← Quay lại trang sách

NGÀY XUÂN NGHE CHIM HÓT

Những ngày cuối năm Tuấn rảnh rang hơn ai hết, ở xóm này. Anh ở gác trọ và không có quê để mà ăn Tết. Hai mươi năm chinh chiến đã biến thành Sài-gòn thành ra một thứ quê hương cho khá đông người. Họ cưới vợ, sanh con, trồng cây, xây mộ, mướn nhà, dầu bị đuổi cũng không thèm dời. Họ nhìn người miền quê mới tản cư lên sau, nhìn với cặp mắt từ tốn của đám thổ công am hiểu thời thế. Tuy nhiên, làm ông Thổ công bị mang tiếng oan.

Như chàng Tuấn là một.

Đất Sài-gòn với muôn màu hồng ngàn tía được so sánh với một cuộc tiệc lớn. Rủi thay, trong cuộc tiệc ấy, thì hơn mười năm qua, tuy ham phần "xôi thịt" nhưng Tuấn chưa chiếm được chỗ ngồi nào yên ổn cả. Nếu có thì trên manh chiếu chật hẹp ấy chàng chỉ đóng vai người chồm hỗm ăn hụt để rồi vừa đứng vừa đi mà ăn - Kiểu ăn lua láo, không no dai, gây bịnh đau bao tử. Thế là chàng Tuấn đành đóng vai bất đắc dĩ của một kiểu Thổ công dạo kiểng xem hoa, hưởng thụ bằng cách ngắm nghía quan sát trong phạm vi có thể. Chàng muốn so sánh Sài-gòn với vườn hoa. Khổ thay, sự so sánh ấy không hợp pháp, đôi khi gây rắc rối. Lần lần chàng hiểu rằng mỗi vườn hoa, mỗi bãi cỏ đều có chủ, có ranh giới và có cổng khóa.

Tết năm ngoái, ngày mùng bảy, chàng không chịu rời bước khi tình cờ gặp một cội mai to lớn, cánh vàng rộp đất, đầy cành. Mai nở và tiếp tục nở giữa tiếng nhạc du dương và đôi nàng kiều nữ. Đột nhiên, cánh cửa sắt rít lên, mở rộng thêm. Ông chủ nhà ló đầu ra, đuổi chàng bằng nụ cười khô khan:

- Xin lỗi, ông có chuyện chi?

Chàng đang phân vân, chưa hiểu trả lời sao cho gọn. Ông chủ nhà liền ban cho chàng phát súng ân huệ:

- Ông kiếm nhà số mấy? Nhà này số 307.

Chàng vội nêu ra một con số vu vơ, xin lỗi và chào lễ phép ông chủ nhà, tạm biệt sau khi liếc vào phòng khách, thưởng thức lần cuối cùng vẻ tươi đẹp của cội mai trong cái độc bình Khang Hi, kiểu độc bình vĩ đại, cao hơn một thước tây... Lề phố vắng tanh đối với chàng. Vài tháng sau, đến mùa mưa, chàng tình cờ được dịp ghé lại chỗ cũ. Nhà số 307 ấy đã đổi chủ và ông chủ chỉ còn là... linh hồn phảng phất bên bàn thờ. Chàng nhận ra mấy cô kiều nữ hồi Tết khi cội mai nở. Các cô lơ đãng, thả hồn theo bản tân nhạc du dương, không biết rằng ngoài lề đường này, chàng đang dừng bước và sẵn sàng thành thật chia buồn.

Còn 5 ngày nữa là Tết.

Trước lề đường, gia đình họ xúm xít tháo chân đèn, các bộ phận linh tinh của cái lư đồng. Họ lau chùi. Mấy trái đào nằm kề con kỳ lân vàng. Con kỳ lân hươi miệng, vênh hai cọng râu khá to.

- Tường đó hả? Xin lỗi.

Tường giựt mình, dừng lại. Tuấn đúng bên kia đường. Hai người quen nhau từ đôi ba năm nay nhưng không chơi thân. Thỉnh thoảng gặp nhau tại nhà hàng Thanh Thế, bắt tay, cúi đầu chào vậy thôi. Rồi thì mỗi người ăn riêng một bàn. Tại sao Tuấn lại sốt sắng chào hỏi trước? Cơn gió Tết vừa lạnh, vừa khô càng làm cho da mặt Tuấn thêm nhăn và mái tóc thêm cứng, dựng ngược. Tường sực nhớ: Tuấn làm việc ở nhà báo. Nếu gán cho Tuấn cái tin sốt dẻo xe lật ở Tân An thì Tuấn chắc vui lên, Tường nhớ rõ tai nạn xảy ra vào lúc 6 giờ sáng, chẳng ai đến săn tin hoặc chụp ảnh cả.

Tường bắt tay Tuấn. Tuấn hỏi:

- Rảnh chưa? Vào dịp gần Tết mình dạo chơi.

"Lạ thật. Tại sao Tuấn chưa nhận ra cái bắt tay ngượng ngập hơi run của mình. Cánh tay ấy suýt gãy, tróc da, màu thuốc đỏ loang ra, lốm đốm dính tay áo.

Tường từ Cần-Thơ về Sài-gòn để thăm vợ con và ở luôn cho đến ngày mùng 7 tháng giêng. May thay, dọc đường khi chạy ngang Trung Tâm Giáo Dục Căn Bản ở Long An, xe ủi vào trụ lề đường, xe lăn ba vòng xuống ruộng. Người trên xe, ai nấy đều sống nhăn. Tường xuống bến Sài-gòn báo tin cho vợ con biết rồi lang thang dạo phố. Trong thời chiến, Tường cho rằng mình có diễm phúc lớn hơn ai hết. Chàng muốn khoe khoang với tất cả mọi người đã quen hay chưa quen. Mấy người hàng xóm hỏi chàng, hỏi sơ qua. Chàng chưa vừa ý. Chàng ra sạp báo. Mục "tin tức đó đây" của ba bốn tờ báo đều đăng toàn chuyện của Đô Thành và các tỉnh khác. Vô duyên quá. Rõ chuyện quan trọng, liên can đến sinh mạng ba bốn chục người lại trở thành bé bỏng, không đáng kể.

Tường xăn áo lên, sờ vào cái băng keo, nhuộm màu thuốc đỏ. Miếng da cùi chỏ đã rách nát và tróc mất. Mấy chiếc xích lô máy lướt qua. Chẳng ai chú ý đến chàng hơn, cả những người đi bộ. Chàng tự an ủi:

- Họ lo sắm Tết, chuyện mình mình biết, chuyện người người hay. Thí dụ như ngày hôm qua tại Sài-gòn mấy người đó gặp xui xẻo, mình đâu hay biết. Hòa cả làng.

Bắt đầu Tường dạo phố với một lập trường mới. Kéo cái tay áo xuống, dạo khoan thai, hai tay đung đưa ra rất hồn nhiên như người khỏe mạnh, kẻo thiên hạ họ nghỉ rằng anh mang tật từ khi lọt lòng.

Quả thật Tuấn là người... làm báo mà vẫn vô tình đối với thế sự.

Tường chưa muốn thất vọng!

- Cỡ này có tin tức gì lạ không?

- Họ in báo Tết rồi. Nghỉ vài ngày.

- Hồi tối, có xe đò lật.

- Xui xẻo quá vậy. Có ai chết không? Nếu chết một đôi người thì... chẳng bao giờ đăng báo.

Câu nói ấy như gáo nước lạnh xối lên đầu Tường. Chàng thở dài. Tuấn hỏi thêm:

- Sao?

- Xe lật nhưng chẳng ai chết cả.

- Vậy thì hơi đầu mình thắc mắc. Ngày Tết chẳng ai muốn nhắc tới chuyện xui xẻo. Thôi, anh muốn rảnh rang thì đi với tôi. Vui lắm. Xem nhạc sĩ... cổ điển đang tập dượt các mầm non văn nghệ.

- Tốn tiền không?

- Đâu có tốn... Sự có mặt của chúng ta sẽ làm hân hạnh cho chủ nhà. Dạy ca nhạc tại nhà. Các mầm non tốn tiền và tốn chút ít rượu trà để Tết thầy. Anh có xem lần nào chưa? Anh nhạc sĩ này là bạn thân của tôi.

Sáu bảy em bé - toàn là con gái - ngồi dựa lưng vào vách đối diện với nhạc sĩ Văn Ky. Đứa mặc áo rằn ri, đứa mặc áo đầm, đứa mặc áo sơ mi ngắn tay quần túm ống. Nhạc sĩ mặc bi-gia-ma, mang dép Nhật Bổn.

Buổi dạy nhạc diễn ra, trong gian phòng ấm áp, thân mật, chật chội, trên lầu. Cách nhạc sĩ chừng bốn bước là cái giường nệm khá to. Trên ấy, một bà lão nằm mỏi mệt - Dì ruột của nhạc sĩ từ Bến Tre tản cư lên Sài-gòn từ vài ngày rày.

Nhạc sĩ Văn Ky nâng cây lục huyền cầm, so dây rồi nói to:

- Đâu, tụi bây dượt lại cho tao nghe. Tệ qua, tao khổ vì tụi bây.

Các mầm non dở quyển sách mỏng ra, chăm chú; lối xưng hô "tụi bây, tao" chẳng có gì là thô lỗ. Người trong gia đình với nhau cả, mấy mầm non còn quá trẻ, trẻ tuổi hơn đứa con gái đầu lòng của nhạc sĩ.

- Lệ Hoa đâu! Mầy nói lối trở lại cho tao nghe!

Cô bé Lệ Hoa, trạc mười hai tuổi đứng dậy, bước tới hai bước. Đột nhiên, nó day mặt, liếc phía thang lầu.

Nhạc sĩ Văn Ky lắc đầu:

- Không được... Lúc tao đang dạy, lúc mà bắt đầu lắng giọng thì bất cứ tiếng động gì cũng không đáng kể. Tao biết có khách tới, họ bước lên thang lầu. Nhưng đó là những bạn quí của tao. Họ tới đây vì... điệu nghệ. Đừng sợ sệt, đừng lãng trí. Nay mai mầy vô dĩa, mầy lên sân khấu thì làm sao?

Cô bé Lệ Hoa lè lưỡi. Mấy đứa bạn cúi đầu lật quyển bài ca. Giọng Lệ Hoa cất lên:

Lần thứ hai, về thăm quê ngoại,

Ngắm vườn cau năm cũ xác xơ.

Hai tay ôm lấy nấm mồ,

Khói hương nghi ngút quyện mờ vườn cau...

Lần thứ hai trở lại...

Nhạc sĩ Văn Ky ngưng tay buông phím:

- Khổ lắm. Tại sao "trở lại" mà mầy nói lối ra "trớ lại". Chưa rõ tiếng. Nói lối cho tao nghe kỹ, năm ba lần. Trở lại... Trợ ở... ở... lại.

Cô bé Lệ Hoa lấy hơi:

- Trở... ở... lại... ớ.

- Tại sao có tiếng "ớ" vô duyên đó! Mầy chặt bỏ tiếng "ớ" dùm tao... Ủa chào anh Ký giả, chào anh bạn.

Tuấn dõng dạc xuất hiện, theo sau là Tường. Cô bé Lệ Hoa vẫn đứng im. Nó hơi thắc mắc. Tại sao thầy có hơi... lãng trí. Nhưng nhờ được vào hậu trường sân khấu vài lần, nó chợt hiểu. Thầy nó giống như người đạo diễn đào kép diễn ngoài sâu khấu, người đạo diễn ở hậu trường được trọn quyền đi tới đi lui hoặc ra ngoài ngã tư đường cái mà uống cà phê. Để khỏi bị rầy, nó vẫn đứng im, như trên sân khấu thật, không cần cúi đầu chào hai vị thượng khách của thầy nó.

Tuấn giới thiệu:

- Đây là nhạc sĩ Văn Ky, đây là bạn Tường.

- Cám ơn. - Vừa nói, Văn Ky vừa chỉ hai cái ghế.

Tuấn nói:

- Anh cứ dạy học. Tụi tôi đi phiêu lưu ngày Tất niên. Lâu quá mới tới đây.

Văn Ky ngồi xuống ghế, so dây đàn.

- Hai anh có thể ra trước bao lơn, ngắm cảnh. Chừng hai chục phút nữa, mình đi Chợ-Lớn kiếm cái gì nhậu.

Rồi nói với đứa học trò lớn tuổi nhất:

- Bé! Xuống nói với cô, lấy tiền mua năm đồng bạc cà phê đen, pha trà thật đậm.

Nhạc trổi lên. Tường hơi buồn đến bao lơn, nhìn qua nhà kế cận. Chủ nhân mua hàng chục chậu bông vạn thọ, hường, cúc. Tuấn đứng chống nạnh, nói với Tường:

- Thay đổi không khí như vầy, được chưa?

Tường mơ màng hút thuốc, chống hai tay lên thành bao lơn. Vài chiếc xe vận tải khá to, khá năng chạy qua. Anh sờ ngay cùi chỏ. Vết thương còn đó, hơi rêm nhức. Anh nhớ rõ, gió đâu thổi lạnh lẽo, xe chạy trăm cây số một giờ. Vì ngồi ở phía ngoài nên gió tạt vào lỗ tai, lùng bùng. Đột nhiên, thiên hạ kêu rú, chiếc xe lao đầu trong bóng tối quay tròn, đầu anh dộng xuống mui rồi mông anh quay trở lên. Anh ôm mặt, ngất xỉu, mất thở vì người hành khách kế bên đè lên anh.

- Nghe kìa!

Tuấn vỗ mạnh vào vai Tường, nói tiếp:

- Ngộ quá, nhiều người ao ước thấy tận mắt khung cảnh đào tạo mầm non ca nhạc cổ điển. Anh không ưa vọng cổ sao?

Tường lưỡng lự. Thật ra, anh rất thích vọng cổ. Mười năm về trước, anh thử học đàn và ca, nhưng việc tập dượt phải dở dang vì anh thiếu hơi ca trung bình, vì anh thuận tay trái.

- Anh Tuấn. Tôi muốn về, thăm người bà con.

- Bậy nè! Chỗ anh em với nhau. Chờ lát nữa, tụi mình cùng đi. Hổm rày, tôi tới đây vài lần nhưng chưa bao giờ theo dõi phương pháp đào tạo của anh nhạc sĩ Văn Ky. Anh này thuộc vào hàng xuất sắc. Cô đào Vân Tuyết, huy chương vàng 62 là học trò của anh. Giới kịch trường gọi đây là "lò Văn Ky".

Tiếng đàn của Văn Ky trổi lên. Nãy giờ, anh rao chậm chậm, cố ý tranh thủ thời giờ để chờ cô bé - đứa học trò lớn tuổi nhứt, đi mua cà phê về đãi khách. Cô bé đã về, kính cẩn đặt hai ly cà phê đen trên bàn, cúi đầu mời Tuấn và Tường.

Tuấn nói một câu khiến Tường hơi hối hận, trở lại thực tế:

- Anh thấy nhạc sĩ Văn Ky nhã nhặn và khiêm tốn chưa? Phục vụ bạn bè hết mình. Vừa mưu cầu sanh kế, vừa hành nghề vừa giữ phép xã giao. Và cô bé này hy sinh thời giờ, xem bọn mình như thượng khách. Tại sao anh từ chối tấm thạnh tình của người chung quanh?

Cô bé Lệ Hoa lên giọng nói thơ Vân Tiên rồi qua nói lối thăm:

Lần thứ hai, về thăm quê ngoại,

Ngắm vườn cau năm cũ xác xơ.

Hai tay ôm lấy nấm mồ,

Khói hương nghi ngút quyện mờ vườn cau...

Lần thứ hai trở lại...

Nghe tiếng trẻ ngọt ngào, phát âm thật rõ, nhạc sĩ Văn Ky gật đầu, đắc ý. Cô bé Lệ Hoa liếc nhìn thấy, sung sướng. Tuấn cười tủm tỉm như tán thưởng cô bé. Tường vẫn ngơ ngác:

- Giọng cô bé này tốt hả? Nó còn nhỏ tuổi quá.

Tuấn gắt giọng nhưng nói cặn kẽ:

- Im đi. Anh không rành nghệ thuật gì ráo. Phải thông cảm cố gắng thông cảm. Anh Văn Ky và cô bé này đang vui mừng...

Nhạc sĩ Văn Ky nhắc lại:

- Một lần nữa. Mấy đứa kia chuẩn bị, nhớ đo nhịp trong cuốn bài ca để vô một lượt với người ta. Có đứa nào ngủ gục không?

- Lần thứ hai trở lại mẹ khóc quê ngoại đìu hiu như vườn cau xơ xác tiêu... ơ... ơ... điều!

Bé Lệ Hoa vừa dứt tiếng "điều" là Tường nhảy dựng. Sáu bảy đứa học trò cổ nhạc hát rộ lên một lượt, mỗi đứa một lời ca khác nhau, tuy cùng một bản vọng cổ, một nhịp điệu. Tuấn gật đầu, đắc ý. Nghe như bầy ong vỡ ổ:

- Nếu vắng - thấy mẹ ngồi khóc - đôi mắt - Điệp ơi - quê ngoại thăm lại vườn cau - rồi duyên hương lửa, Lan có tiếc - tỳ bà long phím vẫn u hoài - để cùng ôn kỷ niệm - thân bọt bèo vạn kiếp mông mênh - xạc xào lá vàng - riêng mình mái tóc thề để bạn tình chung - mẹ quá khổ đau - chiếc lá vàng bay...

Thật là một bản hòa tấu hỗn loạn. Tường quên hẳn vết thương nơi cùi chỏ, quên hình bóng chiếc xe nặng 5 tấn chạy trăm cây số một giờ đang lao mình, lật ngược, lăn ba vòng trước khi nằm im... Ba bốn thứ lời ca vọng cổ trộn lộn, như mớ miểng chén để trong thúng xóc mạnh, như hàng trăm cánh hoa rơi rụng. Tuấn khều Tường.

- Vui chưa? Trăm hoa đua nở là vậy đó. "Khúc đâu Hán Sở chiến trường, nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau" là vậy đó.

Tường cười gượng:

- Như vậy, hơi tủi cho vong hồn cụ Nguyễn Du!

- Anh hơi bi quan.

- Không nhịp điệu gì hết.

Tuấn nheo mắt, đưa bàn tay mặt lên rồi chờ đợi, nhịp chân, búng nhẹ ngón tay cái vào ngón tay trỏ, nghe một tiếng "chóc". Tất cả mầm non đều lên giọng để chấm câu thứ nhứt.

Lấy chồng trừ nợ cũ, hoa tàn trong chuông sớm trên đường về biên ải. Ba tiếng chốt: cũ, sớm, ải đều lên cao vút một lượt hòa hợp với tiếng đàn của nhạc sĩ Văn Ky.

Nhạc sĩ đắc ý:

- Được lắm. Tụi bây tiến bộ.

Tuấn day qua Tường:

- Kỹ thuật khá lắm rồi đó. Hồi nãy tôi búng ngón tay trúng ngay nhịp. Bốn tiếng chót rơi vào nhịp thứ 32 của câu đầu, theo hơi trắc, bay vút lên. Thời xưa, con hạc ở chốn Thiên Thai cũng vậy thôi. Tản Đà bảo: "Cái hạc bay lên vút tận trời".

Tường chán nản luận điệu ngông nghênh, xa thực tế của Tuấn. Tường muốn ra khỏi gian phòng. Nhưng làm vậy, anh sợ nhạc sĩ Văn Ky và các mầm non phật ý. Anh ra bao lơn. Gió Tết thổi lành lạnh. Anh nghĩ đến vết thương nơi cùi chỏ. Đêm nay, nó sưng lên, làm độc. Có lẽ sáng mai, anh phải đi bác sĩ, rọi kiếng cho biết có sứt mẻ khớp xương không? Buồn quá. Cây cỏ, gỗ đá là giống vô tình, đã đành. Chớ như chàng Tuấn, một ký giả có tâm hồn, được liệt vào phái "lành mạnh", thế mà vẫn xa thực tế đau khổ của cuộc đời, tại thành phố, nói chi đến tình trạng chiến tranh ở đồng quê không xa xôi.

Tuấn đến bao lơn:

- Coi cái gì vậy? Chán cái vụ mầm non này rồi hả?

Tường nói:

- Coi người ta tưới kiểng, tưới bông ở căn nhà bên kia cho đỡ buồn.

- Tại sao anh không biết mê... buổi tập hót của bầy chim con, lúc chờ đón gió xuân? Mấy em bé đó là bầy chim non của đất nước.

- Anh đừng đại ngôn.

- Tôi nói đúng sự thật. Giờ phút này, ít ai được gần gũi cuộc đời như chúng mình.

- Mấy em đó ca hát nghe lộn xộn quá.

- Làm sao lộn xộn? Khổ lắm. Nhạc sĩ Văn Ky vừa trả lời mấy câu phỏng vấn của tôi. Anh cho biết mấy em tập tành đã sáu tháng rồi, nay tiến lên đến trình độ đáng khích lệ đó. Vọng cổ là cuộc sống, có kỷ luật nghiêm khắc, như con người giàu nghèo sang hèn sanh lão bệnh tử, chẳng ai thoát khỏi luật của tạo hóa.

- Thôi đi anh! Giỡn hoài.

Tường nói xong, quay mặt.

Tuấn trả thuộc lòng mớ lý luận mà anh vừa học lóm được của nhạc sĩ Văn Ky ban nãy:

- Mỗi câu 32 nhịp, mỗi nhịp đúng hai giây đồng hồ, nếu ca vô dĩa thì mỗi câu đúng 64 giây, không xê xích. Coi như giỡn chớ khó lắm. Mấy cô ca như ong vỡ ổ nhưng tuân theo kỷ luật nghiêm khắc ấy.

Tường lắc đầu:

- Lời ra hỗn độn, toàn là chữ sáo, theo kiểu văn chương 3 xu không ý nghĩa.

- Người ta cần hơi mùi. Và cần ý nghĩa, cần luân thường đạo lý. Anh lầm rồi...

Bầu không khí trở nên khó thở. Nhạc sĩ Văn Ky buông đàn sau khi tập dượt đến lần thứ ba cho các mầm non. Nhạc sĩ mở tủ kiếng, đem ra sáu tập sách bài ca vọng cổ:

- Các bạn thông cảm giùm. Nãy giờ nghe lộn xộn bởi vì mỗi em ca vọng cổ theo nhịp chung nhưng lời riêng. Bài ca thứ nhứt là "Hương Cau Quê Ngoại" của thi sĩ Kiên Sơn, bài thứ nhì là "Thoại Khanh Châu Tuấn" của soạn giả Viễn Châu, bài thứ ba là "Tình Lan và Điệp", cũng do Viễn Châu soạn. Ba bài đó hợp đạo lý... Tôi chú ý chọn lựa để các em sau này đừng nhiễm thói xấu... ngoại lai. Mấy anh coi thử. Đây là bổn thứ nhứt, ở mỗi nhịp tôi có ghi dấu viết chì. Đây là bổn thứ hai, không có ghi nhịp. Các em "mầm non" đã tới trình độ không có ghi nhịp nhưng vẫn ca đúng nhịp, 32 nhịp vô một câu, đúng 64 giây đồng hồ. Khổ lắm. Bây giờ mình đi nhậu, được chưa.

Nghe đến tiếng đi nhậu, Tường giựt mình. Vết thương chưa lành mà nhậu rượu thêm thì e nó làm độc, rủi ro bề gì thì cưa cánh tay. Bỗng dưng mà cùi chỏ Tường cử động khe khẽ.

Nhạc sĩ Văn Ky trố mắt:

- Ủa! Sao vậy? Như có máu.

Tường nói rõ từng tiếng để trút bao nhiêu cơn uất hận từ khi gặp Tuấn:

- Tôi đi xe từ Long An về, lật xe 3 vòng, trầy sơ sơ... Chắc nhậu không được, xin kiếu, hẹn dịp khác.

Tuấn nói giọng đàn anh kể cả:

- Không nhậu thì cũng đi chơi, ngồi chung một bàn cho vui. Cữ rượu thì uống nước ngọt. Cha này khó tánh quá. Hay là anh muốn tôi đăng... cáo phó vào dịp Tết? Dịp Tết, chẳng báo nào đăng cáo phó cả...

- Thôi. Tôi buồn, để tôi về.

- Buồn nỗi gì, ngày Tết?

- Tôi buồn, tôi nghĩ đến bao nhiêu người khác, họ bị lật xe một lượt với tôi, không ai chết...

Tuấn nắm tay Tường:

- Thôi, xuống đất, cha nội ơi. Vậy là vui rồi. Thương người vu vơ chỉ là tật ích kỷ. Vì ích kỷ nên nãy giờ anh có thưởng thức gì đâu? Tết đến, chim non đua hót...

Tường sờ vào cùi chỏ rồi buông tay xuống khi cô bé, đứa mầm non lớn tuổi nhứt, đâu cũng 17, 18 tuổi đến gần chàng, mái tóc thoảng mùi trầm hương, đôi mắt đen nên sáng lạnh. Trong đáy biển đen huyền ấy, ngời lên hai vì sao nhỏ.

Cô bé nói:

- Thưa chú, cháu về... Thỉnh thoảng mời chú trở lại khuyến khích mấy cháu đây. Cùi chỏ của chú... dường như...

Tường đưa hai cánh tay ra sau lưng thật nhanh:

- Chừng nào tập hát nữa? Chú lại đây...hoài hoài.