Chương 14 Giữa Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh
Một năm học mới lại bắt đầu, đây là năm học đầu tiên của miền Nam giải phóng. Giữa mùa mưa là ngày nào cũng có mưa, mà thường mưa vào buổi chiều. Sau cơn mưa, đường phố như được gội rửa tươi mát hẳn lên. Trên đường phố tấp nập xe cộ và dòng người đi lại, Nguyễn Văn Thương chỉ dùng một nạng, còn tay trái, anh dắt đứa con trai đi vượt qua đường, ngay trước cổng ngôi trường tiểu học. Thằng Liêm con trai anh hôm nay được ba đón, thằng bé vui mừng, chạy chân sáo bên ba, miệng nói liên hồi hỏi ba hết chuyện này tới chuyện khác:
– Sao hôm nay ba đến rước con sớm vậy! Ba chờ con có lâu không hả ba?
– Ba được đưa rước con đi học là ba vui- lắm rồi nghe con! Ba có chờ con thì ba mới được ngắm nhìn ngôi trường tiểu học con đang học, được thấy thằng con trai ba chạy ào ra đón ba chớ!
Thằng Thanh Liêm (anh đặt đệm cho con trai chữ Thanh, mong sau này nó sống trong sạch, liêm khiết ) thực sự mới được sung sướng tự hào vì mình chính thức có ba. Mới cách đây mấy tháng, nó vẫn còn chịu mang tiếng oan với mây đứa bạn là " Con không cha", rồi " cha vô danh". Mới hôm rồi, nó được các chú các bác bế công kênh lên đầu trong buổi lễ tiệc trà bánh tại hội trường của phường, mà các chú các cô bác nói là đám cưới lại của ba má nó vì ngày trước, ba má phải cưới "bí mật."
Vui quá! Chưa bao giờ thằng bé lại thấy vui và tự hào về ba của mình như bây giờ. Suốt ngày thằng bé gọi ba, kêu ba, ba, như để bù vào thời gian không có bạ!
Sau giải phóng, Thương về Nam, Thương tham gia ban Quân quản tiếp thu thành phố bên Cục Tình báo. Mấy năm sau đó, không còn việc gì cho anh ở Cục, anh về nhà sống bên gia đình. Anh cố gắng chú ý chăm lo hạnh phúc gia đình, anh muốn cho vợ con mình thực sự có một người chồng, người cha bình thường, nguyên vẹn.
Các chị em ở hội phụ nữ, nơi Hai Em đang làm ở cửa hàng lương thực, nhất là bà con lối xóm ai cũng phải ngạc nhiên khi thấy một anh thương binh cụt sạch cả hai chân mà chăn nuôi heo tốt tay cực kỳ, trèo ra trèo vào chuồng heo như người đủ chân! Nấu cơm nước, chăm nom con cái gia đình, đủ thứ việc làm được hết!
Năm 1978, hai sự việc trọng đại đến với Nguyễn Văn Thương:
* Cuộc đời đã cho anh một món quà tuyệt vời nhất, anh có thêm được đứa con gái, điều mà anh vẫn hằng mong ước khát khao, nay đã thành sự thực.
* Và Nguyễn Văn Thương được nhà nước phong tặng: Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: Chuẩn úy Nguyễn Văn Thương!
Hội chữ thập đỏ thế giới tặng cho anh chiếc xe máy ba bánh, Nguyễn Văn Thương đi làm việc nhà nước!
Anh được các thủ trưởng cũ nay là thủ trưởng ở cơ quan khác đến thăm, động viên, còn trêu đùa vì ai cũng biết Thương rất lạc quan:
– Thương này, mày còn trẻ phải đi làm việc chứ, đã về hưu sao! Chưa tới bốn chục tuổi mà! Phải đi làm gì đó để kiếm sống chứ lương thương binh ba chục đồng tháng sao đủ ăn, còn nuôi con!
– Em chưa nghỉ đâu, em có chiếc xe máy này, có thể đi khắp nơi như mọi người, em sẽ đi làm được.
– Thương này, mày làm sao bưng cơm nước nuôi vợ nằm sanh, thử cho tao coi!
Thương lấy tô canh bê lên, đặt xuống, dùng tay cầm hai ghế con nhấc người theo, lại đặt ghế bưng tô canh, lại đặt tô canh cầm ghế! nhanh thoăn thoắt thành thạo! Miệng cười tươi:
– Có gì khó đâu! Dễ ợt!
Thương đi làm. Anh phụ trách một xưởng sản xuất đồ mộc của Sở Thương binh xã hội và nhiều việc hữu ích khác, nhất là lĩnh vực chống bè phái, chống tham nhũng. Bởi đi tới đâu, Thương cũng là người sống có tình có nghĩa, thẳng thắn, giữ uy tín, giữ đạo đức của người cách mạng, sống gương mẫu, biết cách khắc phục khó khăn cho mọi người noi theo!
Anh trân trọng tình nghĩa của mọi người dành cho mình, bởi đối với Nguyễn Văn Thương, đối diện với Nguyễn Văn Thương, ai cũng kính nể, trân trọng, quý mến và bởi cả phong cách khiêm nhường, tự tin rất lạc quan vui vẻ của anh.
Những kỷ vật được anh tìm tòi sau ngày giải phóng, như khẩu K54 anh chiến đấu trước lúc bị bắt, anh liệng vào bụi cây, sau này các chiến sỹ ta đến địa bàn tìm tài liệu anh cất giấu, đã nhặt lại được khẩu súng ấy; rồi khẩu cạc bin súng Mỹ, anh sử dụng trong trận càn Sê-đa-phôn, anh đã tìm lại được. Nguyễn Văn Thương đã trao cho "các thủ trưởng" lúc nào anh cũng gọi lãnh đạo Cục 2 là các thủ trưởng. Hiện hai khẩu súng và cặp ghế con đã mòn vẹt chân, anh sử dụng để "đi" ở nhà lao Phú Quốc, ba kỷ vật ấy đang còn được lưu giữ, trưng bày ờ Nhà Bảo tàng Tổng Cục 2 (Hà Nội).
Chỉ vì các thủ trưởng bắt Thương nói chuyện nhiều, bắt viết nhiều, bắt kể tỷ mỉ, kể đi kể lại giai đoạn Thương bị bắt, bị dụ dỗ mua chuộc, bị tra tấn, cảnh đấu tranh ở trong tù... bắt kể chuyện từ ngày anh trở về ở Xuân Lộc, ngày ở Hà Nội, ở trại an dưỡng và những ngày trở lại đơn vị sau giải phóng, để làm bài học thực tế giảng dạy ở trường chính trị, trường tình báo, để biết về âm mưu thủ đoạn của CIA! Viết và nói chuyện nhiều lần, nhiều quá mà bây giờ anh thành "nhà diễn thuyết" thành thạo. Nguyễn Văn Thương nói chuyện có trình độ hấp dẫn người nghe như một nhà lý luận. Nhưng có lẽ cái mà mọi người thích nghe anh nói chuyện hơn cả, bởi anh là người chiến sỹ ấy, là một nhân chứng lịch sử, và bởi cả chất hiện thực, người thực, chất dí dỏm lạc quan, lòng nhân hậu và cái mộc mạc chân chất rất Nam Bộ của anh.
Năm 1986 trong một cuộc gặp gỡ nói chuyện giữa đại tá Mỹ trong phái đoàn quân sự Mỹ qua thăm Việt Nam với anh Nguyễn Văn Thương, anh Bẩy Bê biệt động thành, chị Đoàn Thị Ánh Tuyết biệt động thành - Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Đại tá Mỹ hỏi anh Thương:
– Trong những ngày chiến tranh, người Mỹ tra tấn anh, người Mỹ đã cưa hết hai chân anh, vậy anh có căm thù người Mỹ không?
– Tôi căm thù chứ! Ngày ấy tôi căm thù người Mỹ tàn ác đã cưa chân tôi! Nhưng sau này hòa bình rồi, tôi hiểu là: chiến tranh mà! Chiến tranh là phải chiến đấu loại trừ tiêu diệt nhau. Trong chiến tranh thì có kẻ thắng người thua. Chiến tranh thì phải có chết chóc mất mát. Người thắng là chúng tôi, người thua là các ông cũng đều mất mát cả. Bây giờ tôi không căm thù người Mỹ, mà chỉ căm thù chiến tranh, căm thù tổng thống Mỹ thời kỳ đó, ông ta điều hành điều khiển lính Mỹ, ông ta ra lệnh cho lính Mỹ tản sát người Việt Nam cách mạng chúng tôi! Còn người Mỹ, nhân dân Mỹ cũng như chúng tôi lên án, phản đối chiến tranh, làm sao tôi lại căm thù họ.
Ông đại tá Mỹ đứng dậy bắt tay anh thật chặt và xúc động vô cùng. Hẳn ông ấy cũng như bao người dân nước Mỹ và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới lên án chiến tranh, bắt tay với những ai phản đối chiến tranh
Nguyễn Văn Thương thường đi nói chuyện cho lớp thanh thiếu niên các trường học, trong các giờ ngoại khoá, các buổi họp mặt ở nhà văn hóa. Người chiến sỹ ấy vẫn đi. Anh đi bằng đôi chân, bằng đôi nạng, bằng đôi tay, bằng xe lăn, bằng xe máy...
Anh đi bằng chính nghị lực, bằng ý chí và tinh thần phục vụ cách mạng không biết mệt mỏi của anh.
Anh vẫn đi để nói chuyện cho các cán bộ, cho thế hệ sau về nghị lực trong cuộc sống, về tinh thần làm việc cống hiến, biết cách khắc phục khó khăn...
Có đơn vị hay cơ quan ở xa, không có xe du lịch, họ đón anh bằng xe lam, xe chở thực phẩm của cơ quan, xe ôm, xe ba bánh, đến cơ quan nói chuyện cho anh em nghe, xe nào anh cũng vui vẻ đi luôn, anh còn nói thật lòng:
– Đón tôi bằng xe bò cũng được, hồi ở trại an dưỡng ngoài Bắc, tôi còn ngồi xe ba gác kéo tay, anh em trong hợp tác xã nông nghiệp lót rơm đặt tôi lên xe kéo đi khắp nơi, vẫn đi chứ có sao đâu!
Nguyễn Văn Thương vẫn đi khắp nơi làm việc, vận động chính sách thương binh liệt sỹ, thăm hỏi anh em bà con bạn bè.
Anh vẫn đi, vững vàng giản dị, anh vẫn đi đúng con đường mà anh đã chọn.
Nguyễn Văn Thương! Suốt cả cuộc đời, lúc nào anh cũng đặt cho mình câu hỏi: "Mình đã làm gì cho cách mạng?" và không đòi hỏi cách mạng phải cho mình những gì!
Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2005