tường thành Gaza phải bị phá bỏ và ông ta sẽ lập tiểu vương Gaza, nhưng bên cạnh tiểu vương sẽ có một công sứ do Pharaon chỉ định và cả thuyền của Syria lẫn Ai Cập đều có thể đến Gaza và buôn bán ở đó mà không phải trả thuế. Tuy nhiên, tôi không thể đồng ý, vì khi không còn tường thành, Gaza trở nên vô dụng với Ai Cập và hoàn toàn nằm trong quyền kiểm soát của ông ta.

Khi tôi cương quyết nói là tôi không thể chấp nhận và yêu cầu một đội hộ tống đưa tôi đến Gaza, ông ta điên lên, đuổi tôi ra khỏi lều mình và ném theo sau lưng tôi tất cả các bảng đất sét của tôi. Nhưng ông ta cũng không cho phép tôi đi và tôi đã dành thời gian ở trại để chữa bệnh cho người ốm và chuộc các tù nhân Ai Cập đã phải làm phu khuân vác, kéo xe hàng và sống rất cực khổ ở đó. Tôi mua tự do cho một số thiếu phụ, nhưng cũng cho một số người thuốc để chết, vì với họ chết còn hơn sống khi bị người Hittite quấy rối. Thời gian cứ thế trôi đi và thời gian qua đi có lợi cho tôi vì tôi không mất gì, trong khi đó Aziru ngày càng mất nhiều hơn, đến mức trong sự nôn nóng của mình, ông ta đã xé tấm lưới bạc bọc râu và nhổ rất nhiều tóc đen trên đầu vì sự cương quyết của tôi và gọi tôi bằng những cái tên bất nhã.

Tôi phải nói thêm rằng Aziru cho người canh tôi nghiêm ngặt đến từng bước đi, theo dõi, rình mò và lượng sức tôi với sức ông ta, sợ rằng tôi sẽ cấu kết với giới quyền quý và các chỉ huy dưới quyền ông ta để hạ bệ ông. Đây có lẽ là một việc dễ dàng, nhưng tôi thậm chí còn không nghĩ đến vì tôi có trái tim của một con cừu và ông ta từng là bạn của tôi. Vậy mà vào một đêm nọ, hai sát thủ đã xông vào lều của Aziru và dùng dao đâm ông ta bị thương, nhưng ông ta sống sót và giết một người, con trai ông ta tỉnh dậy lúc đó và đâm vào lưng người còn lại bằng thanh kiếm nhỏ của mình khiến người kia cũng chết.

Ngày hôm sau, Aziru cho gọi tôi đến lều của ông ta, buộc tội tôi bằng những lời lẽ cay nghiệt rồi dọa dẫm tôi nhưng sau đó đồng ý hòa giải và nhân danh Pharaon, tôi đã ký kết hòa bình với ông ta và tất cả các thành phố của Syria. Gaza vẫn thuộc về Ai Cập, giải giáp quân ô hợp là việc của Aziru và Pharaon được đặc quyền chuộc tù binh và nô lệ Ai Cập. Với những điều khoản như thế, chúng tôi sai viết một thỏa ước hữu nghị vĩnh cửu giữa Ai Cập và Syria vào bảng đất sét và xác nhận nó nhân danh hàng ngàn vị thần của Ai Cập và hàng ngàn vị thần của Syria, thêm cả tên Aton. Aziru vừa chửi bới thậm tệ vừa gọi tất cả các thần đến giúp khi lăn dấu triện của mình trên đất sét, và cả tôi cũng xé quần áo của mình và khóc rên thảm thiết khi ấn dấu triện Ai Cập vào đất sét, nhưng cuối cùng cả hai chúng tôi đều thỏa nguyện. Aziru đã tặng tôi rất nhiều quà và tôi cũng hứa sẽ gửi cho ông ta và vợ con ông ta nhiều quà theo những thuyền đầu tiên dong buồm từ Ai Cập đến các thành phố của Syria trong thời bình.

Thế là chúng tôi chia tay trong hữu hảo, Aziru thậm chí còn ôm tôi và nói tôi là bạn