← Quay lại trang sách

Sách thứ mười bốn Cuộc chiến thần thánh

❖ 1 ❖

Để chiêu mộ binh lính và quân lương cho cuộc thánh chiến, Horemheb đã hiệu triệu tất cả những người giàu của Ai Cập đến bản doanh của mình ở Memphis và nói với họ:

- Tất cả các ngươi đều giàu có, còn ta chỉ là mục đồng sinh ra với kẽ chân đầy phân. Nhưng Amon đã ban phước cho ta và Pharaon đã trao cho ta sứ mệnh chỉ huy cuộc chiến; kẻ thù đang đe dọa đất nước ta lại vô cùng tàn bạo và đáng sợ, như các ngươi đã biết quá rõ. Ta rất vui khi biết tất cả các ngươi đã đồng lòng rằng chiến tranh đòi hỏi sự hy sinh của mọi người, vì thế các ngươi đã giảm bớt lượng ngũ cốc dành cho nô lệ của mình và cho các nông phu, tăng giá tất cả các mặt hàng trên khắp Ai Cập. Từ những việc làm và lời nói của các ngươi, ta hiểu rằng các ngươi cũng đã sẵn sàng cho những hy sinh lớn lao vì bổn phận mà vị thế của các ngươi đòi hỏi. Điều này là thật tốt và khiến ta rất vui, bởi để có chi phí cho cuộc chiến, chiêu mộ binh lính, sản xuất chiến xa và nhiều việc khác thuộc về chiến tranh mà các ngươi không hiểu, ta quyết định vay một phần tài sản của các ngươi và vì điều này đã sai thu thập dữ liệu về các ngươi qua sổ sách sưu thuế, nhưng vẫn không hài lòng về việc này nên ta đã cho tìm hiểu thêm những việc khác về các ngươi, vậy nên ta biết được tất cả tài sản mà các ngươi đã giấu thuế vụ trong thời kỳ Pharaon giả. Nhưng giờ đây, Pharaon thật cai trị dưới danh nghĩa Amon, các ngươi không cần phải giấu giếm tài sản của mình mà có thể công khai và tự hào đóng góp cho cuộc chiến. Vì vậy, mỗi người phải ngay lập tức cho ta vay một nửa tài sản của mình, không quan trọng tài sản đó bằng vàng bạc, ngũ cốc hay lừa ngựa và cỗ xe, mà miễn là các ngươi phải thật nhanh.

Nghe điều này, đám người giàu kêu than ầm ĩ và dứt áo xống nói:

- Pharaon giả đã làm chúng tôi khánh kiệt và giờ chúng tôi là những người nghèo khổ, số liệu mà ngài thu thập được về chúng tôi là sai lệch. Nhưng ngài lấy gì đảm bảo nếu chúng tôi cho ngài vay một nửa tài sản của mình; ngài sẽ trả cho chúng tôi với lãi suất bao nhiêu?

Horemheb thân thiện nhìn họ và nói:

- Lời đảm bảo của ta là chiến thắng mà ta mong muốn sẽ giành được càng sớm càng tốt với sự giúp đỡ của các ngươi, những người bạn quý mến. Nếu ta không chiến thắng, quân Hittite sẽ đến và lấy đi của các ngươi tất cả, vì thế ta nghĩ sự đảm bảo này là hoàn toàn xứng đáng. Về lãi suất, ta muốn thỏa thuận riêng với từng người và hy vọng rằng thỏa thuận đó sẽ làm hài lòng các ngươi. Nhưng các ngươi đã kêu van quá sớm, bởi ta vẫn chưa nói xong. Ta yêu cầu các ngươi cho ta vay một nửa tài sản của mình ngay lập tức, chỉ cho vay thôi, những người tốt bụng ạ. Sau bốn tuần trăng, các ngươi phải cho ta vay một nửa những gì còn lại, và sau một năm, cho vay tiếp một nửa số còn lại mà theo cách này các ngươi vẫn còn tài sản của mình. Chính các ngươi sẽ tính được mình còn lại bao nhiêu là tốt nhất, nhưng ta tin chắc các ngươi vẫn còn đủ để múc đầy bát cháo cho đến cuối đời mình, vì vậy ta hoàn toàn không cướp của các ngươi.

Lúc đó, những người giàu vừa lăn lộn trước mặt anh ta vừa kêu ca và gào khóc rất thảm thiết; họ đập trán xuống sàn đến tóe máu và gào lên rằng thà họ đầu hàng quân Hittite còn hơn. Horemheb giả vờ kinh ngạc và nói:

- Nếu vậy, ta sẽ làm theo ý muốn của các ngươi, song ta nghĩ rằng binh lính của ta, những người xả thân trong cuộc chiến, sẽ đau khổ ghê gớm khi biết các ngươi không muốn mất gì cho chiến tranh. Thật tình mà nói, ta đang nghĩ có khi binh lính của ta đang cầm thừng trên tay, đứng đợi trước cửa nhà tất cả các ngươi để trói các ngươi, đưa lên thuyền chở đi và nộp cho quân Hittite, như các ngươi muốn. Điều này khiến ta vô cùng thất vọng và không hiểu được các ngươi vui sướng gì với tài sản còn lại của mình, khi chính các ngươi, mắt bị đâm thủng, lưng còng vì quay cối xay đá của người Hittite. Nhưng chính các ngươi muốn thế nên tốt nhất là ta sẽ bảo cho binh lính biết ý định của các ngươi.

Nghe đến đây, những người giàu kinh hoàng hét lên, sụp xuống ôm đầu gối anh ta và vừa đồng ý với tất cả những gì anh ta yêu cầu vừa nguyền rủa anh ta thậm tệ. Nhưng anh ta an ủi họ:

- Ta gọi các ngươi đến đây vì ta biết các ngươi yêu quý Ai Cập và sẵn sàng hiến dâng thật nhiều cho Ai Cập. Các ngươi cũng là những người giàu nhất Ai Cập và mỗi người tự làm giàu theo nỗ lực của mình. Vì thế, ta tin chắc các ngươi sẽ sớm giàu có trở lại, bởi vì người giàu sẽ ngày càng giàu hơn, mặc dù đôi lúc cũng nên bị ép để phần thừa mứa ứa ra ngoài. Hỡi các quý ông thân mến, các ngươi là vườn cây quý giá mà ta vô cùng yêu quý, dù ta có ép các ngươi như ép lựu khiến nước hạt trào ra qua kẽ tay, nhưng là người làm vườn giỏi, ta không muốn làm hỏng những cây đang cho trái ngọt, mà chỉ vừa lòng với việc đôi lúc thu hoạch quả. Các ngươi cũng cần nhớ rằng ta sẽ đem đến cho các ngươi một cuộc chiến vĩ đại, lớn hơn những gì các ngươi mơ ước. Trong chiến tranh, ai đã giàu sẽ giàu hơn và sẽ càng giàu hơn nữa nếu càng trụ lại được lâu trong cuộc chiến, không bất cứ thế lực nào trên thế giới, kể cả thuế vụ của pharaon, có thể ngăn cản được việc này. Vì vậy, các ngươi phải cảm ơn ta mới phải và ta sẽ ban phước lành trọn vẹn của ta cho các ngươi khi để các ngươi trở về nhà. Hãy yên tâm về và chăm cho mình béo tốt trở lại như ký sinh trùng bụng đầy trứng vì điều đó không ai ngăn cấm được. Ta không ngăn cấm việc các ngươi thỉnh thoảng gửi thêm quà cho ta, bởi vì các ngươi phải nhớ rằng ta sẽ chinh phục lại Syria. Các ngươi biết rất rõ ý nghĩa của vùng đất đó đối với Ai Cập và nhất là với các ngươi, nếu ta nhớ đến các ngươi với đầy thiện ý khi chinh phục xong Syria. Vậy cứ kêu khóc đi nếu các ngươi muốn và nếu làm như thế khiến các ngươi dễ chịu hơn; ta sẵn lòng nghe tiếng khóc của các ngươi, bởi nó như tiếng vàng leng keng bên tai ta.

Bằng cách đó, anh ta đã xua đám người giàu khỏi bản doanh. Họ vừa than khóc bỏ đi vừa bứt xé quần áo, nhưng khi vừa bước ra cửa, họ ngừng khóc rồi bắt đầu háo hức tính xem mình sẽ bị thiệt hại bao nhiêu và lên kế hoạch làm cách nào thu lại được. Còn Horemheb nói với tôi:

- Tôi đã cho họ món quà là cuộc chiến và từ lúc này, họ có thể đổ tội cho quân Hittite về tất cả những điều tệ hại sẽ xảy ra khi họ cướp bóc người dân, cũng như Pharaon có thể đổ tội cho quân Hittite về nạn đói và sự khốn khổ sẽ theo chiến tranh tràn đến xứ Kemet. Vì cuối cùng, dĩ nhiên, người dân sẽ phải gánh chịu tất cả; kẻ giàu sẽ cướp lại của người dân gấp nhiều lần những gì họ cho tôi vay, sau đó tôi sẽ ép họ để mỡ phải chảy ra. Với tôi, việc này thích hợp hơn việc thu thuế chiến tranh, vì nếu tôi thu thuế chiến tranh từ người dân, họ sẽ nguyền rủa tôi, nhưng khi tôi lấy từ kẻ giàu cho cuộc chiến, người dân sẽ cầu nguyện cho tôi và cho là tôi công tâm. Bởi tôi phải thật cẩn trọng bảo vệ danh tiếng của mình cho vị thế cao quý mình sắp bước lên.

Lúc này, cả đồng bằng ngập trong biển lửa; các toán tuần tra Hittite đã đốt cháy làng mạc và để cho ngựa của chúng ăn lúa mạch đang lên xanh. Từng đoàn, từng đoàn tị nạn chạy đến Memphis và kể những câu chuyện khủng khiếp về sự tàn phá điên cuồng của quân Hittite, khiến nỗi sợ hãi bóp nghẹt tim tôi, chân tay tôi bủn rủn và tôi giục Horemheb phải khẩn trương lên. Nhưng anh ta bình thản mỉm cười và nói:

- Phải hoàn toàn án binh bất động, mặc dù trong nỗi nôn nóng của mình, anh chê trách tôi làm như thế. Sự nguy hiểm đe dọa Ai Cập không lớn lắm cho đến khi bộ binh Hittite vượt qua được sa mạc tiến vào xứ đất đen. Nghệ thuật chiến tranh của chúng chủ yếu dựa vào sức mạnh của chiến xa, nhưng ở xứ đất đen, hệ thống mương máng sẽ cản trở chiến xa di chuyển và chúng sẽ mất thời gian chuyển binh từ nơi này sang nơi khác, tàn phá những làng mạc thứ yếu và xéo nát các cánh đồng. Trong nước càng khan hiếm ngũ cốc, càng nhiều đàn ông Ai Cập vui vẻ đến dưới đuôi sư tử của tôi, nơi mà ai cũng biết sẽ có lương ăn và cả bia uống.

Quả thật, người đói khát, người mất nhà cửa và gia đình vì Aton không còn nghĩ đến mạng sống của mình, người thèm muốn chiến lợi phẩm và thích phiêu lưu, tất cả từ khắp Ai Cập đổ về Memphis. Horemheb phớt lờ các giáo sĩ, tha tội cho tất cả những ai đã từng đóng góp vào việc xây dựng vương quốc Aton và thả tù nhân từ các mỏ đá để họ sung vào lính. Thế là Memphis nhanh chóng giống như một doanh trại rộng lớn và cuộc sống trở nên bất yên, người ta ẩu đả và đánh nhau bị thương hằng đêm trong các nhà vui và tửu quán, còn dân lành chỉ ở trong nhà, sống trong hoảng loạn và sợ hãi. Nhưng từ các binh xưởng vang lên tiếng búa chát chúa của thợ rèn rèn tên, giáo và nỗi sợ hãi, căm thù quân Hittite lan rộng đến mức ngay cả những người đàn bà nghèo cũng hiến tặng đồ trang sức bằng đồng của họ.

Thuyền từ các hải đảo và từ Crete vẫn cập bến Ai Cập và vì chiến tranh, Horemheb trưng dụng tất cả thuyền bè, thuê các thủy thủ và thuyền trưởng về phục vụ mình. Anh ta cũng bắt giữ các thuyền chiến của Crete và thuyết dụ thủy thủ các thuyền này phục vụ Ai Cập, vì các thuyền chiến này căng buồm chạy dọc biển từ cảng này sang cảng khác mà không muốn quay trở lại Crete vì không biết chuyện gì đang xảy ra ở đó. Họ nghe nói một cuộc nổi dậy của nô lệ đã nổ ra ở Crete và thành phố cao nguyên của giới quyền quý này đã cháy như những ngọn đuốc sáng rực đến tận ngoài khơi trong nhiều tuần liền. Nhưng không ai biết rõ chuyện gì đã thật sự xảy ra ở Crete và các thủy thủ Crete vẫn quen nói dối, khiến không ai tin lời họ. Có người quả quyết quân Hittite đã tấn công Crete, nhưng sao điều đó có thể xảy ra được, vì người Hittite không phải là dân biển, tôi thật sự không hiểu nổi. Số khác lại kể rằng những toán dân da trắng bí ẩn đã dong thuyền từ phía bắc xuống tiêu diệt và cướp bóc Crete, đánh bại thủy quân Crete khi hầu hết thuyền chiến đang canh giữ đường biển gần Syria. Nhưng người Crete lại khăng khăng rằng tai họa xảy ra vì thần Crete đã chết. Vì vậy, họ vui lòng làm thuê cho Ai Cập, trong khi các thuyền của Crete đến Syria đã được Aziru và người Hittite thuê lại.

Dù thế nào, những việc này đều rất có lợi cho Horemheb, vì cả vùng biển đã hoàn toàn hỗn loạn, tất cả đánh giết nhau để giành giật thuyền. Một cuộc nổi dậy chống lại Aziru cũng đã nổ ra ở Tyros và những người sống sót lên thuyền đến Ai Cập để trốn, đầu hàng và gia nhập quân đội của Horemheb. Bằng cách này, Horemheb chiêu mộ được các đội thuyền, trang bị thành thuyền chiến với đội thủy thủ giàu kinh nghiệm, nhưng tất cả những việc này tốn kém bao nhiêu tôi không định tính làm gì, vì việc đóng và trang bị thuyền chiến ngày càng đắt đỏ hơn, khiến chiến tranh trên biển tiêu tốn nhiều vàng hơn bất cứ cuộc chiến nào trên đất liền.

Khi những điều này xảy ra, Gaza vẫn còn cố thủ vững vàng ở Syria và Horemheb cùng quân đội của mình rời Memphis sau vụ mùa khi lũ bắt đầu đổ về. Anh ta gửi tin vượt vòng vây đến Gaza bằng đường bộ và đường biển. Chiếc thuyền chở đầy ngũ cốc cập cảng Gaza trong đêm đem theo lệnh của Horemheb: “Hãy giữ lấy Gaza! Hãy giữ vững Gaza bằng mọi giá!”. Khi những kẻ phá tường rầm rầm đập cổng Gaza và mái các tòa nhà trong thành phố phừng phừng bốc cháy mà không ai kịp dập, những mũi tên lao vút vào trong thành mang theo lời nhắn: “Horemheb ra lệnh: Hãy giữ lấy Gaza!”. Và khi quân Hittite ném những hũ nút kín đựng đầy rắn độc vào phía trong các bức tường thành, chúng vỡ ra và trong đó chỉ có đầy đại mạch và lệnh của Horemheb: “Hãy giữ lấy Gaza!”. Tôi không thể hiểu làm cách nào mà Gaza có thể cầm cự nổi trong vòng vây của liên quân Hittite và Aziru, nhưng viên trấn thủ thành cau có, kẻ từng nhìn thấy tôi được kéo lên tường thành trong cái giỏ, chắc chắn rất xứng đáng với danh tiếng mà anh ta nhận được khi giữ vững Gaza cho Ai Cập.

Khi nước sông bắt đầu dâng cao, Horemheb rời Memphis, gấp rút tiến về hướng Tanis và dồn toàn lực đoàn chiến xa tấn công quân Hittite tại chỗ ngoặt của sông, nơi quân Hittite chăn thả ngựa vì nghĩ dòng sông sẽ bảo vệ chúng khỏi bị tấn công bất ngờ từ ba phía. Nhưng tận dụng màn đêm, quân Horemheb đã đào sâu thêm những con mương khô cạn suốt mùa hè và không ai dọn dẹp, để nước sông tràn vào đầy ắp. Sáng ra, quân Hittite mới biết mình đã bị bao vây trên một hòn đảo, bốn bề là nước, khiến những cỗ chiến xa của chúng trở nên vô dụng. Chúng bắt đầu đập phá chiến xa và giết ngựa; thấy thế, Horemheb vô cùng tức giận vì anh ta đã làm tất cả cốt để giành được những chiến xa nguyên vẹn và đàn ngựa khỏe mạnh về tay mình. Vì vậy, anh ta cho thổi tù và, hạ lệnh tấn công quân Hittite, và các đội quân Ai Cập dù chưa qua huấn luyện đã dễ dàng đánh bại quân Hittite khi chúng rời các cỗ chiến xa xuống chiến đấu trên mặt đất. Bằng cách này, Horemheb đã thu được một trăm cỗ chiến xa với ba trăm con ngựa; anh ta vội vàng cho sơn lên các cỗ xe cờ hiệu Ai Cập, đóng ấn chiến mã Ai Cập lên những con ngựa vừa thu được. Nhưng ý nghĩa của chiến thắng to lớn hơn nhiều so với chiến lợi phẩm vì sau trận này, người Ai Cập không còn tin rằng quân Hittite là bất khả chiến bại.

Sau trận chiến, Horemheb thu gom tất cả chiến xa và chiến mã rồi dẫn đầu đoàn quân tiến thẳng đến Tanis, để lại bộ binh chậm chạp và đội xe tải lương phía sau. Mặt bừng bừng nhiệt huyết, anh ta nói với tôi:

- Một khi anh định đánh thì hãy đánh trước và đánh thật mạnh.

Vì vậy, anh ta phóng đến Tanis cùng các cỗ chiến xa, để mặc vùng hạ lưu cho quân Hittite cướp phá, rồi từ Tanis, anh ta tiếp tục tiến thẳng vào sa mạc, đánh bại các đội quân Hittite bảo vệ kho dự trữ nước và lần lượt chiếm hết các kho nước trong sa mạc. Quân Hittite đã chuẩn bị hàng ngàn, hàng trăm ngàn chum nước trong sa mạc cho bộ binh của chúng, vì chúng không phải là dân biển và cũng không dám mạo hiểm đổ bộ bằng đường biển vào Ai Cập. Không xót thương ngựa chiến, Horemheb cùng các đội quân của mình phóng về phía trước. Rất nhiều ngựa chết trong cuộc tiến quân thần tốc này, nhưng những người chứng kiến cuộc tiến quân kể lại rằng hàng trăm chiến xa lao nhanh trong sa mạc khiến cát sa mạc tạo thành một cột bụi vươn tận trời cao và anh ta bay về phía trước không khác gì một cơn lốc. Đêm đêm, thêm nhiều đống lửa hiệu được đốt sáng trên các sườn núi kéo dài tận Sinai, để quân ô hợp từ nơi ẩn nấp xông ra tấn công và tiêu diệt đội lính gác Hittite và các kho chứa ở khắp nơi trong sa mạc. Từ đó lan truyền một huyền thoại rằng Horemheb trong hình dáng một cột bão lốc vào ban ngày và cột lửa vào ban đêm vượt qua sa mạc Sinai tấn công Syria. Sau chuyến chinh phạt này, danh tiếng của anh ta ngày càng tăng, đến mức người ta bắt đầu kể về anh ta như kể truyền thuyết về các vị thần và không chỉ dân Ai Cập mà cả người Syria cũng kể những giai thoại về anh ta và có lẽ họ có đủ lý do để làm như thế.

Horemheb lần lượt đánh chiếm các kho nước ở Sinai khiến quân Hittite hết sức bất ngờ; chúng không tưởng tượng nổi rằng anh ta dám tấn công vào sa mạc trong khi quân tiên phong của chúng đang cướp phá ở hạ lưu và biết quá rõ điểm yếu của Ai Cập. Các đội chiến binh của chúng cũng không tập trung một chỗ, mà buộc phải phân tán vào các thị trấn và làng mạc của Syria chờ Gaza thất thủ, vì vùng quanh Gaza và rìa sa mạc không thể nuôi nổi một đội quân quá lớn mà quân Hittite đã dồn về Syria để buộc Ai Cập quy phục. Người Hittite rất cẩn trọng trong cuộc chiến, chỉ tấn công khi biết chắc ưu thế đang thuộc về mình và các chỉ huy đã đánh dấu trên đĩa đất sét mọi bãi chăn thả, nguồn nước và làng mạc trong khu vực chúng định tấn công. Vì sự đề phòng này, chúng đã trì hoãn tấn công nên cuộc đột kích của Horemheb đã làm chúng bất ngờ, vì trước đó chưa ai dám tấn công chúng trước và vì chúng nghĩ Ai Cập không có đủ chiến xa để thực hiện một cuộc tấn công lớn như vậy. Quân Hittite vô cùng bối rối khi các chiến xa của Horemheb xuất hiện bên rìa sa mạc ở Syria và mất nhiều thời gian để do thám và tìm hiểu về số lượng chiến xa cũng như mục đích của cuộc đột kích.

Nhưng không ai ngoài Horemheb biết mục đích của cuộc đột kích, mà ngay cả anh ta cũng không biết một cách tường tận, vì sau này anh ta mới kể với tôi rằng ý định của anh ta cũng chỉ là phá hủy các kho nước của quân Hittite trên sa mạc nhằm cản phá cuộc tấn công của chúng và trì hoãn nó thêm một năm nữa để trong thời gian đó có thể yên tâm cho quân đội luyện tập và chuẩn bị cho một cuộc chiến lớn. Nhưng chiến thắng ngoài dự định đã khiến anh ta choáng váng và lính điều khiển chiến xa của anh ta hoa mắt vì chiến thắng quá dễ dàng. Do đó, anh ta đánh chiến xa lao thẳng đến Gaza như cơn gió lốc, tấn công quân bao vây từ phía sau, xé lẻ chúng, phá hủy các cỗ máy phá tường và đốt cháy doanh trại của chúng. Nhưng Horemheb không thể vào được thành Gaza vì khi nhận ra lượng chiến xa ít ỏi của đối phương, quân bao vây phản công lại, và viên trấn thủ cau có và cứng đầu của pháo đài Gaza lại không chịu mở cổng thành ngay cả cho Horemheb khi sự hỗn loạn diễn ra khắp nơi.

Cứ đà này, Horemheb sẽ bị tổn thất nặng nề nếu quân bao vây có chiến xa tấn công, nhưng các chiến xa này đã được chia ra thành từng đội nhỏ dọc Syria, vì việc bao vây Gaza không cần đến chúng, đồng thời quân Hittite và Aziru muốn cho ngựa nghỉ ngơi, ăn no dưỡng sức trước cuộc tấn công lớn vào Ai Cập. Nhờ vậy, Horemheb quay lại sa mạc và kịp phá hủy các kho nước bên rìa sa mạc ở Syria trước khi quân Hittite điên cuồng tập trung đủ chiến xa để phản công. Vì thận trọng, chúng không muốn đặt các đội chiến xa quý giá của mình vào vòng nguy hiểm, mà muốn nắm chắc phần thắng nên đã trì hoãn để tập hợp đủ chiến xa đánh lại Horemheb, vì chỉ một đội một trăm chiến xa cũng đủ sức đánh tan đoàn chiến xa đã quá kiệt sức và mệt lả vì chặng hành quân dài của Horemheb. Từ sự thật này suy ra, Horemheb đã đoán rất đúng là mình đang có chim ưng bên cạnh và nhớ lại bụi cây cháy ở vùng núi Sinai nên anh ta đã truyền lệnh tới lính giáo và lính cung, đốc thúc các đội quân tiến nhanh vào sa mạc dọc theo con đường do quân Hittite làm với hàng ngàn, hàng trăm chum nước để sẵn hai bên đường đủ cung cấp cho một đoàn bộ binh lớn. Thế là anh ta quyết định tiếp tục cuộc chiến trong sa mạc, dù sa mạc thích hợp hơn với các chiến xa và sức mạnh của Hittite chủ yếu dựa vào các cỗ chiến xa của chúng. Nhưng tôi nghĩ anh ta không còn cách nào khác, vì sau khi đã tránh được để không đụng đầu với quân Hittite đang điên cuồng trở lại sa mạc, anh ta cũng như lính chiến xa và ngựa đã quá mệt mỏi và có thể không sống sót nổi để trở về miền Hạ. Mà Horemheb lại không muốn bỏ mặc những người lính dũng cảm của mình chết đói trong sa mạc nên quyết định ở lại với họ và kêu gọi toàn quân tiến vào sa mạc, một điều chưa từng xảy ra trước đây, vì các pharaon vĩ đại khi lâm chiến ở đất Naharani luôn cho thuyền chở quân tới các thành phố Syria vào mùa thu, rồi từ đó tiếp tục tiến theo đường bộ. Nhưng khi ấy Syria thuộc quyền cai trị của Ai Cập, còn dưới quyền của Horemheb chỉ có Gaza và anh ta không có ưu thế trên biển.

Tất cả những gì tôi kể trên đây về cuộc tấn công quân Hittite đầu tiên của Horemheb, tôi nghe lại từ anh ta và người của anh ta cùng với những huyền thoại sau này người ta lan truyền, chứ bản thân tôi không đi cùng anh ta vì nếu đi cùng, chắc chắn tôi không còn sống để kể lại. Chỉ những người lính mạnh mẽ và ngoan cường nhất mới có thể đi cùng anh ta. Anh ta để tôi lại ở miền Hạ và đi theo bộ binh, với lý do là hoàn cảnh trong lúc tấn công không cho phép chữa trị hoặc băng bó vết thương, mà ai bị rơi khỏi chiến xa hay bị thương ở đâu sẽ nằm lại ở đó và được chọn dùng dao tự cắt cổ mình hay phó mặc cho lòng thương hại của quân Hittite. Anh ta nghĩ những người bị thương có quá đủ điều để nghĩ khi nằm trên đất trong vũng máu của chính mình, do đó họ sẽ không kịp có thời gian và cũng không thấy vết thương đau đớn, hoặc cũng chẳng thiết băng bó hay bôi thuốc mỡ vào vết thương. Đúng như người ta kể lại, hầu hết những người rơi khỏi chiến xa đều chọn dùng dao, song một số ít vẫn rơi vào tay quân Hittite và bị chúng lột da làm ví và túi thêu trong lúc ngưng chiến, vì người Hittite rất thành thạo những nghề thủ công như vậy.

Nhưng những điều này thật đến mức nào, tôi không thể nói, vì Horemheb vốn rất thích khoe khoang và lính chiến xa của anh ta còn phét lác hơn nhiều. Ý tôi muốn nói là chỉ một số ít người còn sống sau cuộc chiến và không phải mọi điều họ kể lại đều đáng tin. Có những huyền thoại thậm chí ngớ ngẩn và tôi cũng không muốn kể, những huyền thoại kiểu như Horemheb trong hình chim ưng bay trước đoàn chiến xa của anh ta khiến ngựa Hittite sợ chạy tán loạn, hay hình ảnh cột lốc xoáy và cột lửa mà tôi đã kể ở trên, nhưng tôi chỉ kể nhằm chỉ ra huyền thoại này được bắt đầu như thế nào. Dù sao, với cuộc tấn công chớp nhoáng này, anh ta đã chiếm được các kho nước ở sa mạc mà quân Hittite đã vất vả và tốn kém tích trữ hàng trăm ngàn chum nước trong một thời gian dài; anh ta đã giãn được vòng vây hãm Gaza và khích lệ quân phòng thủ pháo đài bằng việc gửi tới họ thông điệp được cả đội quân đứng trước bức tường thành đồng thanh gào lên: “Hãy giữ lấy Gaza! Vì Ai Cập, hãy giữ lấy Gaza!”.

Còn chiến lợi phẩm từ cuộc đột kích này là rất ít ỏi và những lính chiến xa theo anh ta hoàn toàn không giàu lên chút nào sau cuộc chinh chiến này, vì chum nước lại chỉ là chum khi nước trong đó đã uống cạn, dù nước trong sa mạc đôi khi quý như vàng. Trước thành Gaza, những binh lính làm trái lệnh cấm của Horemheb, rời khỏi chiến xa để xuống tranh giành, cướp bóc trong doanh trại quân Hittite, đều bị chết thảm thương, đầu cắm trên đầu cọc, mặt nhăn nhó hướng về những bức tường cao của Gaza, da bị nhét đầy thân sậy làm đệm nằm và đệm gối đầu trong lều của các chỉ huy Hittite.

Nhưng có lẽ vì tôi không phải chiến binh mà chỉ là thường dân và là thầy thuốc nên không đánh giá đủ tầm quan trọng của cuộc đột kích này. Có thể cuộc tấn công đã thật sự cứu được Ai Cập, như Horemheb tuyên bố, và những người lính đi theo anh ta vì thế xứng đáng nhận được vinh quang mãi mãi. Nhưng với niềm vinh quang ấy, họ không thể cắt cho mình quần áo, cũng không thể xây nhà, mua vườn tược và đất đai để an hưởng tuổi già và tôi nghĩ nhiều người trong số họ sẵn lòng đổi vinh quang này lấy một vốc bạc nếu họ được lựa chọn, bởi họ rên rỉ vì chiến lợi phẩm quá ít và không có gì trong tay.

Nếu tôi có mặt trong cuộc tấn công này, có thể tôi đánh giá nó theo cách khác, vì chắc chắn trong những lúc cấp bách ngặt nghèo, trong tiếng rầm rầm của các cỗ chiến xa và trong chiến thắng có điều gì đó làm ta mê mẩn, làm người lính say hơn rượu và quên đi nỗi đau khổ của mình. Còn tôi chỉ thấy dấu vết của cuộc tấn công này từ trên chiếc kiệu của mình trong sa mạc khi theo bộ binh hành quân thần tốc bám sau Horemheb trong cái nóng như đổ lửa và bụi mù trời. Tôi không thấy gì ngoài những xác chiến binh từ trên chiến xa rơi xuống chỗ này chỗ kia, cổ bị ngoẹo và cái bụng đen sì bị kền kền sa mạc rỉa nát. Tôi không thấy gì ngoài những xác ngựa chết đói đã khô, những chiếc chum vỡ nước tràn ra cát, xác của lính gác Hittite bị các toán cướp và quân ô hợp ở sa mạc cướp bóc sau khi quân Horemheb phóng qua, những cái xác bị cắt xẻo và cắm vào đầu những chiếc cọc dựng xung quanh các trạm chứa nước làm dấu hiệu chiến thắng. Vì vậy, cũng hiểu được vì sao tôi không biết nhiều để kể về những vinh quang bất diệt và những chiến thắng làm mê mẩn như tôi đã kể về sự chịu đựng và cái chết.

Sau vài tuần đói lả, hành quân đến kiệt sức trong sa mạc, cho dù nước có thừa mứa sau mỗi ngày đường nhờ quân Hittite, đêm đó chúng tôi thấy một cột lửa bốc lên từ ngọn núi phía sau sa mạc và biết được Horemheb với đội chiến xa đang ở đó chờ chúng tôi. Đêm sa mạc này đã in sâu vào tâm trí vì tôi thao thức không ngủ được, và suốt đêm trên đỉnh núi phía xa, cột lửa màu đỏ phát sáng, bốc khói và vừa bắn lên các tia lửa vừa làm nhợt đi ánh sáng của các vì sao bằng màu đỏ của nó. Đêm sa mạc lạnh lẽo sau ngày nắng thiêu đốt, những người lính, sau nhiều ngày hành quân sục chân trần vào cát giữa những bụi gai, giờ la hét và than vãn trong giấc mộng như thể các linh hồn ma quỷ đang trêu ghẹo họ. Chắc vì thế, dân đen mới nghĩ sa mạc đầy ma quỷ. Nhưng vào sáng sớm tinh mơ, tiếng tù và vang lên và đoàn quân lại tiếp tục đi, dù mỗi ngày lại có thêm nhiều người vì không quen hành quân và mang vác đồ nặng đã gục xuống và nằm lại, vì hiệu lệnh lửa của Horemheb luôn thúc chúng tôi tiến lên phía trước và từ khắp nơi trong sa mạc, từng toán cướp rách rưới, đen sạm và quân ô hợp lao về phía ngọn lửa, mắt liếc thèm thuồng nhìn những hành trang, giáo mác và những cỗ xe bò đực kéo của chúng tôi. Họ không đi lẫn vào đoàn quân mà chỉ nhắm theo hướng ngọn lửa của Horemheb, và tôi nghĩ có lẽ họ sẵn sàng xông vào cướp bóc chúng tôi cũng như quân Hittite.

Nhưng khi đến gần doanh trại của Horemheb, chúng tôi thấy đường chân trời của sa mạc chìm trong màn mây bụi vì quân Hittite đang kéo đến để chiếm lại những kho nước của chúng. Các tiểu đội quân do thám Hittite tiến dọc theo sa mạc trên chiến xa và lao đến gần đội quân đi đầu của chúng tôi, gây kinh hoàng cho những ai chưa quen đối đầu với chiến xa và hơn nữa chưa từng chiến đấu bằng giáo và cung. Vì thế đội quân chúng tôi trở nên hỗn loạn, nhiều người khiếp hãi bỏ chạy vào sa mạc và quân Hittite từ trên chiến xa xuyên giáo vào người họ. May thay, Horemheb đã phái một số chiến xa còn di chuyển được từ doanh trại của anh ta đến tiếp viện và sự vì nể của Hittite với quân Horemheb lớn đến mức chúng bỏ lại chúng tôi ở đó và rút quân. Nhưng cũng có thể sự việc xảy ra không phải do vì nể, mà chúng được lệnh đến dò la và quấy rối chúng tôi chứ không giao chiến.

Dù sao, bộ binh của chúng tôi khi thấy quân Hittite tháo chạy đã rất phấn khích, lính giáo vừa vung giáo đe dọa chúng vừa hét lớn, còn lính cung đã phí phạm cả đống mũi tên, bắn theo sau các cỗ xe. Song tất cả đều lén liếc nhìn những đám bụi vẫn bốc lên như những bức tường mây nơi chân trời và nói về Horemheb để khích lệ nhau:

- Không phải lo, vì đôi cánh tay mạnh mẽ của tướng quân sẽ bảo vệ chúng ta. Đừng lo, vì ngài sẽ như chim ưng quào cổ quân Hittite, móc mắt chúng và làm chúng mù.

Nhưng nếu họ nghĩ sẽ được nghỉ ngơi khi đến doanh trại Horemheb và sẽ được anh ta khen ngợi vì đã hành quân rất nhanh trên cát sa mạc làm đôi chân trần tróc hết da thì họ đã lầm to. Bởi Horemheb đã đón chúng tôi với đôi mắt đỏ ngầu đầy mệt mỏi, nét mặt giận dữ; vừa đập đập chiếc roi vàng dính đầy máu và bụi, anh ta vừa gầm lên:

- Các ngươi chết dí ở đâu, lũ bọ bẩn thỉu kia? Các ngươi la cà ở đâu, lũ trẻ xấu xa? Ta sẽ rất vui đấy nếu đầu lâu các ngươi trắng hếu trong cát ngay ngày mai, bởi quá hổ thẹn khi nhìn các ngươi. Các ngươi bò đến như rùa, sặc mùi mồ hôi và cứt bò, đến nỗi ta phải dùng ngón tay bịt chặt lỗ mũi, khi những chiến binh tốt nhất của ta đổ máu vì vô số vết thương và đàn ngựa quý giá của ta thở dốc như sắp chết. Còn bây giờ hãy đào, những chàng trai Ai Cập, đào vì mạng sống của các ngươi; và việc này thích hợp nhất với các ngươi vì suốt cả cuộc đời, các ngươi đã quen đào bùn, những khi ngón tay bẩn thỉu của các ngươi không ngoáy mũi hay gãi đít.

Các tân binh Ai Cập chưa qua huấn luyện không hề tức giận vì những lời này của anh ta mà còn reo lên và vừa lớn tiếng nhắc lại cho nhau nghe vừa cười vui hể hả. Mới nhìn thấy Horemheb, ai nấy đều thấy như đã thoát được khỏi sa mạc đáng sợ, vào được chỗ ẩn nấp an toàn. Họ quên đôi bàn chân bị trầy xước và cái lưỡi khô quắt lại của mình, bắt đầu đào những hào đất sâu theo hướng dẫn của Horemheb và đóng cọc gỗ giữa những tảng đá, căng dây sậy giữa các cọc, vần và lăn những tảng đá lớn từ trên núi xuống hẻm.

Những người lính chiến xa mệt mỏi của Horemheb từ các hang trên núi và các lều che bước ra, khập khiễng đến gần họ để cho họ thấy những vết thương và khoe khoang chiến công của mình; không một ai, ngay cả trong tình trạng tệ hại, không gượng dậy để khoe chiến công nhằm khích lệ lính đào hào là những giáo thủ, cung thủ và khơi sự ganh đua trong họ. Vào buổi sáng, khi thấy quân Hittite đang tiến đến gần rìa sa mạc như vũ bão, họ đã tin chắc rằng mình sẽ chết, nhưng sự xuất hiện của lính bộ binh đã khích lệ họ, vì cả đám cùng hy sinh vẫn tốt hơn từng người một chết; trong số hai ngàn năm trăm lính chiến xa chỉ còn lại khoảng năm trăm người còn đủ sức chiến đấu và ngựa của họ loạng choạng vì mệt mỏi, đầu thõng xuống, mõm quệt trên cát.

Cứ như thế trong ngày hôm đó, đại đa số chiến binh từng hàng từng hàng nối nhau đến địa điểm đóng quân của Horemheb và ngay khi vừa đến nơi, họ bị Horemheb bắt đi đào hào và dựng chướng ngại vật để chặn đường vào sa mạc của chiến xa Hittite. Rồi anh ta truyền lệnh tới các nhóm lính đang dềnh dàng, mệt mỏi sau cuộc hành quân rằng tất cả phải đến được địa điểm đóng quân trong đêm, vì khi trời sáng những ai còn lần chần nơi sa mạc sẽ chết thảm khốc trong tay quân Hittite nếu đội chiến xa của chúng phá vỡ được rào cản từ sa mạc và hẻm núi. Nhưng không ai biết được số quân đã đến, và Horemheb cũng không cho ai đếm, vì biết con số không còn có ích cho ai nữa, và số quân hiện có là rất ít so với toàn bộ lực lượng của quân Hittite.

Nhưng binh lính Ai Cập đã được khích lệ rất nhiều khi họ thấy lực lượng đông đảo của mình giữa sa mạc và mù quáng tin tưởng rằng Horemheb sẽ đánh bại quân Hittite và cứu họ thoát khỏi chúng. Nhưng khi dựng các chướng ngại vật, và căng dây sậy giữa các cột gỗ trên nền cát phẳng hay lăn các tảng đá, họ thoáng thấy các chiến xa Hittite trong đám bụi mù và nghe cả tiếng hô xung phong của chúng. Lúc đó, cánh mũi họ lạnh ngắt, họ nhìn ra xung quanh và kinh khiếp, các chiến xa và những lưỡi hái đáng sợ của chúng đang tiến đến.

Nhưng đêm đã tới, quân Hittite không muốn tấn công khi chưa quen trận địa và chưa biết sức mạnh của đối phương. Vì vậy chúng dựng trại trong hoang mạc, cắt bụi gai cho ngựa ăn và đốt lửa trại; ánh lửa trải xa tít tắp hút tầm mắt, lấp lánh trong màn đêm sa mạc. Suốt đêm, quân do thám của chúng trên các cỗ chiến xa hạng nhẹ lao đến chỗ các chướng ngại vật, giết lính gác và tiến vào gây chiến dọc trận địa mà Horemheb đã cho dựng lên hai bên sa mạc. Nhưng từ cả hai bên rìa, nơi không thể dựng chướng ngại vật, các toán cướp sa mạc và quân ô hợp đã tận dụng bóng đêm, bất ngờ xông ra ném dây thòng lọng kéo lính do thám Hittite khỏi chiến xa, bắt giữ xe và ngựa của chúng khiến nhiều tên không thể quay trở lại vì đã đánh xe quá sâu vào sa mạc, xa vùng bảo vệ của quân Hittite.

Tiếng loảng xoảng của chiến xa, tiếng gào hấp hối của binh lính, tiếng vù vù của mũi tên bay và tiếng va đập của vũ khí vẫn vang rền trong đêm tối, khiến những người lính chưa qua chiến trận vô cùng sợ hãi và không dám ngủ. Nhưng Horemheb đã an ủi họ:

- Hãy ngủ ngon, lũ chuột đầm lầy của ta, ngủ đi, nghỉ ngơi và bôi dầu vào bàn chân trầy xước của các ngươi, vì ta thức để canh giấc ngủ và bảo vệ các ngươi.

Còn tôi không ngủ mà suốt đêm đi lòng vòng trong doanh trại chữa cho lính chiến xa bị thương và anh ta cũng khích lệ tôi:

- Hãy chữa lành họ, Sinuhe, bằng tất cả tài năng của anh, vì thế gian chưa bao giờ thấy những chiến binh dũng cảm hơn họ và mỗi người trong số họ đáng giá một trăm và có khi một ngàn kẻ du thủ du thực. Hãy chữa cho họ, vì tôi rất yêu quý những con bọ bẩn thỉu này của mình, họ biết cách điều khiển ngựa, biết sử dụng dây cương và tôi không có lính được huấn luyện để thay thế họ. Vì vậy tôi sẽ trả cho anh một deben vàng cho mỗi chiến binh được anh chữa chạy để đủ sức chiến đấu.

Nhưng tôi rất tức giận vì cuộc hành quân vất vả qua sa mạc, dù tôi được ngồi trên kiệu suốt chặng đường, cổ họng tôi khô khốc vì bụi sa mạc đắng chát và trong thâm tâm, tôi oán hận khi nghĩ mình sẽ phải chết trong tay quân Hittite vì sự ngoan cố ngu ngốc của Horemheb, cho dù tôi thường không sợ chết. Vì thế tôi giận dữ nói với anh ta:

- Giữ vàng cho riêng anh hoặc chia sẻ với những con bọ mồ côi này của anh để họ thấy mình giàu có dù chỉ trong giây lát trước khi chết, vì ngày mai chắc chắn tất cả chúng ta sẽ chết khi bị anh dẫn vào cái bẫy đáng sợ nơi sa mạc này. Tôi hết lòng cứu chữa những con bọ này của anh chỉ vì bản thân mình, vì tôi nghĩ họ là những người duy nhất có thể chiến đấu trong đội quân này, còn những kẻ đến đây cùng tôi sẽ phát điên và bỏ chạy ngay khi tận mắt thấy tên Hittite đầu tiên. Tôi đã thấy họ run người, chùn bước vì một cành cây gãy trong bóng tối, tôi đã nghe tiếng họ đồng thanh cầu cứu các vị thần Ai Cập khi một con thỏ từ trong hốc đá nhảy ra ngang qua đường họ đi. Rõ ràng là họ rất dũng cảm đập vỡ đầu nhau trên đường phố Thebes và nếu tụ thành nhóm, có lẽ họ dám cắt cổ một khách bộ hành cô đơn để cướp ví của anh ta, nhưng trong sa mạc, họ giống như những con cừu bị dẫn đến lò mổ, vừa be be vừa ngoan ngoãn theo anh để rồi chỉ một phút sau đã điên cuồng, hoảng loạn chạy trốn. Vậy nên vì chính mình, tôi sẽ chữa chạy cho những con bọ này của anh với hy vọng rằng nhờ một vận may khó tin, sự dũng cảm của họ sẽ cứu mạng chúng ta. Nhưng khôn ngoan nhất là anh chọn những con ngựa nhanh nhất, rồi cùng tôi phóng về miền Hạ để anh có thể tập hợp được một đội quân mới tốt hơn.

Horemheb đưa tay xoa mũi và ranh mãnh nhìn tôi rồi nói:

- Lời khuyên của anh thật xứng với sự thông thái của anh, Sinuhe ạ, và chắc chắn tôi đã nghe theo lời khuyên của anh từ trước nếu tôi khôn ngoan. Nhưng tôi rất yêu những con bọ bẩn thỉu của mình và không thể bỏ mặc họ chết trong sa mạc, dù tôi có thể dễ dàng trốn thoát một mình và cho phá hủy các kho nước rồi hoãn cuộc chiến đến năm sau. Điều gì khiến tôi không trốn đi, tôi thật sự không biết, vì bất cứ người khôn ngoan nào cũng sẽ làm như vậy ở địa vị tôi, mà nói cho cùng, sau này tôi có thể dựng một đài tưởng niệm cho những con bọ của mình và khắc tên họ vào đá, để họ sống mãi muôn đời. Nhưng tôi sẽ không làm như thế, vì vậy chúng ta không có cách nào hơn là đánh bại quân Hittite ở sa mạc này. Vấn đề thật đơn giản, Sinuhe ạ. Chúng ta sẽ đánh bại quân Hittite vì chúng ta không còn cách nào khác, và có lẽ tôi đã khá khôn ngoan khi đưa quân đội vào sa mạc, vì ở đây họ không còn nơi để chạy trốn mà phải chiến đấu cho tính mạng của mình, dù muốn hay không. Nhưng tôi nghĩ tốt nhất là tôi lên xe mình ngủ và uống rượu để sáng ra tôi sẽ nôn nao khó chịu, bởi vì cơn nôn nao khiến tôi dễ bị kích động và chiến đấu tốt hơn khi tỉnh táo.

Anh ta đi đến cỗ xe của mình, nghiêng bình rượu và tôi nghe tiếng rượu chảy ồng ộc trong đêm tĩnh lặng cho đến khi từ một nơi nào đó phía xa lại bắt đầu nghe thấy tiếng ầm ào của những cỗ xe cùng với tiếng binh lính Ai Cập hét lên trong sợ hãi và bỏ chạy tán loạn vào bóng tối từ khu vực chướng ngại vật. Binh lính nhìn anh ta đầy ghen tị, anh ta đưa hũ rượu cho bất cứ ai đi qua, để họ được uống từ cái hũ mà chính anh ta đang uống. Anh ta vừa cho họ uống vừa la mắng họ:

- Bụng các ngươi như thùng không đáy, các ngươi uống cạn hũ của ta, khiến ta không còn say được nữa và những cái mõm bẩn thỉu của các ngươi làm bẩn hũ của ta.

Anh ta đấm vào vai họ, gọi tên từng người và nhắc họ nhớ về những gì họ đã hứng chịu ở mặt trận Gaza, khi họ bị quấn vào dây cương khiến ngựa lồng lên đá họ.

Thế là đêm trôi qua và bình minh lên như một bóng ma xam xám nơi sa mạc, mang theo mùi chết chóc và những con kền kền. Những con ngựa chết và những cỗ chiến xa đổ lăn lóc trước các chướng ngại vật và lính Hittite ngã khỏi chiến xa bị đàn kền kền mổ vào mắt. Rạng sáng, Horemheb ra lệnh thổi tù và, tập hợp quân lính tại chân núi.

❖ 2 ❖

Trong khi quân Hittite lấy cát dập tắt các đống lửa trên sa mạc, đóng yên ngựa và mài sắc vũ khí, Horemheb nói đôi lời với binh lính của mình. Anh ta tựa lưng vào ghềnh đá lởm chởm, vừa nhai bánh khô vừa cắn miếng hành trên tay ăn kèm với bánh rồi lớn tiếng nói trước toàn quân:

- Nhìn ra phía trước, các ngươi sẽ thấy một cảnh tượng vô cùng kỳ lạ, vì quả thật Amon đã trao lũ Hittite vào tay chúng ta và hôm nay chúng ta sẽ làm những việc lớn lao. Hẳn các ngươi đã thấy, bộ binh Hittite không kịp đến đây mà còn đang luẩn quẩn ở rìa sa mạc vì không có đủ nước. Nếu vẫn muốn tấn công Ai Cập, đội chiến xa của chúng phải mở đường và giành lại các kho trữ nước. Lúc này ngựa của chúng đang khát nước và thiếu thức ăn, bởi vì ta đã đốt cháy tất cả kho của chúng và lấy búa đập vỡ các chum nước từ đây cho đến tận Syria. Do vậy, quân Hittite phải dùng chiến xa mở đường ngay hôm nay, còn không chúng sẽ phải đánh chiến xa trở về Syria hoặc đóng quân lại đây để chờ tiếp tế và không thể chiến đấu được. Nếu khôn ngoan, chúng sẽ từ bỏ cuộc chiến và trở về Syria, nhưng chúng là những kẻ tham lam, chúng đã đổ tất cả vàng, bạc của Syria vào những chum đầy nước dọc sa mạc phía sau chúng ta và quyết đánh để giành lại. Đó là lý do ta nói rằng Amon đã trao chúng vào tay chúng ta, vì khi chúng lao về phía chúng ta, ngựa của chúng sẽ vướng vào các vật cản chúng ta đã dựng và chúng không thể dùng sức mạnh đánh lại chúng ta, vì sức mạnh của quân Hittite nằm ở sự thần tốc của các chiến xa, nhưng các mương, hào mà các ngươi không quản công sức và dũng cảm đào được cùng với những tảng đá và dây thừng đã giăng sẽ phá vỡ mũi tấn công của chúng.

Horemheb nhổ vỏ hành ra khỏi miệng rồi lại cắn mẩu bánh mì khô bằng những chiếc răng to, chắc, và nhai bánh cho đến khi quân lính bắt đầu giậm chân và la hét như những đứa trẻ háo hức muốn nghe thêm chuyện cổ tích. Horemheb chau mày nói tiếp:

- Lạy Seth và tất cả ác quỷ, các đầu bếp của quân đội đã nướng cứt chuột bỏ vào bánh mì của ta hay cơn say rượu khiến miệng ta có vị cứt thế này? Những con chuột đồng của ta, các ngươi phải biết là đêm qua ta không thể không uống đến say chỉ vì niềm vui sướng khi nghĩ đến việc lính Hittite sa vào tầm đâm của giáo các ngươi vì sự ngu ngốc của chúng. Nhưng dù vậy, ta cũng sẽ cho treo ngược vài tên lính hậu cần lên tường thành vì thứ bánh cứt chuột này. Ta làm điều đó không phải vì các ngươi mà vì cái miệng cao quý của ta, nên các ngươi chỉ phí công cười và ọ lên như bò trước mặt ta. Chúng cho các ngươi ăn bánh nướng với phân gia súc ta cũng mặc, vì với ta những cục phân mà bầy ngựa của những con bọ bẩn thỉu của ta ị xuống còn quý hơn cả đám các ngươi. Các ngươi thấy đấy, ta sợ chính các ngươi sẽ để quân Hittite thoát vì sự khốn nạn của mình, bởi các ngươi không phải là lính chiến mà chỉ là lũ chuột đồng hôi hám. Vậy nên ta phải bảo cho các ngươi rằng những cây gậy các ngươi cầm trong tay là giáo và mũi giáo không phải dùng để cào lưng, mà các ngươi phải dùng chúng đâm vào bụng quân Hittite. Và ta nhắc đám lính cung, các ngươi chắc chắn đang nghĩ mình là những người hùng vĩ đại khi giương cung, bắn tên lên không trung và hét lên như lũ trẻ: “Nhìn kìa, tên của tôi bay cao làm sao”. Các ngươi phải nhắm mũi tên vào quân Hittite và nếu các ngươi là những người lính thật sự, biết ngắm đích như những người lính, các ngươi sẽ chọc thủng mắt quân Hittite bằng mũi tên của mình. Nhưng những chỉ dẫn như vậy với các ngươi thật vô ích, vì thế ta khuyên các ngươi chỉ nhắm vào ngựa của chúng, vì ngựa là mục tiêu to hơn và đằng nào các ngươi cũng không bắn trúng được những tên lính đứng trên chiến xa. Càng để ngựa đến gần, các ngươi càng dễ bắn trúng hơn dù không phải là lính thiện xạ, và ta khuyên các ngươi nên làm như thế, vì ai lãng phí tên sẽ bị ta quất roi, khiến kẻ đó chỉ mong mình không bao giờ được sinh ra. Chúng ta không đủ lực để lãng phí bất cứ mũi tên nào. Hãy nhớ rằng các mũi tên được rèn từ trâm cài của các bà vợ Ai Cập và vòng cổ chân của gái làng chơi, nếu điều này làm các ngươi vui thích. Với lính giáo, ta ra lệnh: Khi ngựa đến gần, hãy dùng cả hai tay chống giáo xuống đất và hướng mũi giáo vào bụng ngựa thì các ngươi sẽ không gặp nguy hiểm, mà kịp nhảy sang một bên trước khi ngựa ngã lên đầu các ngươi. Nếu bị ngã xuống đất, các ngươi hãy dùng dao cắt gân chân ngựa, vì đó là cách duy nhất để cứu mình trước khi bánh xe lăn qua và nghiền nát các ngươi. Đó là nhiệm vụ của các ngươi, hỡi lũ chuột sông Nile.

Anh ta ngửi ngửi mẩu bánh trong tay vẻ gớm ghiếc, ném nó đi rồi nhấc cái hũ lên miệng tu thật nhiều nước cho dã rượu. Sau đó anh ta tiếp tục nói:

- Chắc lời ta nói với các ngươi như nước đổ đầu vịt, vì khi nghe tiếng gào thét của quân Hittite và tiếng chiến xa của chúng ầm ầm chạy, các ngươi sẽ lại khóc lóc và vùi đầu vào cát vì ở đây không có váy áo của mẹ để các ngươi nấp vào. Phòng việc đó xảy ra, ta phải nói với các ngươi rằng nếu quân Hittite chọc thủng vòng ngoài và đến được các kho nước ở phía sau chúng ta, tất cả các ngươi sẽ toi mạng trước khi trời tối, còn may mắn nhất thì chỉ trong một vài tuần trăng nữa, da của các ngươi sẽ được các mụ đàn bà ở Byblos và Sidon kẹp trong nách làm túi đi chợ, không thì các ngươi sẽ gào khóc trên tường thành, chân tay què quặt hoặc quay cối xay bột trong trại Azuri với đôi mắt bị chọc thủng. Điều này sẽ xảy ra nếu quân Hittite chọc thủng phòng tuyến, vì khi đó chúng ta sẽ bị bao vây và không có đường thoát, mà tất cả sẽ toi mạng. Nhưng ta cũng phải thú thật rằng bây giờ chúng ta cũng không có lối thoát và nếu chúng ta bỏ tuyến phòng thủ đã dựng, rút lui về phía sau thì chiến xa của quân Hittite sẽ đánh ta tan tác như nước lũ cuốn trôi đám rơm khô. Ta nói điều này để không ai nảy ra ý định chạy trốn vào sa mạc. Nhưng để ngăn các ngươi nhầm hướng kẻ thù, ta sẽ bố trí năm trăm con bọ dũng cảm của ta ở một khoảng cách thích hợp phía sau các ngươi, để ít nhất một lần chúng có thể cười thỏa chí khi thấy các ngươi chiến đấu, vì quả thật chúng đáng được hưởng tiếng cười ấy, và bất cứ kẻ nào cố tình chạy trốn hoặc nhầm hướng sẽ bị giáo của chúng đâm chết hoặc bị dao cắt cứa, khiến những con bò đực hoang dã thành bò kéo ngoan ngoãn. Vì vậy, hãy biết rằng nếu cái chết hiện ra lù lù trước mặt các ngươi, thì một cái chết chắc chắn hơn chờ các ngươi ở phía sau, nhưng chiến thắng và vinh quang cũng hiển hiện trước mặt các ngươi, vì ta tin chắc rằng hôm nay chúng ta sẽ đánh bại quân Hittite nếu mỗi chúng ta nỗ lực hết sức. Lũ chuột cống thân yêu của ta, các ngươi biết là tất cả chúng ta đều bị quẳng vào cùng một vũng bùn và chúng ta không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đánh bại quân Hittite, mà để đánh bại chúng, không có cách nào khác ngoài việc xông về phía chúng và đâm thủng da chúng bằng mọi vũ khí mà các ngươi được phân phát. Đây là cách duy nhất, vì thế ta thân chinh đi theo, cùng chiến đấu bên cạnh các ngươi với cây roi trong tay và sẽ không phải lỗi của ta nếu roi của ta quất các ngươi nhiều hơn là quất quân Hittite, nhưng điều này tùy thuộc hoàn toàn vào chính các ngươi, lũ chuột cống dũng cảm của ta.

Quân lính như bị bỏ bùa khi nghe anh ta nói, quên đổi thế đứng và quên cả quân Hittite. Phải thú thật rằng tôi bắt đầu lo sợ vì các chiến xa Hittite đã tiến gần đến tuyến phòng thủ từ các hướng như những đám mây bụi, nhưng tôi nghĩ chắc Horemheb đã cố tình kéo dài thời gian để truyền sự bình thản của mình sang quân lính và tránh cho họ sự chờ đợi nghẹt thở trước cuộc tấn công. Cuối cùng từ vị trí trên cao của mình, anh ta nhìn ra sa mạc, giơ tay lên và nói:

- Các bạn chiến xa Hittite của chúng ta đang tiến đến, ta cảm tạ tất cả thần linh Ai Cập về điều này, vì quả thực Amon đã làm chúng mù quáng tin tưởng quá nhiều vào sức mạnh của chúng và chiến đấu theo ý chúng ta. Hãy đi đi, hỡi những con chuột lấm bùn sông Nile, ai nấy hãy trở về chỗ đã bố trí cho mình, sau đó không ai được rời khỏi vị trí khi chưa được lệnh. Và các ngươi, những con bọ yêu quý của ta, hãy đi theo những con ốc sên với thỏ rừng này và chăm sóc chúng, khi cần thiết, hãy thiến chúng như thiến những con nhân sư nếu chúng cố chạy trốn. Ta có thể nói với các ngươi: Hãy chiến đấu vì các vị thần của Ai Cập, chiến đấu cho miền đất đen, chiến đấu cho vợ con các ngươi. Nhưng lời nói ấy thật nhảm nhí và vô ích vì các ngươi sẵn sàng đái vào mắt vợ mình để được sống sót bỏ chạy. Vì vậy ta kêu gọi: Hỡi lũ chuột hôi của Ai Cập, hãy chiến đấu cho chính mình, chiến đấu vì mạng sống của chính mình và đừng bỏ cuộc, vì các ngươi không có cách giải cứu nào khác. Còn bây giờ hãy chạy đi, các chàng trai của ta, hãy chạy thật nhanh, nếu không thì chiến xa tấn công của Hittite sẽ đến tuyến phòng thủ trước các ngươi và trận chiến sẽ kết thúc trước khi kịp bắt đầu.

Anh ta để binh lính tản đi và họ lao đến vị trí được giao ở tuyến phòng thủ, vừa chạy vừa gào lên, nhưng họ gào vì quyết tâm hay sợ hãi, tôi thật sự không thể nói, và tôi không tin bản thân họ biết điều đó. Horemheb lững thững bước theo sau họ, còn tôi ngồi lại trên sườn núi để theo dõi cuộc chiến từ một khoảng cách an toàn vì tôi là thầy thuốc và tính mạng của tôi đáng quý.

Chiến xa của quân Hittite đã xuất hiện trên cao nguyên, đến dưới chân các ngọn đồi và dừng lại đó để dàn trận. Những cờ hiệu sặc sỡ và những mặt trời có cánh tỏa tia nắng trên các cỗ xe của chúng, những chiếc ngù đung đưa trên đầu ngựa và những tấm vải dày dặn nhiều màu che chắn bên hông ngựa để bảo vệ chúng khỏi trúng tên, tạo ra một cảnh tượng hoành tráng và đáng gờm. Rõ ràng là chúng đã chuẩn bị tấn công với tất cả sức mạnh và dồn toàn bộ lực lượng vào địa hình trống trải với con đường dẫn đến các kho chứa nước mà Horemheb đã vội vàng cho chặn lại bằng các chướng ngại vật sơ sài. Chúng không lao vào các hẻm chật hẹp len giữa các ngọn đồi dựng đứng dẫn ra hai bên và không tản ra rìa sa mạc, nơi các toán cướp và quân ô hợp trấn giữ cả hai bên sườn quân Horemheb. Nếu chúng tản ra rìa sa mạc, quãng đường đến các kho chứa nước sẽ quá xa với ngựa của chúng. Do thiếu nước và thức ăn cho ngựa, chúng dựa vào sức mạnh và tài nghệ chiến tranh của mình, vì thế mà chưa dân tộc nào ngăn được đường tiến quân của chúng. Các chiến xa Hittite chiến đấu theo các phân đội sáu cỗ xe, mười phân đội sáu cỗ xe hợp thành một chiến đoàn và tôi nghĩ chúng có tất cả sáu mươi chiến đoàn, đối đầu với các đội quân chưa được huấn luyện của Horemheb, bởi người Hittite rất kỹ tính và thích những con số rõ ràng. Nhưng các chiến xa hạng nặng, mỗi chiếc có ba ngựa và ba chiến binh, mới là tâm điểm và khi nhìn vào những cỗ chiến xa hạng nặng ấy, tôi không hiểu bằng cách nào quân của Horemheb có thể chặn được cuộc tấn công của chúng, vì chúng di chuyển chậm chạp, nặng nề như những thuyền chiến trong sa mạc và nghiến nát mọi thứ trên đường đi.

Sau khi tiếng tù và cất lên, các chỉ huy giương cao cờ hiệu và đoàn chiến xa bắt đầu di chuyển rồi từ từ tăng tốc; nhưng khi chúng đến gần các chướng ngại vật, tôi ngạc nhiên thấy từng con ngựa riêng rẽ lao ra như tên bắn từ giữa các cỗ chiến xa, trên lưng mỗi con là một chiến binh nằm ép xuống, tay bám chặt vào bờm ngựa và hai gót chân đạp mạnh vào hai bên hông ngựa để thúc nó lao lên nhanh hơn. Tôi không hiểu nổi tại sao chúng lại cho ngựa dự phòng của các cỗ xe lao ra bãi chiến trận mà không được bảo vệ, cho đến khi tôi thấy những kỵ binh này vươn người xuống đất trong khi vẫn treo mình trên lưng ngựa và vừa bám chặt vào bờm ngựa, vừa dùng dao, rìu chặt đứt những sợi dây sậy căng giữa các cọc cắm trên mặt đất mà lính Horemheb đã giăng nhằm quấn chân những con ngựa kéo chiến xa. Còn những con ngựa khác lao thẳng vào khoảng trống giữa các chướng ngại vật và các kỵ binh đứng trên lưng ngựa lao giáo đi. Chúng không ném giáo vào quân Ai Cập, mà ném mạnh xuống đất đến mức mũi giáo cắm thẳng xuống và ở đầu mỗi cán giáo có một cờ hiệu sặc sỡ lung lay. Mọi việc xảy ra nhanh như chớp, nhanh hơn tôi có thể diễn tả và tôi chưa hiểu ra mục đích của chúng, vì sau khi chém đứt các sợi dây và cắm mũi giáo xuống đất, các kỵ binh quay ngựa lại và phi hết cỡ, lẩn vào phía sau các cỗ chiến xa, dù nhiều tên trong số chúng đã rơi khỏi lưng ngựa vì trúng tên từ phía sau bắn tới và nhiều con ngựa gục ngã, nằm giãy giụa và rống lên trên mặt đất.

Nhưng khi các đội chiến xa hạng nhẹ Hittite bắt đầu tấn công, tôi chứng kiến một cảnh tượng lạ lùng: Horemheb từ hàng quân của mình phía sau tuyến phòng thủ phóng ra, một mình xông thẳng về phía các chiến xa đang lao đến và tôi nhận ra anh ta, vì anh ta cao hơn tất cả những người lính sông Nile thấp lùn một cái đầu. Khi nhìn thấy thế, tôi đứng dậy, tay siết chặt nắm đấm và gào lên, nhưng Horemheb đã rút từng ngọn giáo có cờ hiệu trên cán mà quân Hittite ném cắm xuống đất và ném ra xa, khiến chúng rung bần bật và cắm sâu vào trong cát. Tài trí quân sự của anh ta nhanh hơn tất cả những người khác, vì anh ta đã hiểu ra mục đích của việc cắm những ngọn giáo này; những kỵ binh dày dạn kinh nghiệm nhất của quân Hittite đã cắm giáo và cờ hiệu để đánh dấu những điểm phòng thủ yếu nhất và đánh đột phá dễ thành công nhất.

Trong đội quân Ai Cập chỉ có Horemheb nhận ra điều này và anh ta có đủ dũng khí để rút giáo cắm sang chỗ khác nhằm đánh lạc hướng quân Hittite. Một vài lính theo gương anh ta, chạy tới các chướng ngại vật, nhổ giáo lên và quay trở lại, mang theo cờ hiệu bên mình làm dấu hiệu chiến thắng.

Dĩ nhiên, điều này cũng gây hoang mang cho quân Hittite nhưng tôi nghĩ chỉ có tài trí tinh nhanh của Horemheb mới cứu được Ai Cập vào sáng hôm đó, vì nếu quân Hittite có thể sử dụng toàn bộ sức mạnh ban đầu, tấn công đột phá vào các điểm mà các kỵ binh của chúng đã đánh dấu thì quân Ai Cập chắc chắn không thể đẩy lùi chúng được.

Nhưng lúc đó tôi vẫn chưa hiểu ra những điều này mà nghĩ hành động lao đến chỗ đội chiến xa Hittite của Horemheb chỉ là một trò đùa trẻ con điên rồ, vì thế tôi đã mắng anh ta và nghĩ anh ta làm thế chỉ vì muốn khích lệ quân lính của mình. Có lẽ trên thế giới này không hành động nào dũng cảm hơn việc một mình chạy trên trận địa trống trải đối mặt với các cỗ chiến xa, nhưng có lẽ m?