← Quay lại trang sách

Chương 13 Nguyễn Văn Thương lại vào trận

Thiếu tá" Xuân muốn lập công chuộc tội, nên thái độ khẩn thiết van cầu. Hắn xoa hai tay vào nhau phân trần:

– Tôi muốn thưa với ông cho có đầu đuôi chứ tôi cũng biết những điều tôi vừa nói, các ông không lạ gì. Vâng, đã từ ba năm nay, bọn chúng chạy đua nhau vơ vét, buôn lậu, kiếm thật nhiều tiền để ra nước ngoài sinh sống. Nhưng dù tổng thống hay trùm buôn lậu Kỳ, Khiêm cũng phải chịu dưới sự chi phối của CIA trong vành đai tam giác vàng thuốc phiện. Tại miền Nam này, có hai tổ chức tiêu thụ thuốc phiện. Một do Thiệu, gồm có cả Khang, Khiêm, Nguyễn Khắc Bình có hệ vận chuyển bằng đường Hải quan. Một hệ thống do Kỳ nắm đầu, gồm những tên trong tư lệnh không quân, vận chuyển bằng đường hàng không vào miền Nam. Bọn Thiệu, Kỳ, Khiêm thì nhắm mắt chỉ biết làm giàu thật nhanh. Nhưng bọn CIA Mỹ thì kết hợp cả tiền và mục đích chính trị. Chúng nắm giữ và kiểm soát hết hệ thống buôn bán thuốc phiện, bất cứ tên nào buôn bán thuốc phiện cũng phải nằm trong hệ thống tổ chức tình báo CIA Mỹ hết.

Hắn ngưng lại, trong khi hắn với ly nước xin phép uống, Thương nói nhỏ:

- Điều ấy có gì lạ với chúng tôi đâu.

– Dạ thưa! Tôi xin trình bày rõ. Cả Mỹ lẫn Thiệu Kỳ đều thấy rõ thất bại sắp đến gần, nên CIA Mỹ buộc Thiệu, Kỳ, Khiêm tổ chức cài gián điệp ở lại để thực hiện âm mưu lâu dài. Đưa tay sai là những thanh niên di tản, cả trẻ em đi ra nước ngoài, hoặc theo đường di tản để đào tạo huấn luyện, nuôi dưỡng chờ ngày trở lại Việt Nam hoạt động. Chúng tổ chức các trại tại đảo Goam, một số đảo không người ở Thái Bình Dương, nhất là một số đảo ven biển Phú Quốc, Rạch Giá, Hà Tiên làm kho chứa bạch phiến và vũ khí buôn lậu trước nay. Bây giờ là nơi đào tạo huấn luyện gián điệp, sau đó tung vào đất liền hoạt động. Những nơi này trước đây tôi có biết. Nay tôi báo cáo các ông để lấy công chuộc tội.

Thấy Thương đã có vẻ chú ý, hắn say sưa hơn:

– Chắc ông còn nhớ, mấy lần cũng ở căn phòng này, có mặt tôi và ông ở đây, một người Mỹ, cùng một người Việt, họ ngồi yên nghe chứ không nói gì nhưng chúng rất chú ý đến ông.

– Tôi nhớ, tên trung tá Mỹ đó có nốt ruồi to bên má.

– Đúng rồi, thưa... ông có con mắt nhà nghề. Trong tình trạng như vậy mà ông còn nhớ được người chỉ qua mấy lần gặp. Vâng hắn tên là Pát, một CIA quan trọng ở Việt Nam. Còn người Việt kia tên là Bách, bí danh là Nhạn Bạch. Tụi này có nhiệm vụ tung biệt kích vào chiến khu bằng đường biển. Cách ngày giải phóng hơn ba tháng, tôi có dịp tháp tùng tướng Nguyễn Khắc Bình và bọn này ra đảo.

Hắn nói khá dài dòng tỷ mỉ hai hòn đảo, hai cơ sở cất giấu vũ khí và những tên gián điệp hắn biết tên tuổi mặt mũi chính xác đang còn lĩnh nhiệm vụ ẩn náu ở đây để nhận lệnh mới...

Thương đưa tập giây trắng lên bàn và yêu cầu:

– Anh viết lại tỷ mỉ những điều mà anh vừa khai với tôi, anh vẽ chính xác vị trí hòn đảo mà anh đã đặt chân lên đó. Xong rồi tôi sẽ gặp anh.

Trong khi hắn viết, Thương dùng cặp nạng để dựa phía trong bàn, đi chầm chậm ra khỏi phòng. Thương đã báo cáo tất cả các chi tiết với các thủ trưởng. Anh nhận xét và đề xuất:

– Hắn sợ tôi trả thù, hắn đã phải cố tình chứng tỏ mình thành thật để chuộc tội. Theo hắn nghĩ, tội hắn quá nặng đến mức không thể tin vào sự khoan hồng của cách mạng, vì vậy thái độ khai báo khá thành thực, đáng tin. Tôi xin đề nghị nên tiến hành ngay việc lùng bắt tên Bách và đồng bọn. Đề phòng bọn CIA kiểm lại mặt số di tản. Nếu không nhanh, chúng dễ báo động cho tên Bách đề phòng ém nhẹm màng lưới tình báo, tay chân phá hoại, mạng lưới buôn lậu bạch phiến, hay chúng kịp chạy trốn mất.

Thương có cảm nhận rất tinh tế, anh tin vào ánh mắt, cử chỉ thái độ của tên Xuân. Anh linh cảm tên này đã nhận ra chân tướng, thực sự hối cải, đã muốn lấy công chuộc tội!

Sau khi nghiên cứu lời khai của tên thiếu tá Xuân và trực tiếp thẩm tra lại hắn, các thủ trưởng đã nhất trí với đề xuất của Thương! Lệnh tiến hành vây bắt khẩn cấp. Theo yêu cầu của Thương, các thủ trưởng giao cho Thương lập kế hoạch, chỉ huy một lực lượng, bắt tay vào việc.

Thương biết mình cần sử dụng tên Xuân theo phương án hành động này là đúng. Thái độ và cách đối xử của anh khiến cho tên Xuân thực sự phấn chấn khi được theo Thương để làm hướng đạo. Đến giờ này hắn đã tin vào lượng khoan hồng của cách mạng đối với những ai biết ăn năn hối cải. Hắn đã đứng nghiêm nói với Thương bằng những lời từ đáy lòng:

– Ông Hai! Đứng trước người như ông, tôi thật sự muốn sống thành thực để được trở lại làm người! Xin cảm ơn ông đã tin tôi.

Thương tiến hành vạch phương án truy bắt, được các thủ trưởng tán thành ngay. Hai tiểu đội vũ trang, hai chiếc tàu đánh cá và mọi phương tiện cần thiết chỉ được chuẩn bị trong một ngày.

Hôm ấy, tên Xuân được giữ lại. Buổi tối hắn được ngồi cùng bàn với Thương và mấy đồng chí khác để bàn công việc. Hắn nhìn Thương đi lại từng bước chậm chạp trên đôi chân giả và cặp nạng, mặt hắn tái đi rồi lại nhăn nhó, tỏ ra đau xót và những nỗi ân hận giày vò. Hắn đến bên Thương nói trong lời nghẹn ngào:

– Thưa ông! Đến bây giờ tôi mới thực hiểu vì sao ông lại có thể chịu đựng và hy sinh như thế cho mục đích lý tưởng cách mạng. Chỉ có cách mạng mới có được những người con như các ông, tôi thật là ấu trĩ khi không nhận ra vấn đề này sớm hơn. Tôi thật hèn hạ, ngu xuẩn so với các ông! Sỹ quan cao cấp như chúng tôi được đào tạo ra chỉ có mỗi lý tưởng là tiền, là hạng giá áo túi cơm, hạng ăn bám, cơ hội. Có ai dám xả thân banh thịt cho quốc gia bao giờ! Nhận được ra vấn đề thì cũng đã muộn, nhưng vẫn còn kịp, tôi thành thực muốn làm việc gì đó để chuộc tội lỗi chứ không chỉ riêng việc ham sống sợ chết, hèn hạ thay trắng đổi đen đã thành bản chất của sỹ quan cũng như lính tráng nhà ngụy rồi.

– Tôi quay lại đây để gặp lại các anh, nhưng không phải là để trả thù, mà để cho những người như anh nhận thấy người cách mạng chúng tôi như thế nào! Trước còn chiến tranh khác, bây giờ hòa bình khác, chúng tôi là người chiến thắng, các anh đã thua, đã đầu hàng, nếu các anh nhận thức ra mọi vấn đề thì có gì phải gọi là kẻ thù!

Chiều nay, khi hoàng hôn xế bóng, Thương đã có mặt ở bờ sông Sài Gòn. Thương không dùng xe lăn mà dùng nạng, bước từng bước xuống tàu, cạnh anh là hai đồng chí trợ lý và tên thiếu tá nguy tên Xuân. Tàu lướt trên sống Sài Gòn, từ từ rời xa quầng sáng thành phố rực rỡ cả phía chân trời. Không gian lắng đọng cảnh thanh bình, như hàng triệu con tim đang lắng nghe nhịp đập hòa bình đã về trên tổ quốc mà đã hàng trăm năm nay mới nguôi tắt ngọn lửa chiến tranh, mới không còn bóng dáng một tên xâm lược nào trên đất nước Việt Nam thân yêu. Đất nước này vĩnh viễn là của dân tộc Việt Nam, của hòa bình hạnh phúc.

Thương mới vào tới Sài Gòn hơn một tuần lễ, bây giờ thành phố đã mang tên Bác Hồ, thành phố Hồ Chí Minh, nhưng anh có cảm tưởng như đã lâu rồi. Các đồng chí lãnh đạo Cục định đưa anh về gia đình ngay, nhưng Thương không chịu, nằng nặc đòi cho được trở về đơn vị đã.

– Anh Ba! Bộ anh Ba tưởng em vầy là không làm được việc nữa hay sao! Còn sức này, còn cái đầu này, còn chân tay này, em vẫn đi như thường, sao phải nghỉ!

Nghe Thương phân trần phân giải, còn chống cặp nạng bước đi thật nhanh, lòng các thủ trưởng xúc động muốn trào nước mắt. Các anh sung sướng tự hào vì người chiến sỹ kiên cường bất khuất ấy nay đã trở về.

Thương đòi nhận công tác. Anh cho rằng người đảng viên còn sống, còn hơi thở là phải phục vụ cho cách mạng, tùy theo khả năng của mình. Mà công việc cách mạng lúc này quá bộn bề, ngành tình bào lại càng phải khẩn trương hơn. Một triệu ngụy quân, hàng triệu ngụy quyền, nào cảnh sát, mật vụ, nào gián điệp phượng hoàng rã cánh, lông bay tứ phương tám hướng; âm mưu của Mỹ vẫn còn, công tác khai báo truy lùng cần khẩn trương tích cực. Anh thấy mình còn làm được việc và rất cần thiết làm việc trong lúc này.

Thương nhớ lại buổi chia tay ở trại an dưỡng Hà Bắc với Sương, Chánh hôm về Nam. Sương đã ôm lấy Thương khóc thật lâu:

– Anh Hai ơi! anh về, em ở lại, sẽ có ngày em đưa Tuyết vào Nam tìm gặp anh!

Sương không còn ai là người thân nên đành ở lại làm rể miền Bắc. Còn Chánh, chắc giờ này đang có nhiều chuyện để nói với Loan, cuộc đời họ còn quá trẻ và từ đây hai người được bước song hành tới tương lai tươi sáng. Rồi những kỷ niệm đẹp, êm đềm tình cảm mặn mà ở trại an dưỡng thương binh Hà Bắc, từng gương mặt các bác sỹ, y sỹ, y tá, hộ lý thân quen như vẫn còn đâu đây.

Quãng đời của anh ở ngoài Bắc dù không là dài nhưng mang nặng bao nhiêu kỷ niệm tốt đẹp, nghĩa tình, chắp cánh cho cuộc đời anh những hiểu biết, những tình yêu con người bao la... và những bước đi!

Mải suy tư và ngắm dòng sông Lòng Tàu mà đã ra tới biển lúc nào không hay. Bây giờ là hướng thẳng ra khơi. Bên trái là Vũng Tàu, ngọn Hải Đăng xa xa như ánh sao nhấp nháy. Trời tối, phía sau, hừng sáng thành phố rực chân trời Tây. Hai chiếc tàu nối đuôi nhau rẽ phải. Gió biển lồng lộng đẩy tàu lướt đi như bay theo hướng nam.

Thương phân công ca trực gác, ca nghỉ. Anh chưa một lần đi biển nên gặp sóng to, tàu lắc, say nôn nao khó chịu lắm, nhưng vì mệt, vì say sóng, say sưa công việc mà Thương lại ngủ được một giấc trên tàu dập dềnh sóng vỗ.

9 giờ sáng, tàu đã đến mũi Cà Mau. Hòa lẫn vào những tàu đánh cá tiến về hướng Rạch Giá. Mục tiêu là một hòn đảo nhỏ, không tên, nằm ở giữa vùng biển Rạch Giá - Hà Tiên, cách đất liền 100 km. Tàu được ngụy trang như một tàu đánh cá thông thường với những người dân chài. Theo lời tên Xuân, trên đảo có canh gác và hệ thống báo động, có vũ khí để tự vệ khi cần thiết. Thỉnh thoảng có ghe tàu đánh cá ghé, ngay dưới chân ngọn núi.

Trên đảo, thường có một tên canh gác áo vàng, tên này đã gặp Thiếu tá Xuân trong dịp Xuân đi cùng tướng Bình ra đây gặp Bách nên biết mặt. Nhiệm vụ liên lạc giữa Xuân với với bọn chúng do tướng Bình tổ chức, đến giờ này vẫn chưa thay đổi, nên chắc kế hoạch sẽ không có gì đáng ngại.

Hai giờ chiều, tàu ghé đảo. Đúng như Xuân nói, một bóng áo vàng xuất hiện ở hộc đá lưng chừng núi. Xuân chỉ cho Thương thấy một chiếc thuyền đánh cá đã hư nát trên bờ cao. Giông như bị sóng to đánh giạt vào đảo vỡ tan. Riêng cánh cửa buồng lái còn nguyên, có hĩnh tròn sơn xanh và vành vàng trang trí, nét sơn còn mới. Xuân hỏi Thương:

– Ông có thấy cái vòng tròn sơn xanh trên cánh của chiếc ghe kia không?

Thương quan sát một lúc và hỏi:

– Chi vậy? Cái vết sơn trên cánh cửa kia còn mới hơn cái xác tàu đúng không?

– Dạ đúng vậy, ông tinh thật! Mới xem qua, ai cũng tưởng là lối sơn phết của ghe đánh cá thông thường. Nhưng đó là dấu hiệu báo an toàn cho những ghe tàu đến móc nối, trao đổi hàng lậu. Nếu như trên đảo có điều gì bất ổn, thì từ xa, đồng bọn đã nhận được ám hiệu, bằng cách, không thấy tấm biển có hĩnh vẽ đó. Mấy cái viền vàng có sơn phản quang, Ban đêm, pha đèn chiếu sáng vào là từ xa cũng nhìn thấy.

– Thì ra thế!

Thương khẽ gật đầu! Thương vẫn vừa nghe vừa quan sát tên mặc áo vàng trên mỏm đá. Hóa ra là một tên đóng vai sãi chùa, vì ngay sườn đá có một ngôi chùa nhỏ đã xây dựng từ lâu. Chừng như hiểu ý Thương, tên Xuân nói như giải thích:

– Từ lâu, khi có ý định dùng hòn đảo này là nơi bí mật trung chuyển thuốc phiện và ém gián điệp, chúng đã thủ tiêu mấy người tu hành trong ngôi chùa nhỏ trên hòn đảo này, chiếm dụng chùa vào việc của chúng...

Tàu cặp bờ, Thương nhìn chăm chú tên áo vàng, anh cùng tên Xuân và trung uý Sơn bước ra đầu tàu đứng. Trong người Sơn và Thương có hai khẩu súng ngắn côn 12, bởi trước đây Thương đã từng là tay thiện xạ, nổi tiếng ở đơn vị, bách phát bách trúng với khẩu côn 12 sử dụng cả hai tay như thế nào. Thương còn tin tưởng ở Sơn, người đồng chí cảnh sát thiện xạ đậu đầu quân trong đợt thi tuyển vừa rồi về sử dụng côn 12 hai tay.

Xuân dời tàu lên bờ, Sơn lên theo lầm lũi đi gần Xuân, họ đi thẳng tới chỗ tên áo vàng đang đứng đợi. Tên áo vàng cũng cạo trọc, mặc áo vàng nhà sư để hở một bên vai. Cánh tay để trần, bắp thịt cuồn cuộn. Chéo vải phía dưới kéo dắt ngược lên lưng, hai ống chân, bàn chân để trần. Đúng là "sãi Miên", chỉ riêng ánh mắt là không thể giấu vào đâu được, không thể ngụy trang sãi chùa được, đôi mắt gian hùng xảo quyệt. Tên sãi cúi đầu chào, hắn hình như còn ngờ ngợ, chưa nhận ra người quen. Xuân giơ tay chào theo kiểu nhà binh rồi nghiêm giọng:

– Chú mày chưa nhận ra tao à! Thiếu tá Xuân đây, lên báo đại tá là có tao đến, cần gặp đại tá gấp.

Hắn bỏ lỏng hai tay, ngước cặp mắt nhìn thẳng vào mặt Xuân và toét miệng cười, hắn đã nhận ra.

– Trời đất! Thiếu tá, mới hôm nào thiếu tá cùng đi với ông tướng ra đây mà em không nhận ra, thiếu tá bận đồ như vầy hèn chi ngó lạ. Thiếu tá chờ đây nghe, em đi báo ngay cho đại tá.

– Được rồi, lẹ lẹ nghe!

Xuân nói với chiến sỹ Sơn:

– Mới giải phóng chưa lâu, ngoài đảo này còn thuộc hoàn toàn của họ, chắc chắn họ không thể nghi ngờ tôi được, tôi tin rằng kế hoạch sẽ thành công.

Bóng tên "sãi chùa" áo vàng đã khuất vào trong cổng chùa, Xuân nói:

– Như vậy là phía dưới này không còn ai canh gác cả, ông ra dấu để ông Thương cho anh em lên bờ đi.

Sơn quan sát rất nhanh tình hình trên bờ, cũng là lúc anh ra hiệu cho tàu. Thương ra lệnh tiểu đội trên tàu lên bờ chiếm các vị trí làm công sự. Tình hình vẫn im ắng, Tên áo vàng tất tả chạy xuống, thái độ hồ hởi:

– Mời thiếu tá lên, đại tá đang chờ.

Sơn theo sau tên Xuân lên. Những bậc đá được sắp xếp lởm chởm bậc cao bậc thấp. Tới cổng chùa, phía trong là một khoảng sân nhỏ lát đá xanh. Trên bậc thềm chùa đã thấy một tên cao lớn mặc quần jean, áo xanh, đầu cạo trọc, da xạm nắng, cặp lông mày to đậm. Hắn khoanh tay trước ngực đứng choạng chân, để lộ hai khẩu súng ngắn đeo hai bên dây lưng to bản, xệ xuống hai bên hông. Trông hắn giống như tên cao bồi trong phim. Nhận ra Xuân, hắn cười ha ha:

– Dù bằng đường biển thôi à, sao chậm vậy ông bạn.

Xuân cười vui vẻ:

– Chào đại tá, ai mà muốn khổ sở thế này, hút chết đây! Lệnh của đại tá mà.

Tên đại tá giơ tay nắm tay Xuân, hạ giọng nói nhỏ hơn:

– Ông tướng sao rồi?

– Ông ở lại vì nhiều việc cần gấp phải giải quyết, nên cũng đi bằng đường biển, vất vả quá, chỉ có ai đi máy bay trước đấy là sướng thôi.

– Ông đâu?

Xuân bình tĩnh:

– Mấy hôm nay ổng bị cảm, người mệt còn nằm dưới tàu ấy. Mời đại tá xuống gặp, ổng còn dặn dò gì đó rồi đi ngay cho kịp cuộc hẹn với tàu du lịch Thái Lan ngoài hải phận kia.

– Thật vậy sao, ông này gan thấu trời!

Hắn không một chút nghi ngờ, mà sao có thể nghi ngờ một thiếu tá tin cẩn nhất của tướng Bình. Trong những ngày nước sôi lửa bỏng, một sống một chết, Sài Gòn đã bị quân Cách mạng vào giải phóng, đầu sỏ tướng lĩnh vù hết, tan tác chim muông. Mạnh ai nấy đi nấy tháo chạy, nháo loạn, như ong vỡ tổ, vậy mà giờ này hắn còn ung dung ở đây chờ nghe tin tức. Vậy là lòng tin vào tổ chức bí mật của CIA và cái vỏ bọc, cơ sở bí mật này khiến hắn tự tin. Bây giờ lại được gặp cả ông tướng, lại sắp ra đi vào một thế giới đầy quyền lực và tiền tài. Sao hắn không vui mừng được. Hắn nhẩy xuống sân, theo tên Xuân ra cổng. Miệng hỏi:

– Không biết chúng ta có bị kẹt lại nhiều không nhỉ?

Xuân nói to:

– Tình hình diễn biến mau như sét đánh, đến bọn Mỹ còn lúng túng chạy vãi đái nữa là; tất nhiên còn khá nhiều người kẹt lại, họ cũng cố gắng tìm đường ra đi bằng cách này hay cách khác chứ.

Như lây cái buồn bất ngờ từ Xuân, hắn thở dài:

– Cũng biết trước cái thất bại sẽ đến của mình, nhưng thật không thể ngờ lại mau chóng và bi thảm đến như thế! Gia đình thiếu tá ra sao?

– Tôi đã cho dù hết cả nhà trước đó mấy ngày, hiện yên ổn cả đại tá ạ!

Bà tướng Bình chắc cũng đi trước rồi chứ?

– Dạ, đi cùng với tổng thống phu nhân qua Đài Loan rồi sang Mỹ, hẹn gặp nhau ở trên đất Hoa Kỳ!

Đại tá Bách không một chút nghi ngờ, theo chân Xuân, hắn trèo lên tàu. Xuân đứng lùi lại mấy bước. Sơn tiến lên, cùng hai chiến sĩ từ khoang tàu vụt tới, quật ngã tên Bách, nhanh tay tước ngay hai khẩu súng ngắn của hắn chỉ trong mấy giây. Hắn sững người giật thót, lăn kềnh, không kịp chống cự hay phản ứng gì, hai chiến sỹ công an nhanh nhẹn, còng tay hắn. Tên Bách tròn mắt kinh ngạc, hắn như hiểu ra vấn đề quay qua tên Xuân, hắn kêu lên:

– Gì vậy thiếu tá Xuân?

Thương bước từ trong khoang tàu ra, trên đôi chân, đôi nạng và tiếng cười lớn của anh:

– Mấy năm trước, bọn chủ Mỹ của anh cũng đã la lớn như vậy đấy! Thầy nào tớ ấy mà!

Tên Bách tròn xoe mắt, há hốc mồm kinh ngạc. Ai đây? Có Phải chính là cái người mà hắn đã chứng kiến, đã cùng đồng loã với CIA Mỹ tra tấn, cưa hết hai chân, cưa những sáu lần! Hắn định thần lại, nghi ngờ cả mắt và trí nhớ của mình? Nhưng sao lại còn có thể đi như thế này! Hắn hy vọng cái điều nghi ngờ của mình là đúng, không phải, không phải người ấy! người ấy đã bị cưa cả hai chân, cưa hết đùi rồi! Không nhẽ...!

Thương nhìn vẻ mặt kinh ngạc và nghi ngờ của hắn, anh lại cười to:

–  Ông đại tá Bách chưa nhận ra tôi ư? Hay ông ngạc nhiên vì sao tôi lại còn đi được phải không? Tôi vẫn đi được đây thôi. Tôi đang đi tới đây bắt ông đây!

Thương bước tới, trước con mắt sững sờ đến thất thần của tên Bách...!