← Quay lại trang sách

Sách thứ mười ba Vương quốc Aton trên mặt đất

❖ 1 ❖

Khi tôi trở lại Akhetaton, Pharaon Ekhnaton quả thật đang bị ốm và ngài cần sự chăm sóc của tôi. Hai má ngài hóp lại, gò má nhô cao trên khuôn mặt và cổ ngài còn dài hơn trước, đến mức không thể chịu nổi sức nặng của cả hai vương miện trong các lễ triều, mà đầu ngài ngả trĩu ra sau vì sức nặng ấy. Hai đùi ngài phù thũng, còn cẳng chân gầy như que củi, quầng mắt thâm tím và sưng húp vì những cơn đau đầu triền miên. Ngài không còn nhìn thẳng vào mắt người khác mà ánh mắt cứ lang thang, vô định trong những thế giới nào đó và vì thần của mình, ngài thường quên những người ngài từng nói chuyện cùng. Ngài làm căn bệnh đau đầu càng tồi tệ hơn khi đi ra ngoài giữa trưa nắng chang chang không che ô hay đội mũ hoàng đế, để đầu được hứng những tia sáng phước lành của thần. Nhưng những tia sáng của Aton không ban cho ngài chút phước lành nào mà chỉ đầu độc ngài, khiến ngài mê sảng và thấy những ảo ảnh tồi tệ. Có lẽ thần của ngài cũng như ngài, ban phát lòng tốt và tình yêu thương của mình quá rộng rãi, quá bất ngờ, quá hào phóng và bằng vũ lực, đến mức hậu quả của lòng tốt ấy thật tồi tệ và tình yêu thương ấy gieo rắc hủy diệt xung quanh ngài.

Nhưng vào những khoảnh khắc tỉnh táo, khi tôi dấp khăn ướt lên đầu ngài và dùng các loại thuốc nhẹ để xoa dịu cơn đau cho ngài, ngài nhìn tôi bằng đôi mắt buồn rầu và đau khổ, như thể nỗi thất vọng không nói được bằng lời âm thầm len lỏi vào trái tim ngài. Cái nhìn đó làm tim tôi đau đớn, khiến tôi lại mến yêu ngài trong sự mềm yếu của ngài và sẵn sàng từ bỏ nhiều hơn, nếu có thể giải thoát cho ngài khỏi tình trạng này. Ngài nói với tôi:

- Sinuhe, lẽ nào những linh ảnh của ta là dối trá và sinh ra từ cái đầu ốm yếu của ta? Nếu thật vậy, cuộc đời khủng khiếp hơn ta nghĩ và không phải cái thiện ngự trị trên thế gian mà là cái ác vô biên. Không thể như thế được. Những linh ảnh ta thấy phải là thật. Ngươi có nghe không, Sinuhe, kẻ bướng bỉnh kia, những linh ảnh của ta phải là thật, mặc dù mặt trời của ngài không còn chiếu sáng trong trái tim ta và bạn bè ta nhổ nước bọt vào giường ta. Ta hoàn toàn không phải là kẻ mù, mà ta nhìn thấu trái tim con người. Ta cũng nhìn thấu trái tim yếu mềm của ngươi và biết ngươi coi ta là kẻ điên, Sinuhe, nhưng ta tha thứ cho ngươi vì ánh sáng đã từng chiếu vào trái tim ngươi.

Khi bị những cơn đau hành hạ, ngài rên rỉ và than thở:

- Sinuhe, súc vật ốm được ân xá bằng vồ, sư tử bị thương bằng giáo nhọn, nhưng con người không được ai xá tội. Nỗi thất vọng của ta còn cay đắng hơn cái chết nơi trần gian, mà ta không sợ chết vì ánh sáng của ngài chiếu trong tim ta và thân thể ta có thể chết nhưng linh hồn ta sống mãi muôn đời và tỏa sáng trong ngài trên khắp cõi trần gian. Sinuhe, ta sinh ra từ mặt trời và ta sẽ trở về với mặt trời, ta mong ước được trở về vì tất cả những thất vọng của mình.

Ngài nói với tôi như thế khi bị ốm và tôi không biết liệu ngài có hiểu những gì mình nói không. Nhưng vào mùa thu, ngài bắt đầu hồi phục nhờ công chữa trị của tôi, dù nếu tôi để ngài chết mà không chạy chữa thì có lẽ tốt hơn. Tuy nhiên, thầy thuốc không thể để bệnh nhân của mình chết nếu còn tài năng để chữa trị; điều này thường gây tai họa cho danh y, nhưng danh y làm gì khác được, mà phải chữa lành cho bệnh nhân, không phân biệt người tốt hay kẻ xấu, người sùng đạo hay báng bổ. Khi mùa thu đến, ngài bắt đầu hồi phục và trong thời gian ấy, ngài khép mình, không nói chuyện với tôi và cả những người khác nữa, mà đôi mắt ngài trở nên cứng rắn.

Nhưng ngài đã nói đúng rằng bạn bè ngài nhổ nước bọt vào giường ngài, vì sau khi sinh năm công chúa cho ngài, Hoàng hậu Nefertiti đã chán ngài, bắt đầu hận ngài và chỉ muốn làm tổn thương ngài bằng mọi cách. Vì vậy, khi hạt đại mạch thứ sáu bắt đầu nảy mầm trong bụng Nefertiti, đứa trẻ chỉ mang dòng máu các pharaon trên danh nghĩa, vì bà đã để cho hạt giống lạ lọt vào dạ con của mình. Và một khi đã phá rào, bà không còn coi trọng bất kỳ ranh giới nào nữa mà ăn nằm với bất kỳ ai, vào lúc nào bà muốn, kể cả với bạn Thotmes của tôi. Bà cũng không mất nhiều thời gian tìm người ân ái, vì vẻ đẹp của bà vẫn còn lộng lẫy dù đã qua tuổi thanh xuân, và trong ánh mắt, nụ cười giễu cợt của bà ẩn chứa điều gì đó như bùa ngải khiến cánh đàn ông không thể kiềm chế được mình. Với lòng cay đắng và căm hận, bà cố tình nhằm vào những người trung thành với Pharaon Ekhnaton, ăn nằm với họ để kéo họ ra khỏi ngài, khiến vòng người yêu kính, chở che Pharaon Ekhnaton quanh ngài ngày càng nới lỏng.

Ý chí của Hoàng hậu thật kiên định, trí tuệ sắc bén đến đáng sợ, và một người đàn bà sẽ rất nguy hiểm nếu ý định xấu xa của bà ta đi kèm với trí tuệ và sắc đẹp, càng nguy hiểm hơn nếu tất cả những điều này còn đi kèm với quyền lực của một hoàng hậu. Trong nhiều năm, Nefertiti này đã trói mình vào những xiềng xích bền chắc. Trong nhiều năm, Nefertiti này đã bằng lòng với việc mỉm cười và cai trị bằng sắc đẹp của mình, thỏa mãn với đồ trang sức, rượu bia, thơ phú và bỡn cợt. Nhưng chắc chắn điều gì đó đã vỡ vụn trong bà khi bà sinh cô con gái thứ năm và tin rằng mình sẽ không bao giờ sinh được con trai, do lỗi của Pharaon Ekhnaton. Mà cũng đúng, điều này thật trái với tự nhiên và có thể làm rối trí đàn bà. Tuy nhiên, cần nhớ rằng dòng máu đen của giáo sĩ Eje chảy trong huyết quản của bà ta, dòng máu của dối trá, lừa lọc và tham vọng sai trái, nên không có gì ngạc nhiên khi Hoàng hậu trở thành người như thế này.

Nhưng cũng phải có mấy lời để biện hộ rằng trong ngần ấy năm trước đó không ai có thể nói xấu bà và không có tin đồn xấu nào về bà, mà Hoàng hậu đã chung thủy và bao bọc Pharaon Ekhnaton bằng tất cả sự dịu dàng âu yếm của một người phụ nữ đang yêu, bảo vệ sự điên rồ của ngài và tin vào những ảo ảnh ngài thấy. Chính vì vậy, nhiều người đã vô cùng kinh ngạc trước sự thay đổi đột ngột và sự độc ác của bà và coi đó là dấu hiệu của lời nguyền rủa đang ngự trên Akhetaton như bóng ma chết chóc. Vì bà sa đọa quá đỗi nên người ta đồn rằng bà ăn nằm cả với những người hầu, lính Shardana và phu đào mộ, mặc dù tôi không muốn tin điều này. Khi muốn có điều gì để gièm pha, người ta thích thổi phồng và phóng đại tất cả những gì đã xảy ra, mặc dù trong sự xấu xa tội lỗi của bà ta đâu còn gì để thổi phồng, mà bản thân Hoàng hậu đã là hiện thân của tai ương.

Tuy nhiên, tôi không muốn lên án bà quá gay gắt, vì bất kỳ người đàn bà nào cũng có thể điên lên nếu đã từng là người đẹp nhất và là một hoàng hậu, thông minh, tinh tế, được muôn dân ngưỡng mộ nhưng lại bị trói buộc với một người chồng luôn bị kích động vì những ảo ảnh, buộc bà năm lại năm như bò cái chửa đẻ mà chỉ được cho sinh con gái và chỉ nói về Aton ngay cả trên giường. Hơn nữa, vốn thông minh nên khi đã sáng mắt ra và tình thương biến thành thù hận, Nefertiti nhận thấy Pharaon Ekhnaton chỉ gieo rắc tai ương xung quanh mình và làm lung lay cả vương triều của chính mình nên thảm họa là không tránh khỏi. Vì vậy, ham mê đồi bại của Hoàng hậu đối với đàn ông có thể không phải là sự cuồng nhiệt muộn màng, mà là sự tính toán lạnh lùng khi bà muốn giành sự ủng hộ của những người vốn trung thành với Pharaon và của tầng lớp quyền quý trong vương quốc về cho mình và để đạt được mục đích này, bà dùng phương thức an toàn nhất mà một người đàn bà xinh đẹp được ban cho. Nhưng tất cả những điều này chỉ là suy nghĩ của riêng tôi về bà ấy và cũng hoàn toàn có thể khác với suy nghĩ của người khác.

Pharaon Ekhnaton thu mình trong cô đơn và thức ăn của ngài là bánh của người nghèo, đồ uống của ngài là nước sông Nile, vì ngài muốn thanh lọc cơ thể để lấy lại vầng hào quang của mình và ngài tin rằng rượu và thịt đã làm giảm khải tượng của mình.

Trong khi không có tin tức tốt đẹp nào truyền đến Akhetaton từ thế giới bên ngoài thì từ Syria, Aziru đã gửi cho Pharaon rất nhiều bảng đất sét với đủ điều phàn nàn, ca thán. Ông ta viết rằng lính của ông ta muốn trở về nhà để chăn gia súc, làm ruộng và vui vẻ với vợ con vì họ là những người hiền lành, chỉ muốn bình yên, nhưng từ hoang mạc Sinai, những toán cướp liên tục vượt qua các cột mốc biên giới tàn phá Syria và chúng được trang bị vũ khí Ai Cập, do quân đội Ai Cập chỉ huy và sử dụng cả chiến xa Ai Cập, vì vậy chúng là hiểm họa thường trực cho Syria và Aziru không thể cho lính của mình trở về nhà; cả viên trấn thủ ở Gaza cũng hành xử rất thất lễ, trái với nội dung và tinh thần của hiệp ước hòa bình, khi ông ta đóng cổng Gaza không cho các thương nhân và đoàn lữ hành ôn hòa vào thành mà dựa trên sự cân nhắc tinh quái của mình để chọn thương gia nào được phép buôn bán ở Gaza. Aziru còn ghi ra bao lời than vãn khác và muốn tình hình này phải chấm dứt, bởi vì nếu không ông ta không thể đảm bảo được điều gì sẽ xảy ra.

Cả Babylon cũng rất tức giận vì Ai Cập cạnh tranh với Babylon về lương thực ở Syria, và vua Burraburiash không hài lòng chút nào với những món quà làm của hồi môn mà ông ta nhận được từ Pharaon, cho là không đủ và đưa ra tất cả những yêu cầu tối thiểu mà Pharaon phải đáp ứng nếu muốn giữ trọn tình hữu hảo với Burraburiash.

Sứ giả thường trực của Babylon tại Akhetaton nhún vai, dang tay và dứt râu, nói:

- Quốc vương tôi giống như một con sư tử, bồn chồn gồng người lên trong ổ của mình và căng mũi ra đón gió để ngửi những gì gió mang theo. Ngài đặt niềm tin vào Ai Cập, nhưng nếu Ai Cập thực sự nghèo đến mức không thể gửi cho ngài đủ vàng để tuyển mộ những người đàn ông khỏe mạnh cho đội quân hung bạo của mình và để chế tạo chiến xa, thì tôi không biết điều gì sẽ xảy ra. Quốc vương tôi luôn muốn kết bạn với một Ai Cập hùng mạnh và giàu có, và liên minh này bảo đảm hòa bình thế giới, vì cả Ai Cập và Babylon đều đủ giàu, không cần gây chiến tranh mà muốn giữ tất cả nguyên trạng vì sự giàu có của mình. Nhưng tình bạn với một Ai Cập yếu ớt và nghèo nàn chẳng có nghĩa lý gì đối với quốc vương tôi, mà chỉ là gánh nặng đối với ngài và tôi có thể kể là ngài đã rất sửng sốt và kinh hoàng khi Ai Cập từ bỏ Syria vì sự nhu nhược của mình. Nhưng việc nhà mình cấp thiết hơn việc nhà người và Babylon phải nghĩ về lợi ích Babylon. Mặc dù tôi rất yêu quý Ai Cập và mong muốn mọi điều tốt đẹp nhất cho Ai Cập, nhưng lợi ích của đất nước tôi quan trọng hơn lợi ích của Ai Cập và tôi không lấy làm ngạc nhiên nếu mình phải sớm rời khỏi đây để trở về Babylon, mặc dù điều đó sẽ khiến tôi rất buồn phiền.

Ông ta nói như thế và không người sáng suốt nào có thể phủ nhận sự khôn ngoan trong lời nói đó. Thế là vua Burraburiash không còn gửi đồ chơi và trứng nhuộm phẩm màu đến Akhetaton cho người vợ ba tuổi của mình, mặc dù nàng là con gái của Pharaon và dòng máu thiêng chảy trong huyết quản của Công chúa.

Thay vào đó, một phái đoàn của người Hittite đến Akhetaton, trong đó có nhiều quan lại chủ chốt. Họ nói họ đến để củng cố tình bạn truyền thống giữa Ai Cập và xứ Hatti, đồng thời tìm hiểu về phong tục tập quán của người Ai Cập mà họ đã được nghe kể và làm quen với quân đội Ai Cập để học hỏi những điều bổ ích về kỷ luật và trang bị vũ khí của quân đội. Họ cư xử dễ mến, chân thật và đem tới những món quà lớn cho các quan quyền trong triều. Trong số quà tặng cho Tut trẻ tuổi, chồng của Ankhsenaton và là phò mã của Pharaon Ekhnaton, có một con dao bằng kim loại màu xanh lam, sắc và bền hơn tất cả những con dao khác, khiến cậu trai trẻ rất hài lòng và không biết làm thế nào để đối đãi họ một cách tốt nhất. Ở Akhetaton chỉ có tôi mới có con dao tương tự, con dao mà viên cai đội bến cảng người Hittite được tôi chữa lành bệnh tặng cho, như tôi đã kể, và tôi khuyên Tut mạ vàng và bạc con dao theo kiểu của người Syria, như tôi đã đặt làm ở Simyra. Thế là con dao trở thành một vũ khí được trang trí tuyệt đẹp và Tut thích nó đến mức cậu ta nói rằng cậu muốn mang nó theo cùng khi xuống mồ. Hóa ra cậu ta chỉ là một cậu bé ốm yếu và nghĩ đến cái chết nhiều hơn bạn bè cùng trang lứa.

Các viên quan Hittite này thật sự là những người dễ mến và có học thức, trên khiên và áo choàng của họ có hình mặt trời có cánh và cặp rìu sáng lấp lánh. Cánh mũi to dũng mãnh và khuôn cằm kiên nghị cùng đôi mắt đầy vẻ hoang dã của họ vô cùng quyến rũ với các phụ nữ quyền quý trong hoàng cung, những người yêu thích mọi thứ mới mẻ theo bản tính đàn bà. Vậy nên những viên quan này có rất nhiều bạn ở Akhetaton và từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, họ được chào đón, được mời dự tiệc tùng trong cung điện của các quý tộc cho đến khi mệt nhoài và vừa cười vừa kêu nhức đầu. Họ nói:

- Chúng tôi biết những tộc người hay ganh ghét đã bịa đặt nhiều câu chuyện khủng khiếp về vương quốc chúng tôi. Vì thế chúng tôi rất vui khi chính mình đến chào các quý ngài để quý ngài có thể tận mắt thấy chúng tôi là những người văn minh và nhiều người trong chúng tôi có thể đọc và viết. Chúng tôi hoàn toàn không ăn thịt sống và uống máu trẻ em như người ta bịa đặt, mà chúng tôi biết ăn uống theo cách Syria lẫn Ai Cập. Chúng tôi cũng là những người chuộng hòa bình, không hiếu chiến, sẽ tặng cho quý ngài đủ loại quà cáp và không đòi hỏi lại điều gì ngoài những kiến thức mà chúng tôi thấy có thể có ích nhằm xây dựng đất nước mình đến tầm cao tri thức và văn minh như đất nước các ngài. Chúng tôi đặc biệt quan tâm cách bộ tộc Shardana của các ngài sử dụng vũ khí và cũng rất mê các cỗ chiến xa nhỏ gọn, mạ vàng của các ngài mà những cỗ xe thô thiển, mộc mạc và nặng nề của chúng tôi không thể nào sánh được. Các ngài cũng không nên tin những lời nhảm nhí mà dân tị nạn Mitanni đã bịa đặt về chúng tôi, những lời thốt ra từ miệng họ vì sự uất hận cay đắng khi họ hèn nhát bỏ chạy khỏi đất nước của mình. Chúng tôi thề rằng đã không có gì tồi tệ xảy ra với họ nếu họ ở lại và tiếp tục khuyên họ quay về đất nước của mình, sống hòa thuận với chúng tôi và chúng tôi sẽ không oán giận gì về những chuyện nhảm nhí họ bịa đặt, vì chúng tôi hiểu rõ nỗi khổ đau của họ. Nhưng cả các ngài cũng phải hiểu rằng xứ Hatti là một vùng đất nhỏ bé và chúng tôi có đông trẻ em bởi vì vua Shubbiluliuma vĩ đại của chúng tôi rất yêu con trẻ. Vậy nên chúng tôi cần thêm đất cho trẻ em và đồng cỏ mới cho gia súc, mà ở Mitanni chúng tôi có những thứ ấy vì đàn bà Mitanni chỉ sinh một hoặc nhiều nhất là hai con. Hơn nữa, chúng tôi không thể chịu được khi thấy áp bức và bất công diễn ra ở Mitanni và thành thật mà nói, người dân Mitanni đã cầu cứu chúng tôi, nên chúng tôi tiến vào địa phận của họ để giải phóng chứ không phải xâm lược đất nước họ. Giờ đây, chúng tôi có đủ đất ở Mitanni cho mình, cho con cái và đàn gia súc, chúng tôi không còn nghĩ về cuộc chinh phục mới nào nữa vì chúng tôi là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, chúng tôi chỉ muốn có đủ đất cho người dân của mình và khi có được điều đó, chúng tôi hoàn toàn thỏa mãn.

Họ giơ thẳng cốc rượu lên và hết lời ngợi ca Ai Cập và những người đàn bà thèm thuồng nhìn bờ gáy, cơ bắp và đôi mắt man dại của họ. Họ còn nói:

- Ai Cập là một vương quốc tuyệt vời và chúng tôi yêu đất nước này. Nhưng có lẽ đất nước chúng tôi cũng sẽ có điều gì đó để học hỏi và chúng tôi tin rằng quốc vương chúng tôi sẽ rất vui lòng chu cấp một chuyến đi và ăn ở tại đất nước chúng tôi cho các quý tộc Ai Cập yêu mến và muốn học hỏi phong tục của chúng tôi. Có khi quốc vương chúng tôi sẽ tặng quà cho họ nữa, vì ngài rất thích người Ai Cập và yêu trẻ em. Về chuyện trẻ em, đức vua chúng tôi muốn vợ chúng tôi sinh nhiều con, nhưng những phụ nữ xinh đẹp Ai Cập không cần phải sợ chúng tôi, vì chúng tôi biết ân ái với họ như những người văn minh, không làm cho họ mang thai, và chúng tôi ân ái theo cách của người Ai Cập, giống như ở đây chúng tôi ăn uống theo tập quán Ai Cập đấy.

Cứ thế họ nói rất nhiều điều tốt đẹp với các quý tộc Akhetaton và không ai giấu giếm họ điều gì, nhưng tôi nghĩ họ mang mùi chết chóc đến Akhetaton và tôi nhớ về xứ sở buồn tẻ của họ và những phù thủy bị đóng cọc hai bên đường ở đó. Vì vậy, tôi không buồn khi họ rời Akhetaton.

Thành phố Thiên Đường không còn như xưa mà sự náo nhiệt đã chế ngự người dân nơi đây và chưa bao giờ ở Akhetaton người ta ăn uống, chơi bời và đùa giỡn vô độ như trong thời gian này. Những ngọn đuốc rừng rực từ tối đến sáng trước nhà của giới quyền quý và tiếng nhạc, tiếng nói cười từ trong nhà họ vọng ra không dứt từ sáng đến khuya. Sự cuồng nhiệt cũng lây lan sang đám gia nhân và nô lệ, khiến những người này cũng dám say xỉn, lảo đảo trên đường phố giữa ban ngày chẳng nể nang ai, mà những trận đòn roi cũng không làm họ sợ. Nhưng tất cả những niềm vui này là niềm vui bệnh hoạn, không làm con người ta thỏa mãn, mà như cơn sốt bào mòn, thiêu cháy họ, vì họ muốn vui để có thể quên được tương lai. Một sự im ắng đầy chết chóc đột nhiên bao phủ khắp Akhetaton giữa cơn náo nhiệt, mọi người vui vẻ hát hò và nhậu nhẹt say sưa, đến mức tiếng cười đông cứng lại trong cổ họng và họ sợ hãi nhìn nhau, quên mất những lời định nói. Một mùi tơm tởm, lạ lùng, ngọt lợm không ai biết từ đâu cũng lan đến Akhetaton, và những mùi thơm ngào ngạt đến mấy, hương nhang tốt đến mấy cũng không xua được mùi đó khỏi mũi mọi người. Mùi này ngửi thấy rõ nhất vào sáng sớm và chiều tối khi mặt trời lặn, không bốc lên từ sông hay các ao cá, cũng không phải từ hồ thánh Aton, và mặc dù những cống rãnh đã được khai thông, dọn dẹp nhưng mùi vẫn không bớt đi, nhiều người bảo đó là mùi của tai ương, mùi của Amon.

Một niềm đam mê kỳ lạ cũng cuốn hút các nghệ sĩ, họ vẽ, chạm khắc hăng say hơn bao giờ hết, như thể họ thấy thời gian trôi đi rất nhanh không thể nắm bắt được và họ muốn thể hiện hết tài năng của mình trước khi thời gian ngừng lại. Họ nhiệt thành cường điệu sự thật; các nhát đục và nét cọ của họ bóp méo sự thật thành tranh, tượng biếm họa; họ ganh đua xem ai tạo ra được các hình mẫu ngày càng kỳ quái và phóng đại sự thật hơn, cho đến khi khẳng định mình đã thể hiện được đường nét và chuyển động chỉ bằng một vài nét vẽ. Họ bằng lòng thể hiện giấc mơ và ánh mắt con người bằng một đường cong duy nhất; họ vẽ những bức tranh về Pharaon Ekhnaton khiến người già kinh hãi, cường điệu cái cổ gầy và cặp đùi phù thũng của ngài mặc dù thật ra ở những chỗ ấy không còn gì để thổi phồng. Họ đã vẽ những bức tranh về Pharaon Ekhnaton khiến tôi nghĩ chỉ những người hết sức thù hận ngài mới có thể vẽ như thế. Nhưng họ rất hãnh diện về các bức tranh cũng như các bức tượng của mình, và nói: “Quả thật, tranh và tượng trước đây chưa bao giờ được vẽ và tạc như thế này”.

Nhưng tôi nói với Thotmes bạn tôi:

- Pharaon Ekhnaton đã nhấc anh lên từ cát bụi và cho anh thành bạn của ngài, sao anh lại tạc ngài như thể đang thù hận ngài, và sao anh lại nhổ nước bọt lên giường ngài và làm hoen ố tình bạn của ngài?

- Đừng dí mũi vào những điều anh không hiểu, Sinuhe ạ, - Thotmes vặc lại tôi. - Có thể tôi ghét ông ta, nhưng tôi còn ghét bản thân mình hơn. Cơn sốt sáng tạo đang hừng hực trong tôi và chưa bao giờ đôi tay tôi khéo léo hơn lúc này; có lẽ khi không hài lòng với chính mình và thù hận mình thậm tệ, người nghệ sĩ sáng tạo được những điều lớn lao hơn là khi tự mãn và yêu quý bản thân. Tất cả màu sắc và hình khối tôi tạo ra đều từ chính mình, sự đa dạng tôi tạo ra cũng từ chính mình và tôi khắc mình vào trong mỗi bức tượng đá để sống mãi muôn đời. Vì vậy, không ai có thể bằng tôi, tôi hơn tất cả những người khác, không có quy tắc nào mà tôi không thể phá bỏ, tôi vượt lên mọi chuẩn mực trong nghệ thuật của mình và tôi là thần linh hơn là một con người. Khi tạo ra màu sắc và hình thể, tôi ganh đua với Aton của ông ta và tôi sẽ thắng, bởi vì tất cả những gì Aton tạo ra đều sẽ mất đi, còn những gì tôi sáng tạo ra sẽ còn mãi mãi.

Nhưng bạn tôi nói như thế khi đã uống rượu cả buổi sáng trước đó và tôi đã tha thứ cho anh ấy, vì sự đau khổ hiện rõ trên khuôn mặt anh và từ trong sâu thẳm ánh mắt anh, tôi thấy anh thật bất hạnh.

Tất cả những điều này xảy ra khi mùa màng đã được thu hoạch trên các cánh đồng và nước dâng lên rồi nước lại rút đi. Mùa đông đến kéo theo nạn đói vào đất Ai Cập, khiến không ai còn biết những ngày tới điều bất hạnh gì sẽ xảy ra. Vừa lúc đó, tin đồn lan khắp nơi là Aziru đã mở hầu hết các thành phố Syria cho người Hittite, các chiến xa tấn công của Hittite đã tràn qua sa mạc Sinai và tấn công Tanis, tàn phá các vùng hạ lưu xung quanh Tanis.

❖ 2 ❖

Trong khi những tin này lan rộng, Eje từ Thebes và Horemheb từ Memphis đến Akhetaton để triều kiến Pharaon Ekhnaton xem còn cứu được gì. Là ngự y riêng của ngài, tôi có mặt tại cuộc triều kiến này vì tôi sợ Pharaon sẽ bị kích động và cơn đau của ngài lại tái phát khi phải nghe và chịu đựng những điều tồi tệ. Nhưng Pharaon dè dặt, lãnh đạm đến lạ lùng và hoàn toàn không mất bình tĩnh mà lắng nghe những gì Eje và Horemheb muốn nói.

Giáo sĩ Eje nói với ngài:

- Các kho lương của Pharaon trống rỗng và năm nay xứ Kush đã không đóng thuế như các năm trước, mặc dù thần đã đặt tất cả hy vọng của mình vào đấy. Nạn đói đang hoành hành khắp vương quốc và dân chúng đào rễ các loài cây sống trong bùn để ăn, họ xé vỏ cây ăn quả để ăn, bắt cào cào, bọ cánh cứng và cả ếch để ăn. Đã có nhiều người đã chết và sẽ còn nhiều người hơn nữa, vì ngay cả khi được coi sóc chặt chẽ, kho lương của Pharaon vẫn không đủ cho tất cả mọi người, còn các thương nhân lại bán ngũ cốc với giá quá đắt khiến người nghèo không thể mua được. Dân chúng đang rất lo lắng, sợ hãi và rời bỏ các vùng quê chạy vào thành phố, còn dân các thành phố chạy về các làng quê và ai cũng nói:

“Đây là sự trả thù của Amon và chúng ta phải chịu đựng vì thần mới của Pharaon”. Vì vậy, tâu quốc vương, xin ngài hãy thỏa hiệp với các giáo sĩ và trả lại quyền lực cho Amon để muôn dân có thể cầu nguyện và dâng cúng cho thần này và bình tâm trở lại. Hãy trả lại đất của Amon cho Amon để Amon canh tác, vì người dân không dám gieo trồng trên đất của Amon, còn đất của ngài bị bỏ hoang, bởi người ta nói đó là đất bị nguyền rủa. Xin quốc vương hãy thỏa hiệp ngay với Amon, nếu không thần sẽ rũ bỏ mọi trọng trách và sẽ không gánh chịu các hậu quả.

Còn Horemheb nói:

- Tâu quốc vương, Burraburiash đã mua hòa bình từ người Hittite, Aziru đã quy phục trước áp lực của họ, mở cửa thành phố cho họ vào và liên minh với họ. Binh lính của họ ở Syria nhiều như cát biển, chiến xa của họ nhiều như sao trời và đây là ngày tận thế của Ai Cập, vì họ rất mưu mẹo, chở nước trong các chum và vò vào sa mạc, vì họ không có hải đội. Họ đã chuyển đến sa mạc một lượng nước khổng lồ đựng trong chum, để khi mùa xuân đến, một đội quân lớn nhất cũng có thể hành quân qua hoang mạc mà không sợ chết khát. Phần lớn chum sành này, họ đã mua từ Ai Cập và các thương lái đã bán chum vò rỗng cho họ vì lòng tham. Các chiến xa của Aziru và quân Hittite, vì quá nôn nóng nên đã tiến vào đánh thăm dò tại Tanis và phần đất thuộc Ai Cập, như vậy là phá vỡ hiệp ước hòa bình. Mặc dù những xâm phạm này nhỏ và không gây ra những thiệt hại lớn, nhưng thần đã cho lan truyền trong dân chúng những thông tin về sự xúc phạm ghê gớm này cùng với sự tàn ác vô độ của quân Hittite để dân chúng sẵn sàng cho chiến tranh. Thời gian vẫn còn, Pharaon Ekhnaton. Xin ngài hãy truyền lệnh thổi tù và, giương cao cờ hiệu và tuyên bố chinh phạt. Xin hãy chiêu tập tất cả những ai còn sức cầm vũ khí đến nơi luyện tập; hãy ra lệnh thu gom tất cả đồng trên khắp cả nước để rèn giáo và mũi tên, để quyền lực của ngài sẽ được bảo vệ. Thần sẽ bảo vệ và đem lại cho Ai Cập một cuộc chiến chưa từng có, đánh bại lũ Hittite và lấy lại Syria cho ngài. Thần sẽ làm được tất cả những việc này nếu tất cả quốc khố và lương thảo của Ai Cập được chu cấp cho quân đội của thần. Khi đó cái đói sẽ biến cả một kẻ hèn nhát thành người lính. Amon hay Aton đều như nhau, vì dân chúng sẽ phải quên Amon khi có chiến tranh và trong chiến trận, nỗi lo của họ sẽ bùng phát ra ngoài và chiến thắng vẻ vang sẽ củng cố quyền lực của ngài mạnh hơn trước. Thần hứa với bệ hạ một cuộc chiến thắng lợi, Ekhnaton, bởi vì thần là Horemheb, con trai của chim ưng, được sinh ra để lập những chiến công hiển hách và đây là thời khắc mà thần mong đợi suốt cả đời mình.

Nghe thế, Eje vội vàng nói:

- Đừng tin Horemheb, Pharaon Ekhnaton, con trai yêu quý của ta, vì miệng lưỡi anh ta nói lời dối trá và anh ta thèm khát quyền lực của con. Hãy thỏa hiệp với các giáo sĩ của Amon và tuyên chiến, nhưng đừng bao giờ trao quyền thống lĩnh cho Horemheb mà giao cho một chiến binh già dặn, giàu kinh nghiệm, người đã đọc kỹ binh thư từ trong các bảng viết thời các pharaon vĩ đại và người mà Pharaon có thể hoàn toàn tin tưởng.

Horemheb nói:

- Giáo sĩ Eje, nếu chúng ta không đứng trước Pharaon, tôi sẽ không ngần ngại vả vào cái mồm thối của ông. Ông suy bụng mình ra bụng người và miệng lưỡi ông nói lời dối trá, vì ông đã bí mật thương lượng với các giáo sĩ Amon và thỏa hiệp với họ sau lưng Pharaon. Nhưng thưa quốc vương, thần sẽ không phản lại chàng trai trẻ mà thần đã lấy tấm vải choàng vai của mình đắp cho nơi sa mạc gần Thebes, mà mục đích của thần là sự vĩ đại của Ai Cập và chỉ thần mới có thể bảo vệ được Ai Cập.

Pharaon Ekhnaton hỏi họ:

- Các khanh đã nói hết chưa?

Cả hai cùng đáp:

- Chúng thần đã nói hết.

Lúc đó Pharaon nói:

- Ta phải thức và cầu nguyện trước khi đưa ra quyết định của mình. Nhưng ngày mai, hãy triệu tập muôn dân, tất cả mọi người, những ai yêu mến ta, quan quyền cũng như hạ dân, ông chủ cũng như tôi tớ; hãy triệu cả những phu mỏ trên núi rời nơi ở của họ, vì qua họ ta muốn nói với tất cả thần dân của mình và cho họ biết quyết định của ta.

Họ tuân lệnh ngài và truyền gọi dân chúng tập trung lại vào ngày hôm sau. Eje nghĩ rằng Pharaon sẽ hòa giải với Amon, còn Horemheb tin rằng ngài sẽ tuyên chiến với Aziru và quân Hittite. Nhưng suốt đêm hôm đó, Pharaon đã thức, cầu nguyện và bồn chồn đi đi lại lại trong các sảnh, không ăn uống gì và không nói chuyện với bất kỳ ai, khiến tôi là ngự y rất lo lắng cho ngài. Ngày hôm sau, người ta kiệu ngài ra ngự trước dân chúng và với nét mặt sáng láng và rạng rỡ như mặt trời, ngài giơ tay lên cao và từ trên ngai nói với dân chúng:

- Vì sự yếu đuối của ta mà hiện giờ nạn đói hoành hành tại Ai Cập, vì sự yếu đuối của ta nên kẻ thù đe dọa biên giới vương quốc, và các ngươi phải biết người Hittite đang chuẩn bị tấn công Ai Cập từ Syria và gót chân kẻ thù sẽ sớm giày xéo lên xứ đất đen. Tất cả những điều này đang xảy ra vì sự yếu đuối của ta, vì ta không thật sự hiểu hết ý định của thần mình và không thực hiện ý muốn của ngài. Nhưng bây giờ thần của ta đã hiển linh với ta. Aton đã hiện lên với ta và lẽ phải của ngài đang bùng cháy trong trái tim ta, nên ta không còn yếu đuối và ta không do dự nữa. Ta đã lật đổ thần giả, nhưng vì sự yếu đuối của mình, ta đã để tất cả các thần khác của Ai Cập cai trị cùng với vị thần duy nhất Aton và bóng của những thần ấy đã phủ kín Ai Cập. Vì vậy ngày hôm nay, hãy hạ bệ tất cả những thần cổ xưa của xứ Kemet và hãy để hào quang của Aton là ánh sáng duy nhất cai trị Kemet. Ngày hôm nay, hãy hạ bệ tất cả các thần cũ để vương quốc Aton được khai sinh trên mặt đất.

Dân chúng bắt đầu ầm ào rộ lên kinh hoàng khi nghe những lời này của Pharaon, nhiều người giơ tay cao, nhiều người quỳ mọp xuống đất trước mặt ngài. Nhưng Pharaon Ekhnaton đã cao giọng và tiếp tục nói to hơn:

- Này các ngươi, những kẻ yêu quý ta, hãy đi đi và hạ bệ tất cả các vị thần cũ của xứ Kemet, hãy dỡ bỏ bàn thờ, đập vỡ tượng thần, đổ nước thánh của họ xuống đất, dỡ bỏ đền thờ họ, tẩy xóa tên họ khỏi tất cả bia ký; hãy vào tất cả hầm mộ đục xóa hết tên họ để bảo vệ Ai Cập. Hỡi các triều thần, hãy cầm chùy trong tay; hỡi các nghệ sĩ, hãy đổi đục lấy rìu; hỡi những người thợ xây, hãy cầm lấy búa của mình và đi đến tất cả các vùng đất, tất cả các thành phố và làng mạc lật đổ các vị thần cũ và xóa tên của họ. Như thế, ta sẽ xóa bỏ quyền lực của quỷ dữ khỏi Ai Cập.

Lúc đó, rất nhiều người quá hoảng sợ đã bỏ chạy khỏi quảng trường trước Pharaon, nhưng ngài đã hít một hơi thật sâu, mặt đỏ bừng cuồng nhiệt, và tiếp tục gào lên:

- Từ hôm nay, vương quốc Aton ngự trị trên mặt đất, vậy nên sẽ không còn nô lệ và quý tộc, ông chủ và người hầu, mà tất cả sẽ bình đẳng và tự do trước Aton, không ai bị bắt phải gieo trồng trên đất của người khác và không ai bị buộc phải quay cối đá của người khác, mà ai cũng được tự do đi và đến theo ý muốn của mình. Pharaon đã ban truyền!

Dân chúng không còn ầm ào nữa mà đứng câm lặng và nhìn ngài chằm chằm. Một sự câm lặng chết chóc bao trùm Akhetaton và tôi ngửi thấy mùi tử thần trong mũi mình. Nhưng khi họ chằm chằm nhìn Pharaon Ekhnaton, hình ảnh ngài lớn dần trong mắt họ và sự phấn khích, rạng rỡ trên mặt ngài làm họ lóa mắt; sức mạnh của ngài truyền sang mọi người, khiến họ bắt đầu gào hét đầy hứng khởi và nói với nhau: “Điều này trước đây chưa bao giờ xảy ra, nhưng chắc chắn thần của ngài đã nói qua ngài và chúng ta phải vâng lời ngài”.

Thế là dân chúng tản đi trong kích động và tranh cãi với nhau, bắt đầu đánh đấm nhau và những người trung thành với Pharaon đã đánh chết những người già cả dám chống lại ngài ở các góc phố của Akhetaton.

Khi dân chúng tản đi hết, giáo sĩ Eje mới nói với Pharaon:

- Ekhnaton, hãy vứt ngay vương miện và bẻ gãy trượng trong tay đi, vì những lời người nói đã lật đổ ngai vàng.

Pharaon Ekhnaton nói với ông ta:

- Những lời ta nói đã làm tên ta trở thành bất tử và quyền lực của ta trường tồn trong trái tim mọi người.

Eje xoa tay và nhổ nước bọt xuống đất trước mặt Pharaon, rồi lấy chân di đám nước bọt xuống cát và nói:

- Nếu vậy, ta sẽ rũ bỏ mọi trách nhiệm và làm theo cách ta nghĩ là tốt nhất vì trước kẻ điên, ta không có nghĩa vụ phải biện bác cho những việc làm của mình.

Ông ta định đi, nhưng Horemheb đã tóm lấy cánh tay và gáy ông ta, dễ dàng giữ ông ta lại, mặc dù ông ta là một người đàn ông to khỏe. Horemheb nói:

- Eje, ngài là quốc vương của ông, ông phải tuân lệnh, Eje ạ! Chớ có phản lại ngài, vì nếu ông làm vậy chắc chắn tôi sẽ đến và đâm dao lút bụng ông, dù tôi phải dùng tiền của mình chiêu mộ quân lính cho mình để làm điều đó. Điều này tôi đã từng nói và tôi thường không nói dối. Đúng là ngài ấy quá điên và tôi không tin sự điên rồ này sẽ đem đến điều gì tốt đẹp, nhưng tôi vẫn yêu quý quốc vương cả trong sự điên rồ của ngài; tôi sẽ trung thành đứng bên ngài, bởi vì tôi đã tuyên thệ trước ngài và đã một lần lấy tấm choàng vai đắp cho ngài khi ngài ốm yếu. Cũng có chút khôn ngoan trong sự điên rồ ấy của ngài, vì nếu ngài chỉ lật đổ tất cả thần linh cũ, nội chiến sẽ xảy ra, nhưng bằng cách giải phóng nô lệ ở các cối xay và trên các cánh đồng, ngài sẽ xáo trộn những hỗn loạn do giáo sĩ gây ra và kéo dân chúng về phía mình, mặc dù hậu quả của những việc này là hỗn loạn hơn trước. Với tôi, dĩ nhiên, mọi việc đều như nhau, nhưng chúng ta phải làm gì với quân Hittite, Pharaon Ekhnaton?

Pharaon Ekhnaton ngồi buông thõng tay trên đầu gối, không trả lời. Horemheb nói tiếp:

- Xin quốc vương hãy cấp cho hạ thần vàng và lương thảo, vũ khí, chiến xa và ngựa, quyền chiêu mộ binh lính và quyền chiêu tập lính canh từ tất cả các thành phố ở miền Hạ, thần tin rằng thần sẽ đẩy lùi cuộc tấn công của quân Hittite.

Lúc đó, Pharaon ngước đôi mắt đỏ hoe trên khuôn mặt đã tắt ngấm mọi cuồng tín mê say và nói nhỏ:

- Horemheb, ta cấm ngươi tuyên chiến. Nhưng nếu dân chúng muốn bảo vệ xứ đất đen, ta không thể ngăn cản. Ta không có lương ăn và vàng, nói chi đến vũ khí để cấp cho ngươi; mà nếu có, ta cũng không cấp, vì ta không muốn lấy cái ác chống lại cái ác. Ngươi có thể cho quân phòng thủ ở Tanis theo cách ngươi muốn, nhưng đừng để máu chảy, đầu rơi và chỉ tự vệ nếu ngươi bị tấn công.

- Được, sẽ như ý ngài. - Horemheb nói. - Đều là rác rưởi cả. Tôi sẽ chết ở Tanis theo lệnh ngài, vì ngay cả đội quân dũng cảm nhất và thiện chiến nhất cũng không thể phòng thủ được lâu nếu không có lương thảo và vàng. Nhưng tôi bỏ qua mọi do dự, thưa Pharaon Ekhnaton, và tôi sẽ phòng thủ theo cách của mình. Xin ngài bảo trọng!

Anh ta bỏ đi và Eje cũng rời đi, chỉ còn tôi ở lại với Pharaon Ekhnaton. Ngài nhìn tôi với đôi mắt mệt mỏi khôn tả và nói:

- Nói xong ta kiệt sức, Sinuhe ạ, nhưng ta vẫn thấy hạnh phúc dù mệt mỏi. Ngươi định làm gì, Sinuhe?

Những lời Pharaon nói khiến tôi hoảng sợ, nên tôi kinh ngạc nhìn ngài. Ngài mệt mỏi cười và hỏi:

- Ngươi có yêu quý ta không, Sinuhe?

Khi tôi thừa nhận rằng tôi yêu quý ngài, bất kể ngài điên khùng đến độ nào, Pharaon nói:

- Sinuhe, nếu yêu quý ta, ngươi biết rất rõ ngươi phải làm gì. Lý trí tôi phản đối ý định của ngài, dù trong thâm tâm tôi biết rõ ngài muốn tôi làm gì. Cuối cùng, tôi cáu kỉnh nói:

- Thần nghĩ ngài cần thần như cần một ngự y, còn nếu không, thần sẽ ra đi. Nhưng thần là một kẻ đập phá tượng tồi, cánh tay thần quá yếu để cầm búa, song hãy để ý muốn của ngài thành hiện thực. Dân chúng chắc chắn sẽ xé toạc da thần, lấy đá đập nát óc thần và treo ngược xác thần lên tường, nhưng điều đó sẽ khó làm ngài cảm động. Vì vậy, thần sẽ đi Thebes vì ở đó có rất nhiều đền và mọi người biết thần.

Pharaon không trả lời tôi thêm bất cứ điều gì và tôi tức giận bỏ đi, vì theo tôi những điều này quả là điên rồ nhất. Ngài ngồi lại một mình trên ngai vàng, còn tôi đến gặp Thotmes vì tôi cần trút bỏ nỗi lòng với một người bạn. Horemheb ngồi trong xưởng của Thotmes và một họa sĩ già nát rượu tên là Bek đang uống rượu cùng với họ, còn những người hầu của Thotmes đang gói buộc đồ đạc để chuẩn bị cho chuyến đi của anh ấy.

- Nhân danh Aton, - Thotmes nói, nâng cao cốc vàng của mình. - Không còn người giàu sang hay kẻ thấp hèn, nô lệ hay ông chủ, và tôi, người có đôi bàn tay thổi hồn cho đá, sẽ đi phá bỏ những bức tượng thần xấu xí. Vì vậy, chúng ta hãy uống cùng nhau, hỡi các bạn thân mến, vì tôi nghĩ rằng cuộc sống của chúng ta chỉ còn dăm ba ngày nữa thôi.

Chúng tôi cùng uống và Bek bảo:

- Ngài đã nâng tôi từ bùn đen lên ngang hàng mình và nói tôi là bạn ngài, mỗi khi tôi bán hết cả áo quần để có tiền uống, ngài lại cho tôi quần áo mới, lẽ nào tôi không làm việc này để ngài vui lòng. Tôi chỉ mong cái chết không đau đớn lắm, vì ở làng tôi, những người nông dân đều ác độc và có thói quen đáng buồn là khi tức giận vung liềm lên, dùng nó rạch bụng những kẻ không ưa họ.

Horemheb nói:

- Tôi thật tình không ghen tị với các ông, dù tôi có thể cam đoan rằng quân Hittite có nhiều cách giết người ghê tởm hơn nhiều. Dù sao tôi cũng sẽ tuyên chiến với quân Hittite và đẩy lùi chúng, vì tôi rất tin vào vận may của mình. Một lần trong hoang mạc ở Sinai, tôi đã thấy một bụi cây cháy mà không tàn đi và từ đó tôi biết mình sinh ra để làm những việc lớn. Tuy nhiên, làm việc lớn mà tay không thì thật khó, nhưng quân lính của tôi có lẽ sẽ khiến quân Hittite kinh hồn bằng cách ném cứt vào chúng.

Tôi chêm vào:

- Nhân danh Seth và tất cả ác quỷ, hãy nói cho tôi biết tại sao chúng ta yêu quý và nghe lời ngài, mặc dù chúng ta biết ngài điên và những lời ngài nói là điên rồ. Hãy giải thích điều này cho tôi, nếu các anh biết.

- Ông ấy chẳng ảnh hưởng gì đến tôi, - Bek nói. - Nhưng tôi là một gã già nát rượu và cái chết của tôi không gây hại cho bất cứ ai, vì thế tôi làm ông ấy hài lòng và trả giá bằng tất cả những năm tháng say xỉn mà tôi đã trải qua bên cạnh ông ấy.

- Tôi không hề yêu quý ông ta, mà đúng ra là ghét, - Thotmes gay gắt nói. - Chính vì thế tôi đi và làm theo các mệnh lệnh của ông ta, vì tôi căm thù ông ta và muốn ông ta biến thật nhanh. Quả thực, tôi quá ngán ngẩm với tất cả và tôi hy vọng cái chết sẽ đến thật nhanh.

Nhưng Horemheb lại nói:

- Các cậu nói dối, mấy con lợn kia. Hãy thừa nhận đi, rằng khi ngài nhìn vào mắt các cậu, cột sống bẩn thỉu của các cậu bắt đầu run lên và các cậu muốn mình lại là trẻ thơ, chơi đùa với những chú cừu non trên cánh đồng. Tôi là người duy nhất mà ánh mắt ngài không tác động đến, nhưng số phận của tôi gắn liền với số phận ngài theo cách khác và tôi phải thừa nhận rằng tôi yêu ngài, mặc dù ngài hành xử như một mụ đàn bà ẩm ương và có giọng nói chói tai.

Như thế, chúng tôi vừa nói chuyện vừa cùng nhau uống rượu, ngắm nhìn những con thuyền căng buồm xuôi, ngược sông và rất nhiều người rời bỏ Akhetaton. Nhiều người quyền quý, giàu sang bỏ chạy với những đồ đạc quý nhất của họ, nhưng cũng nhiều người đi phá tượng các vị thần Ai Cập theo lệnh của Pharaon, vừa đi vừa hát thánh ca ca tụng Aton. Tôi nghĩ họ sẽ không hát được lâu nữa mà bài ca sẽ nghẹn lại trong cổ họng khi họ đối mặt với những người dân đang giận dữ trong các đền thờ. Chúng tôi uống rượu cả ngày, nhưng rượu không làm chúng tôi vui vì tương lai như một cái hố đen ngòm trước mặt và câu chuyện của chúng tôi càng lúc càng đượm vị đắng cay.

Hôm sau, Horemheb lên thuyền trở lại Memphis và từ đó đến Tanis. Trước khi anh ấy đi, tôi hứa sẽ cho anh ấy vay thật nhiều vàng mà tôi có thể lấy được từ Thebes và sẽ gửi cho anh một nửa số lúa mạch mà tôi có, nửa còn lại tôi định để dùng cho mục đích riêng của mình. Có lẽ đây đúng là sai lầm do sự yếu đuối của tôi gây ra và nó quyết định cuộc đời tôi: Tôi đã phân ra hai nửa, một cho Ekhnaton và một cho Horemheb, mà không đưa cho riêng ai tất cả.

❖ 3 ❖

Thotmes và tôi đi Thebes. Còn cách Thebes rất xa, chúng tôi đã thấy những cái xác lập lờ trôi về phía mình. Những cái xác trương phồng, nổi lềnh bềnh, trôi xuôi và chúng tôi thấy trong số đó có những cái đầu cạo trọc của giới giáo sĩ, những thi thể quý tộc và bình dân, lính canh và nô lệ; từ tóc tai, quần áo và nước da, có thể phân biệt được những cái xác này đã từng là ai trong cuộc đời cho đến khi chúng đen sậm lại và phân hủy hay bị cá sấu nuốt trọn. Cá sấu không cần phải bơi ngược sông lên Thebes để ăn được thịt người, mà khắp các thị trấn và làng mạc ven sông, nhiều người chết trong những ngày này, xác bị ném xuống sông khiến bầy cá sấu trở nên kén chọn khi lựa tìm thức ăn. Cá sấu là một loài cá khôn ngoan, thích ăn thịt mềm của đàn bà, trẻ em và xác béo mẫm của những người quyền quý hơn là thịt dai nhằng của nô lệ và phu khuân vác. Nếu cá sấu có trí khôn, điều này là chắc chắn, tôi nghĩ chúng đã ca tụng Aton rất nhiều trong những ngày này.

Cả dòng sông dậy mùi chết chóc và gió thổi mùi khói khen khét từ Thebes xộc vào mũi chúng tôi trong màn đêm. Thotmes nhạo báng nói:

- Có vẻ như vương quốc Aton đã thực sự đến trên mặt đất rồi.

Nhưng trái tim yếu đuối của tôi đã trơ lỳ ra và tôi nói:

- Thotmes, điều thế này trước đây chưa từng xảy ra và thế giới sẽ không bao giờ có được cơ hội như thế này nữa, nướng bánh mà không xay hạt. Hiện giờ cối xay của Aton đang nghiền ngũ cốc, chúng ta hãy lấy bột nướng bánh vì Pharaon Ekhnaton, bởi chắc chắn thế giới đang thay đổi và cuối cùng trước Aton tất cả mọi người đều là anh em.

Nhưng Thotmes uống rượu để xua mùi tử thần ra khỏi mũi và nói:

- Tha lỗi cho tôi nếu tôi lấy rượu để kìm nén sự yếu đuối của mình, vì thành thật mà nói tôi đang rất sợ và đầu gối tôi như nhũn thành nước khi nghĩ rồi đây chúng ta sẽ phải chứng kiến những gì. Vì thế trong những lúc như thế này, đơn giản nhất là uống đến say mèm, vì khi say con người ta không nghĩ quá nhiều về cả sự sống lẫn cái chết và trong mắt anh ta, con người và thần linh trở nên bình đẳng như nhau.

Khi chúng tôi đến Thebes, nhiều nơi trong thành phố đang cháy, nhiều ngọn lửa cũng bốc lên từ thành phố chết khi dân chúng đào mộ và đốt thi thể đã ướp của các giáo sĩ. Từ trên tường thành, người ta bắn tên vào thuyền chúng tôi mà không ai thèm hỏi chúng tôi đang tìm gì, và khi cập bờ, chúng tôi thấy những người cuồng tín phe thánh giá đang đẩy những người theo phe sừng xuống nước và dùng cọc đâm, chọc cho đến khi họ sặc nước chết. Vậy nên chúng tôi đoán các vị thần cũ đã bị lật đổ và Aton đã chiến thắng.

Chúng tôi đến quán Đuôi Cá Sấu và gặp Kaptah ở đó. Ông ấy đã cởi quần áo đắt tiền, bôi bùn lên tóc và mặc lên người bộ đồ xám tồi tàn. Ông ấy cũng đã tháo miếng vàng che con mắt mù và sốt sắng cho những kẻ nô lệ rách rưới và phu khuân vác có vũ khí nốc rượu thoải mái rồi nói với họ:

- Hỡi những người anh em, hãy vui chơi và ăn mừng, vì hôm nay là ngày hội lớn, không còn ông chủ hay nô lệ, người quyền quý hay kẻ thấp hèn, mà tất cả mọi người đều được tự do đi và đến. Do đó, hôm nay hãy uống rượu tôi khoản đãi và tôi hy vọng anh em sẽ nhớ đến quán của tôi khi vận may mỉm cười với anh em, mỗi khi vớ được bạc hoặc vàng trong các đền thờ thần giả hay từ nhà của những tên chủ độc ác. Bởi tôi cũng là nô lệ như anh em, sinh ra là kiếp nô lệ và lớn lên cũng là nô lệ; một mắt của tôi, bị lão chủ độc ác dùng bút gỗ chọc mù, là bằng chứng cho điều đó; lão ta tức giận vì tôi đã uống cạn một hũ bia của lão và đổ đầy nước vào đó. Những bất công như vậy sẽ không bao giờ xảy ra nữa, sẽ không ai phải nếm gậy chỉ vì là nô lệ, cũng không ai phải làm việc tay chân chỉ vì là nô lệ, mà tất cả đều được vui chơi và hưởng thụ, chạy nhảy và giải trí, bao lâu tùy thích.

Huyên thiên xong những điều này, ông ấy mới nhận ra tôi với Thotmes và hơi xấu hổ về lời nói của mình, ông vội vã dẫn chúng tôi vào một phòng kín và nói:

- Tốt nhất là các ông khoác những bộ quần áo rẻ tiền hơn lên người và lấy bùn bôi bẩn tay và mặt mình, vì nô lệ và cửu vạn đang đi trên khắp các đường phố ngợi ca Aton, nhân danh Aton dùng gậy đánh tất cả những người mà họ cho là quá béo và không lao động chân tay. Nhưng họ đã tha thứ cho sự phì nộn của tôi, bởi trước đây tôi đã từng là nô lệ và đã phát lúa mạch cho họ, giờ lại cho họ uống rượu không phải trả tiền. Nhưng hãy cho tôi biết điều xui xẻo nào đưa các ông đến Thebes vào đúng lúc này, vì Thebes là một thành phố đáng sợ với giới quyền quý trong những ngày này.

Chúng tôi cho ông ấy xem rìu và búa tạ của chúng tôi và nói chúng tôi đến phá bỏ tượng của các thần giả và đục xóa tên thần khỏi tất cả các dòng chữ khắc chạm. Kaptah gật đầu tỏ vẻ khôn ngoan và nói:

- Kế hoạch của các ông nghe có lẽ khôn đấy và được lòng dân chúng, miễn là các ông cẩn thận để người dân không biết các ông là ai, vì nhiều thay đổi có thể xảy ra và lũ sừng sẽ trả thù các ông nếu chúng giành lại quyền lực. Tôi không tin cuộc sống này có thể kéo dài, vì người nô lệ lấy ngũ cốc từ đâu để sống và trong khi nổi loạn, họ đã làm những việc khiến nhiều người trước kia theo phe thánh giá phải do dự và chuyển sang phe sừng để lập lại trật tự. Tuy nhiên, sắc lệnh giải phóng nô lệ của Pharaon Ekhnaton là rất sáng suốt và có tầm nhìn xa, vì như thế tôi có thể đuổi tất cả nô lệ không biết việc và già nua của tôi đi để khỏi tốn lương ăn và dầu rán đắt đỏ. Tôi không còn phải nuôi và lo chỗ ở cho nô lệ với phí tổn cao nhất, mà chỉ cần thuê họ làm việc bất cứ khi nào tôi muốn, trả công cho họ theo ý mình và đuổi họ đi khi không cần nữa. Vì tất cả những điều này, tôi hết lời ca ngợi Pharaon Ekhnaton về sự thông thái của ngài và tôi nghĩ những người khác cũng sẽ ngợi ca ngài một khi đã chịu khó ngẫm nghĩ về vấn đề và hiểu ra quyền lợi của mình.

Tôi nói với ông ấy:

- Kaptah, về ngũ cốc, hãy nhớ là ta đã hứa dành cho Horemheb một nửa lúa mạch của chúng ta để anh ta có thể tuyên chiến với quân Hittite và ngươi phải nhanh chóng cho thuyền chở số này đến Tanis. Nửa còn lại, ngươi cho xay thành bột, làm bánh và phát cho những ai đang đói khát trong tất cả các thị trấn và làng mạc mà ngươi trữ ngũ cốc của chúng ta. Khi phát bánh cho dân chúng, tôi tớ của ngươi không được nhận tiền mà phải nói: “Đây là bánh của Aton, hãy nhận lấy và nhân danh Aton cầu nguyện cho Pharaon Ekhnaton và thần của ngài”.

Nghe thế, Kaptah giật xé quần áo của mình, vì đó chỉ là quần áo của nô lệ và xé nó không thiệt hại gì lớn, rồi ông ấy lấy tay giật tóc khiến bùn khô bay mù và kêu van thảm thiết:

- Việc đó sẽ khiến ông trở nên nghèo khổ, thưa ông chủ, và sau này tôi sẽ kiếm tiền từ đâu được. Sự điên rồ của Pharaon đã nhiễm sang ông và ông đang đi giật lùi bằng đầu mình. Ôi, tội nghiệp thân tôi khi buộc phải thấy cả cái ngày mà đến cả bọ hung cũng không thể giúp chúng ta nữa, vì sẽ không ai cầu phúc cho ông về việc phát chẩn bánh và gã Horemheb đáng nguyền rủa đó sẽ rất trơ tráo đáp lại những cái thư đòi nợ của tôi và bảo tôi đích thân đến chỗ hắn nhận lại số vàng mà tôi đã cho hắn vay nhân danh ông. Hắn ta còn tệ hơn một tên cướp, gã Horemheb bạn của ông ấy, vì kẻ cướp sẽ chỉ lấy những gì hắn muốn lấy, còn Horemheb hứa sẽ trả lãi cho những gì gã lấy, làm các chủ nợ điên lên bằng hy vọng viển vông để rồi họ vỡ mật vì tức giận. Nhưng ông chủ ơi, từ ánh mắt của ông, tôi thấy ông không đùa và vì vậy lời kêu ca của tôi chẳng ích gì, mà tôi phải làm theo ý ông, mặc dù điều đó sẽ làm ông nghèo đi.

Chúng tôi bỏ Kaptah lại cho ông ấy gạ gẫm nô lệ và cò kè mặc cả các đồ vật quý giá mà cửu vạn trộm được từ đền ở phòng phía sau quán. Tất cả những ai thật thà, lương thiện đều đóng chặt cửa, ở lại trong nhà; đường phố vắng tanh, một vài ngôi đền mà các giáo sĩ ẩn trốn đã bị đốt và đang cháy. Chúng tôi vào những ngôi đền đã bị cướp phá để đục xóa tên các vị thần khỏi những dòng chữ khắc và gặp những người trung thành khác của Pharaon cũng đang làm việc đó. Chúng tôi quai mạnh búa tạ và đập búa tay, hăng đến nỗi lửa bắn ra từ đá. Bằng cách này, chúng tôi cố thuyết phục bản thân rằng mình đang làm một việc quan trọng, rằng những nhát búa sẽ giúp chúng tôi mở ra một kỷ nguyên mới cho Ai Cập, nên chúng tôi đập búa không ngừng, cổ tay tê cứng, lòng bàn tay bong rát. Chúng tôi làm công việc đó hết ngày này sang ngày khác không kịp nghỉ, không cả ăn, không cả ngủ vì nơi cần đập phá nhiều vô kể và đôi khi những người ngoan đạo bị các giáo sĩ xúi giục xông đến quấy nhiễu công việc của chúng tôi, ném đá vào chúng tôi, lấy gậy đe dọa chúng tôi, nhưng chúng tôi đã vung búa đuổi họ đi và trong cơn cuồng nhiệt, Thotmes đã dùng búa bổ đôi đầu một tư tế già nhất quyết bảo vệ thần của ông ta. Vì sự cuồng si mỗi ngày một dâng cao, chúng tôi cắm cúi làm để có thể nhắm mắt trước tất cả mọi việc đang diễn ra xung quanh mình.

Dân chúng bị đói khát, thiếu thốn và các nô lệ và cửu vạn, sau thời gian mừng vui cho tự do của mình, đóng những cây gậy xanh, gậy đỏ ở bến cảng và lập những đội quân tự vệ riêng, đi cướp nhà của phe sừng và những người giàu có để lấy lương thực, dầu ăn và những đồ đạc quý của những người này phát cho dân chúng mà lính canh của Pharaon không thể ngăn cản. Thật ra, Kaptah có thuê người xay đại mạch và nướng bánh, nhưng người dân đã giật ngay bánh từ những đầy tớ này và nói: “Bánh này là bánh cướp của người nghèo, vì thế phát cho người nghèo là đúng”. Không ai cầu phúc cho tôi vì tôi đã sai phát đại mạch cho họ mà vì việc này tôi đã làm mình khánh kiệt chỉ trong một tuần trăng.

Bốn mươi ngày, bốn mươi đêm đã trôi qua như thế, sự hỗn loạn ngày càng gia tăng ở Thebes, những người trước đây chỉ ngồi cân vàng giờ đứng ăn xin ở các góc phố, còn những người vợ của họ bán khuyên vòng, trang sức cho đám nô lệ để có thể mua bánh mì cho con cái họ. Rồi một đêm Kaptah đến nhà tôi và nói:

- Ông chủ ơi, đã đến lúc ông phải trốn đi vì vương quốc Aton sắp sụp đổ hoàn toàn rồi và tôi nghĩ không người lương thiện nào sẽ tiếc nuối khi điều đó xảy ra. Luật pháp và trật tự sẽ được lập lại nhưng trước tiên người ta sẽ cho cá sấu ăn và cho ăn nhiều hơn bao giờ hết, vì các giáo sĩ muốn tẩy sạch dòng máu ác quỷ khỏi Ai Cập.

- Sao ngươi biết? - Tôi hỏi ông ấy.

Ông ấy thản nhiên đáp:

- Chẳng phải tôi luôn là một người theo phái sừng trung thành và đã bí mật cầu nguyện cho Amon đó sao? Tôi cũng đã cho các giáo sĩ vay nhiều vàng, vì họ sẽ trả lãi một phần tư, có khi đến một nửa và cầm đất của Amon lấy vàng. Eje đã thỏa hiệp với các giáo sĩ để cứu mạng sống của mình và các giáo sĩ đã lôi kéo được nửa số vệ binh đứng về phía họ. Tất cả những người giàu có và giới quý tộc của Ai Cập cũng đã quy tụ dưới bóng Amon, các giáo sĩ đã cho gọi người da đen từ xứ Kush đến, chiêu mộ lính Shardana đến nay vẫn đang cướp bóc các làng quê về đánh thuê cho họ. Thật vậy, ông chủ Sinuhe ơi, không lâu nữa đâu, cối xay sẽ bắt đầu quay và đại mạch sẽ được xay, nhưng bánh nướng từ bột đại mạch ấy là công của Amon, vì tôi đã quá vất vả với sự hỗn loạn này mặc dù nó đã khiến tôi trở nên rất giàu có.

Tôi vô cùng sửng sốt trước những lời ông ấy nói và hét lên:

- Pharaon Ekhnaton sẽ không bao giờ chuẩn thuận việc ấy.

Nhưng Kaptah vừa cười ranh mãnh vừa chà ngón trỏ lên con mắt mù và nói:

- Họ không còn xin phép Pharaon nữa. Thành phố Akhetaton đã bị nguyền rủa và bất cứ ai còn ở lại đó đều chết dần chết mòn. Khi giành được quyền lực về tay mình, họ sẽ chặn tất cả các con đường dẫn đến đó; họ cũng chặn cả sông, khiến bất cứ ai ở lại đó đều sẽ chết đói. Ông thấy đấy, họ sẽ buộc Pharaon trở lại Thebes và cúi đầu thờ phụng Amon.

Lúc ấy mọi suy nghĩ của tôi sáng rõ hơn và tôi thấy trước mắt mình khuôn mặt của Pharaon Ekhnaton với đôi mắt phản chiếu nỗi thất vọng còn đau đớn hơn cả cái chết. Vì thế tôi nói:

- Kaptah, điều nhục nhã này không bao giờ được xảy ra. Ta và ngươi đã cùng nhau đi qua nhiều con đường, vì vậy, Kaptah, chúng ta hãy cùng nhau đi hết con ?