← Quay lại trang sách

THẤY CẢNH NHỚ NGƯỜI

Liên ơi! Phải Liên đó không?

Mấy ngày rày, nhìn kỹ cái khuôn mặt ấy, cái dáng đi ấy, cai bàn tay ấy nhưng tôi còn nghi ngờ, chưa dám quả quyết rằng cô gái bán hàng gọi là Liên này chính là Liên ở miệt Bình Thủy ngày trước. Biết đâu người lại giống người, tên lại trùng tên! Trong số có một trăm phụ nữ, rất dễ mà có bốn người mang cái tên thơ mộng là Liên (hoặc trong tờ khai sanh ghi sẵn, hoặc tự mình sửa lại cho hợp với trào lưu mới).

Còn về dung nhan thì đôi chân mày đẹp, làn môi đẹp, mái tóc đẹp của người phụ nữ ngày nay dường như đã thành công thức, thành qui chế chặt chẽ như luật giao thông đi đường, như danh từ trong tự điển. Kỹ thuật trang điểm đã trở thành khoa ảo thuật, hóa trang. Nói vậy không phải là tôi công kích Liên đâu! Ngoài đường - Lắm khi ở trong nhà và trong tâm tư - chúng ta ít nhiều là nhưng đào kép bất đắc dĩ thủ những vai Lữ Bố, Nguyệt Nga, Điêu Thuyền, Tào Tháo hoặc Lan và Điệp, Sạc-Lô, Tạc Dăng... trên cái hí trường bao la mà tạo hóa là tay đạo diễn nghiêm khắc.

Đã bẩy hôm rồi, cứ chiều chiều lại nhớ chiều chiều, là đôi chân của tôi cảm thấy ngứa ngáy, bầu trời như chuyển mưa u ám nếu tôi không được ngồi uống giải khát tại cái quán mà Liên là chiêu đãi viên. Thế nào tôi cũng phải đến. Đến để ngồi đó mà nhìn. Ngồi đó mà nhìn rồi chập sau trơ trẽn ra đi, như con cóc trong bài thơ khôi hài bất hủ. Con tim và ký ức của tôi điều khiển việc ấy. Tôi đóng vụng về vai trò của một "thám tử tình cảm" để dò xét những phản ứng của Liên khi Liên đối diện với tôi. Nhưng Liên vô tình quá, suốt buổi chị cười cười với tôi, thỉnh thoảng lại cám ơn, xin lỗi, vân vân... Với tất cả mọi người. Liên đã thận trọng san sẻ tình cảm xã giao, tùy trường hợp, như một nữ y tá lành nghề cầm ống bôm mà đếm từng nhểu sinh tố nhân tạo, mặc dầu cái quán này bán nước ép trai cây thứ thiệt.

Mới hồi tối hôm qua, tôi bước ra về, chán nản như mọi khi. Trong quán, Liên bỗng cười lớn với bạn:

- Cam mùa này sao mà chai cóng, ít nước. Khách hàng uống không vừa ý mà họ không muốn nói ra.

- Tại sao không nhiều nước? Cam thất mùa? Cam rụng chín héo?

Giọng của Liên chậm rãi:

- Đó là một lẽ. Nhưng cái chính là tại thiếu kiến vàng... như trái cam này đây, dưới đít héo queo, xù xì, kiến hôi đẻ trứng lấm tấm đen...

Trồng cam thì phải nuôi kiến vàng để nó đuổi kiến hôi. Hồi đó ở Bình Thủy, tôi ra vườn bắt kiến vàng rồi giỡn với kiến vàng hoài...

Tôi mừng quýnh. Rõ ràng đây chính là nàng Liên bé bỏng năm xưa. Tôi giả bộ đứng lại mua thuốc hút, nghe Liên nói tiếp:

- Kiến vàng đái nước đái... làm cho trái cam ngọt.

Cô bạn lên tiếng:

- Tốp bớt lại, muốn cho quán mình ế luôn sao chớ? Cái gì mà nước đái. Ghê quá, sao dám uống...

Đêm về nằm trên gác trọ, tôi không ngủ được, nghe hình ảnh của tuổi trẻ thơ mộng sống dậy trong tâm hồn khô cằn. "Hồi đó, tôi bắt kiến vàng rồi giỡn với kiến vàng hoài". Câu nói hồn nhiên của Liên nhắc lại bao nhiêu chuyện cũ. Ờ! Năm đó, 1943 thì phải, tôi đi học ở Cần-Thơ, lần đầu tiên bước chân đến một miền quanh năm nước ngọt. Người bạn học rũ tôi về Bình Thủy thăm vườn ngày chủ nhật để ngắm dòng nước lình bình... như sông Hương đang soi bóng dáng đen ngòm của màn lá cam hai bên bờ. Thỉnh thoảng nắng lấp lánh chóa lên có lẽ vì sắc lá cam xanh đậm nhưng sáng chói...

Bước ra vườn, tôi thất vọng. Hàng trăm con vật gì bò chạy nhột nhạt trên tóc, sau ót, chui vào cổ áo mà cắn đau điếng. Tôi giậm chân, nhảy nhổm: Thì ra nãy giờ bao nhiêu kiến vàng lìa ổ xúm lại tấn công tôi, châm chích tận trong lưng quần, trong giày, trong vớ.

Tôi chạy hoảng vào nhà. Bạn tôi cười mà nói:

- Phải thận trọng từng bước. Ở đây cần săn sóc cây trái người ta mới ra vườn, không ai ra đó chơi hoặc nằm đọc sách, hóng mát. Có kiến vàng nhiều như vậy, cam mới ngọt.

Tôi sực nhớ một bài văn của A. Daudet rồi cãi lại:

- Bên Tây, bên Phi Châu không nghe nói tới chuyện kiến vàng. Họ trồng cam còn nhiều hơn xứ mình. Có lẽ người mình nuôi kiến vàng theo tục lệ dị đoan...

Bạn tôi không đồng ý và trưa hôm ấy dắt tôi qua nhà ông hương giáo kế bên:

- Muốn hiểu tục lệ dị đoan đó thì giỏi mà cãi vòi ông già này này...

Ông hương giáo chưa già cho lắm, đầu để búi tóc, móng tay hớt ngắn, đang săm soi lật qua lật lại mấy trang sách chữ nhỏ. Ông nhướng mắt, gỡ mục kỉnh ra rồi gật đầu như nể lời bạn tôi:

- Ồ! Cháu muốn coi vườn cam cho biết hả? Ra đó mà coi, ai rầy la gì mà sợ. Muốn hỏi điều gì thì phải coi trước cho tận mắt: "Bách văn bất như nhất kiến".

Ông hương giáo lại cúi đầu vào trang sách, nói đúng hơn là ông nâng quyển sách lên, đưa ra thực xa để nhìn rõ, theo tật người viễn thị. Người bạn chỉ hướng sau nhà, bảo tôi cứ tự do đi dạo rồi lát nữa vào ăn cơm trưa.

Đất rộng, xẻ nhiều mương song song cam mọc sát mí nước, trông mút mắt, khuất mất chân trời. Nhìn cho rõ thì lá cam màu xanh đen, đọt non nhú lên, trải ra từng miếng lụa trắng vàng lợt, tương phản lại qua khỏi một líp dài, xảy đâu có mương nhỏ chắn ngang.

Tôi đứng lại, mải mê nhìn mấy con kiến vàng bò trên sợi dây giăng nối liền gốc cam này đến gốc cam nọ như những sợi dây thép nói... Chiếc cầu bắt ngang là trọn thân cây dừa nằm dầm dưới nước, một lớp bùn non mỏng mịn phủ lên như lớp nước sơn màu trắng.

Tôi đặt chân xuống. Bùn non quá trơn. Bị mất thế quân bình, tôi lảo đảo, bấm ngón chân xuống nhưng quá trễ, đành té xuống mương. Rất may lòng mương không sâu nên chỉ ướt khỏi đầu gối.

Đâu đây, có tiếng cười khúc khích trong trẻo. Tôi cả thẹn, day lại, nghe sột soạt trong líp cam bên kia bờ, và gương mặt một cô gái hiện ra, ẩn sau kẽ lá:

- Ông đi lạc hả? Vô nhà tui thì đi phía đẳng, ai biểu ra đây...

Tôi vội qua bên kia bờ. Cô bé toan chạy. Tôi gượng vui để trấn tĩnh:

- Bà con mà. Tôi ở trong nhà bác ra đây lần đầu coi vườn cam cho biết... Cháu đi đâu đây?

Cô bé nói:

- Ngộ nghĩnh gì đâu mà coi cho biết... Tôi đi hái kiến vàng. Sửa soạn vô nhà thì gặp ông ở đây.

Bây giờ tôi mới hiểu rõ cái giỏ bằng tre mà cô bé xách bên tay, tòn ten dưới một sợi dây chì.

- Hái kiến ở đâu vậy? Nó là trái cây sao mà hái?

- Nó đóng ổ trên cây xoài. Phải leo lên mà giựt xuống từ ổ. Nó cắn sần mình mẩy, ý là tôi vo ống quần lại. Năm ngoái mùa cam đâu có cực khổ như vầy, năm nay, kiến hôi tới nhiều quá sợ thất mùa.

Tôi hỏi tiếp:

- Sao vậy?

Kiến hôi nó đái làm hư bông hư lá, phải kiếm kiến vàng về nuôi để đánh tụi nó...

Ông thấy tụi nó đánh lộn chưa? Ông coi nè... Ba tôi ở nhà nói vậy tôi không tin...

Vừa nói, cô bé móc một cái vỏ hộp quẹt, mở ngăn ra thấy lểnh nghển kiến hôi... Cô bắt ra vài con, rồi thảy trên dây, nơi bọn kiến vàng đang bò lui tới. Chúng bắt cặp tay đôi ngừng lại, ngóc đầu lên rồi nhào tới mà ôm, mà cắn - Rốt cuộc cả hai đều té xuống đất.

Cô bé nói:

- Đó là thủ huề. Bây giờ ông coi... Tôi chăm chỉ chờ xem cô bé diễn tiếp trò gì, chợt nghe phía sau có tiếng nói lớn, giọng cáu kỉnh:

- Làm cái gì mà ở hoài ở ngoải, Liên à?

Tôi day lại, giựt mình. Ông hương giáo mang cặp mục kỉnh lên rồi gỡ cặp mục kỉnh ra, nheo nheo đôi mắt...

Liên nói nhỏ:

- Ông về trước đi. Đừng nói với ổng là tôi bắt lén kiến hôi đem vô vườn cho nó cắn lộn coi chơi. Ổng đánh chết.

Vào nhà, ông Hương giáo hỏi:

- Cháu thấy tở mở vườn cam chưa? Không có gì là ngộ để mà coi hết, phải không cháu.

Tôi đáp:

- Dạ có cái vụ nuôi Kiến Vàng. Sách ở bên Tây không thấy dạy chuyện đó...

Ông nói:

- Vậy sao! Sách chữ nho cũng không nhắc tới. Bác đọc mấy ngày rồi. Nè cháu! Bác dám khuyên cháu điều này: con người tuổi trẻ thì không nên lêu lổng...

Rồi ông nhìn thẳng vào tôi, nghiêm nghị:

- Phải cần học. Cháu rán tìm sách vở nói về cái việc kiến hôi phá hại mùa màng. Loại sao, độc ác quá, rớ tới đau là héo nhụy, lá úa cuốn kèn lại...

Tôi hỏi thêm:

- Kiến vàng đánh kiến hôi, phải không bác?

- Đúng vậy, nhưng còn công dụng khác. Cây cam nào không có kiến hôi mà cũng không có kiến vàng thì cũng hư như thường. Bác thí nghiệm rồi... Có lẽ nhờ nước đái của con kiến vàng. Thiếu chất đó không được. Cháu có rảnh tìm thử sách Tây coi nói làm sao.

Tôi gật đầu:

- Để cháu kiếm thử. Chuyến sau trở về đây, cháu nói cho bác rõ...

- Bác trông lắm! Nhớ nghe cháu. Trồng cam, trồng quít là nghiệp ông bà để lại, tấc đất tấc vàng. Con cháu phải ráng tái bồi, nhứt nghệ tinh nhứt thân vinh...

Cuộc tạm biệt ấy mãi kéo dài, ngày qua tháng lụn. Suốt mấy năm trường chinh chiến, tôi không được dịp gặp lại bác giáo.

Tôi đã quên hẳn chuyện kiến hôi kiến vàng, quên hình dáng cô bé tên Liên. Và khi thấy từng giỏ cam chở trên xe cam-nhông từ lục tỉnh về Sài-gòn, tôi không còn được cảm giác gì, ngoài câu hỏi âm thầm: "Làm sao có tiền để ăn cam? Nó có sinh tố, bổ lắm!"

Nhưng trái đất thì tròn. Người ở khác lục địa thường gặp gỡ nhau huống chi là người ở chung một miền một xứ. Cách đây chừng một tháng, tình cờ tôi gặp lại bác hương giáo tại chợ Bình Tây, nói đúng hơn là bác gặp tôi. Bác chào hỏi trước:

- Mạnh giỏi hả châu! Trời ơi! Còn sống nhăn hả?

Tôi hỏi về chuyện làm ăn sanh sống, chuyện gia đình. Bác vui lên:

- Mấy năm đó, vườn cam của bác bị đốn rạp ngã liệt như thây ma. Tội nghiệp mấy gốc cam, gốc quít. Nó không chịu chết, sống thoi thóp mà gắng gượng chờ thời. Mấy con kiến vàng, cháu nhớ không? Không ai nuôi dưỡng vậy mà nó tới lui bên gốc cây, kết lá khô làm ổ che nắng.

Thiệt là có nghĩa.

Bây giờ lộc non đâm xanh mịt rồi. Năm tới là bác có tiền, ngặt không ai săn sóc. Bác có một mụn con gái, hồi năm đó...

Tôi gật đầu:

- Ờ! cô Liên. Phải tên là Liên không bác? Năm nay chắc cô có chồng rồi...

Bác hương giáo thở dài:

- Cháu ơi, nó đi theo bà con lên Sài-gòn này mần ăn. Hồi mấy năm đó nghèo lắm, lâu lâu nó gởi tiền về. Bây giờ thì bặt tin nhưng bà con nói chắc chắn với bác rằng nó còn sống... ngặt nó muốn ẩn mặt. Xe cộ lưu thông về lục tỉnh như vậy mà nó không về thăm. Cháu gặp nó lần nào không? Tuổi già rồi, có của mà không có con, nghĩ cũng buồn tủi...

Tôi xin địa chỉ của bác hương giáo và ghi địa chỉ tôi vào quyển sổ tay của bác.

Đêm ấy tôi về gác trọ, cám cảnh ngày xưa mà ráp lại mấy vần thơ... Tôi nhớ tới Liên... Đây là lần đầu tiên tôi làm thơ:

Thân quít lớn đẵn ngang nằm ủ rũ.

Lũ kiến vàng vương vấn gốc chưa khô.

Đếm lá rơi rơi... ngỡ đến bao giờ.

Chồi non dậy phất phơ màu lụa trắng.

Liên ơi! Sao Liên "ẩn mật" chưa về quê để bắt kiến vàng. Đoạn thơ tiếp theo, tôi chưa hoàn thành được. Nó phải là xây dựng nhưng làm sao xây dựng bằng lời thơ khách sáo, mơ hồ! E nó quá nhàm theo công thức lành mạnh chăng? Tôi chờ hành động cụ thể của Liên: Liên nên gởi thơ về gia đình. Chắc chắn rằng Liên vẫn nhớ địa chỉ cũ. Trong hoàn cảnh này tôi chỉ muốn yên lặng, nghĩ rằng hiệu lực của văn thơ, của câu văn chỉ có giới hạn.

Nó không khiến chúng ta suy nghĩ bằng tình nghĩa chung thủy của con kiến vàng chịu cực để xây dựng cho gốc cam ở vườn xưa. Nó là loại côn trùng nhưng mình nên noi gương nó.

Liên ơi! Về đi! Đời hơi muộn rồi đó! Thảm quá! Đêm vừa qua lúc quá mười giờ đêm dưới trời mưa lất phất, tôi đã thấy Liên bắt đầu ngồi trên yên chiếc "ếch ba" vòng tay vào eo ếch của người bạn (đã có vợ, ba con rồi) của tôi. Tôi chợt nhớ hồi nào Liên cho hai con kiến hôi kiến vàng cắn nhau, thí nghiệm trên dây để rồi nhào xuống chết chùm, thủ huề.