← Quay lại trang sách

BẠT -

NGƯỜI chồng muôn thuở xuất hiện năm 1870. Lúc đó, Dostoïevski 49 tuổi. Đối với một tác giả sống nhờ ngòi bút, mà văn nghiệp khởi sự từ năm 23 tuổi và gần như không bị gián đoạn cho tới khi chết, cái số tuổi 49 quả là một con số giá trị. Tứ thập nhi bất hoặc ; Ngũ thập nhi tri Thiên mạng. Đó là thời kỳ vững vàng của tài năng, chín chắn của tư tưởng — buổi đứng bóng của mặt trời. Hơn nữa, đến năm 49 tuổi, Dostoïevski đã viếf xong Crime et Châtiment, L'Idiot và chưa viết Les Frères Karamazov. Nói một cách khác, tác phẩm Người chồng muôn thuở đã được Dostoïevski hoàn thành ở giữa những đại danh tác của ông. Và một tác phẩm mang chữ ký của một thiên tài hùng vĩ như Dostoïevski, và lại được sáng tác trong giai đoạn sung mãn của thiên tài này, nếu không phải là một kiệt tác phẩm đi chăng nữa, ít ra cũng không thể nào là một tác phẩm lép. Có lẽ nòi thiên tài không bao giờ hạ sanh những tác phẩm đực và những tác phẩm cái. Đành rằng trong lịch sử văn học thế giới, cũng đã xuất hiện khá nhiều những thiên tài xuất chúng với một tác phẩm duy nhất. (Tôi nghĩ đến những tiểu thuyết gia siêu hạng của Trung Hoa thời xưa: La Quán Trung, Thi Nại Am, Tào Tuyết Cần, Vương Nguyên Mỹ...) Nhưng dường như không hề có thiên tài nào với những tác phẩm bất đồng đều theo một tỷ lệ quá đáng.

Thật ra, tác phẩm Người chồng muôn thuở, mặc dù mang phải cái tội, cái tội duy nhất là ít trang nên bị che khuất oan uổng bởi những tác phẩm đồ sộ khác của Dostoïevski, cũng có thể được kể như là một kiệt tác phẩm trong hạng loại của nó. Trên mọi phương diện, nó hoàn toàn xứng đáng với cái vinh quang chói lọi của Dostoïevski. Nhưng khổ nỗi người đọc vốn thân thuộc với những tác phẩm hàng ngàn trang của Dostoïevski — và của những tác giả Nga cùng thời — nên thường đã tỏ ra hờ hững một cách bất công và phụ bạc đối với những công trình hàng trăm trang khác của ông. Đổi với đại đa số người đọc, hình như số lượng trang giấy của tác phẩm quyết định phần lớn kích thước tinh thần của tác phẩm, và cứ như thế suy diễn, số lượng tác phẩm quyết định phần lớn tầm vóc của nhà văn trong khung cảnh văn học. Nhất là ngày nay. Một tác giả lớn dường như trước tiên phải là tác giả có một mức độ sản xuất hết sức trù phú. Kỷ nguyên của Pavlov và thuyết phản ứng có điều kiện: ai nói nhiều thì dễ được nghe hơn! Cái thời của Lão Tử, của Socrate có lẽ đã chấm dứt từ lâu rồi. Tôi dám thách ngày nay, tác giả nào chỉ viết ra một cuốn sách mỏng như Đạo Đức Kinh, hay chỉ phát biểu một ít châm ngôn thôi mà thành danh được như hai nhà hiền triết đó. Có lẽ La Rochefoucauld đã kết thúc cho cái giòng giõi ít lời đó của nhân loại. Và nhà đạo đức học này cũng đã là người của thế kỷ XVII xa xôi. Ngày nay, dường như người đọc không còn đọc kỹ nữa và nhất là không còn suy nghĩ thấu đáo về những điều mình đã đọc, và người viết dường như không còn trọng người đọc nữa, người viết dường như ngờ vực khả năng tư tưởng và thâu thập của người đọc, nên nhất nhất điều gì cũng phải dẫn giảng khúc chiết, lê thê. Nói như vậy tức là tôi chẳng hề tin rằng tư tưởng nhân loại có thể gia tăng theo thời gian, nên sách của người thời nay phải dầy hơn sách của cổ nhân.

Trở lại với Người chồng muôn thuở. Nếu tôi được phép ví von những bộ tiểu thuyết tràng giang đại hải khác của Dostoievski như những Đế Thiên Đế Thích, và cuốn tiểu thuyết Người chồng muôn thuở như cái Tháp-Chàm, thì dưới mắt nhà khảo sát chuyện môn, Đế Thiên Đế Thích và Tháp Chàm cũng đều là hai công trình đáng kể như nhau. Lẽ dĩ nhiên là hai công trình có thể gợi lên trong trí não người ta một sự liên tưởng, nhưng chẳng phải vì vậy mà người ta có thể đi đến cái kết luận hàm hồ rằng Tháp Chàm chỉ là một mô hình thâu hẹp của Đế Thiên Đế Thích. Tác phẩm Người chồng muôn thuở gọn gàng, vén khéo, với một bố cục cân bằng, chặt chẽ, một diễn tiến bình thản, trơn tru, một lối viết mực thước, đầy đủ. Nó tuyệt nhiên không phải cưu mang những khúc mắc, những xô giạt, những bề bộn thường thấy trong những tác phẩm khổng lồ khác của Dostoïevski. Tất cả sự việc ở đây, đến không thiếu và cũng không thừa. Người chồng muôn thuở là một trong số những tác phẩm hết sức hiếm hoi, nếu không nói là duy nhất, mà khi viết, Dostoïevski đã kềm hãm được mình — tôi muốn hiểu sự kềm hãm này như một điều kiện tối thượng của nghệ thuật: nghệ thuật, sau rốt, lại là kết quả nỗ lực tự chủ, nỗ lực bôi mờ cá tính của người nghệ sĩ. Người chồng muôn thuở là một tác phẩm hoàn hảo, một tác phẩm cổ điên đúng nghĩa.

Cả cái cốt chuyện của Người chồng muôn thuở cũng chẳng có gì là phức tạp, rối rắm: Một anh chồng bị cắm sừng, sau khi người vợ đã chết, tìm gặp lại gã tình địch để trang trải món nợ tinh thần của chín năm về trước... Đối với tiểu thuyết gia và cả người đọc có một trình độ am hiểu tường tận về tiểu thuyết, cốt chuyện không phải là một điều quan trọng; nó chỉ là một cái cớ của tiểu thuyết, cũng y như đề tài đối với họa sĩ vậy. Với một mối tình loạn luân mẹ ghẻ con chồng, Racine tạo thành kiệt tác phẩm Phèdre, trong khi một tác giả nào khác cũng chỉ có thể viết được một cuốn truyện nhảm nhí, hạ đẳng mà thôi. Ta cứ lấy trường hợp của Đoạn Trường Tân Thanh làm thí dụ. Thành thử, vấn đề chính yếu cho tiểu thuyết gia là viết những cái gì, viết như thế nào dọc theo cốt chuyện. Tiểu thuyết gia và nhà kể chuyện hoàn toàn khác biệt nhau, dù rằng hai người này cùng phải xử dụng cốt chuyện để đưa người đọc đi vào một thế giới của tưởng tượng. Sở dĩ, ở đây, tôi phải nêu ra vấn đề cốt chuyện của Người chồng muôn thuở, nhấn mạnh tính cách đơn giản của nó, là cốt để trình bày một hiện tượng hết sức trái ngược và có vẻ nghịch lý trong tiểu thuyết: cốt chuyện của một cuốn tiểu thuyết càng đơn giản bao nhiêu thì nội dung của nó càng phức tạp bấy nhiêu. Và một cuổn tiểu thuyết giá trị không bao giờ để cho người ta tóm lược được nó. Do đó, hoặc người ta phải đọc trọn vẹn Người chồng muôn thuở, hoặc người ta coi như chẳng hề biết gì về nó cả. Sẵn đây nói luôn: xem một cuốn phim thực hiện theo một cuốn tiểu thuyết, cho dầu là thực hiện trung thành một trăm phần trăm đi nữa, vẫn chưa thể nói là đã hiểu cuốn tiểu thuyết đó. Sách viết ra là cốt để đọc, chớ không phải để được nghe kể lại.

Mặt khác, với một cốt chuyện sơ sài như cốt chuyện của Người chồng muôn thuở, mà xây dựng nổi một tác phẩm hấp dẫn dày ngót 300 trang, quả là một công khó phi thường của tác giả. Làm thế nào cuốn hút người đọc băng qua từ trang đầu đến trang cuối một cuốn tiểu thuyết thiếu vắng hoàn toàn những tình tiết éo le, gay cấn? (Dostoïevski để lại một kinh nghiệm: cách sắp xếp tinh vi, khoa học về chi tiết và sự phân lượng chi li, hợp lý về ngôn từ. Mỗi chương phải mở ra một cái nút thắt và đồng thời buộc lại một cái nút thắt khác nữa. Chúng ta không quên là Người chồng muôn thuở, đầu tiên, đã xuất hiện từng phần trên một tờ báo. (Hầu hết những tác phẩm của Dostoïevski đều được viết ra để đăng báo dài hạn. Dostoïevski là một ông tổ của cái nghề viết tiểu thuyết feuilleton.) Trước hết, câu mở đầu của cuốn sách đã khêu gợi ngay nơi người đọc một sự tò mò nào đó. ‘‘Mùa hè đến, và trái với mọi sự chờ đợi, Veltchaninov vẫn ở lại Pétersbourg.’’ Có nhà phê bình văn học đã nhận xét rằng với vế chữ ‘‘trái với mọi sự chờ đợi’’, Dostoïevski đã đặt ngay nhân vật vào một tình thế khác thường — một tình thế tiểu thuyết. Người đọc đã để mắt đến câu mở đầu rồi, khó lòng mà không theo dõi nữa. Và rồi mỗi chương tạo ra đều đều nơi người đọc ít nhất một thắc mắc nào đó và ở mỗi chương kế tiếp, người đọc sẽ à lên khoái trá. Người đọc, mặc dù sự lười biếng cố hữu đối với việc đọc, lại mất đi lần lần sức đối kháng, để mặc cho câu chuyện dẫn dắt mình đi tới, đi tới mãi. Khi cuốn sách chấm dứt, câu cuối cùng: ‘‘Nhưng về sau này, ông hối tiếc chuyện đó biết chừng nào’’. Cũng còn khuyến dụ người đọc phải tưởng tượng thêm nữa, người đọc gần như phải tự mình xây dựng lấy một cuốn tiểu thuyết tiếp nối không thành hình. Cho đến câu cuối cùng, người đọc vẫn còn bàng hoàng, chưa tỉnh thức hẳn khỏi cái thế giới của tác phẩm, người đọc vẫn chưa chận đứng được cái đà lao tới của mình trong vùng tưởng tượng. Tôi vẫn quả quyết rằng tác phẩm hay vẫn không phải là một tác phẩm xong xuôi, toàn vẹn, mà phải là một tác phẩm còn có thể tiếp tục được nữa.

Trái với nhân vật Bovary của Flaubert, nhân vật này cũng là một đức ông chồng bị cắm sừng, một con người quê mùa, thô kệch, cù lần hao hao với mọi đức ông chồng bị cắm sừng khác của những với hài kịch bình dân, thì người chồng muôn thuở Pavel Pavlovilch Troussotzky lại thuộc thành phần thượng lưu, có học thức và biết suy nghĩ. Hơn thế nữa, gã còn là con người thủ đoạn. Những cơn say khật khưởng, những lời lẽ lèm bèm của gã dường như cũng được dự liệu trong kế hoạch mờ ám, tinh vi của gã. Nói cách khác, gã là con người có cá tinh. Nhưng khi vợ gã còn sanh tiền, gã lại cam chịu làm cái bóng mờ bên cạnh người đàn bà hư thân trắc nết đã lấn lướt chế ngự gã, làm con ngựa ngoan ngoản chỉ biết chạy đường thẳng với cặp da che mắt. Một cách an nhiên, gã đã xóa bỏ cá tính và giảm thiểu sự có mặt của mình trong một thế giới hạnh phúc lừa dối.

Tại sao không? Nếu ở đời, có hạng người chỉ tìm thấy được hạnh phúc trong sự bành trướng cá tính của họ mà chẳng chút đếm xỉa gì đến việc có thể làm tổn thương cá tính của người khác, thì cũng có một hạng người chỉ tìm thấy được hạnh phúc khi làm một tùy tinh mờ nhạt sau lưng người mà họ say mê sùng thượng và muốn được trùng lẫn. Troussotzky đã đặt trọn niềm tin nơi người vợ mà gã đinh ninh là hiền thục, chung thủy. Đã thế, gã lại còn yêu mến chân thành cả những tên đàn ông vây quanh vợ gã, không chút đắn đo ngờ vực, yêu mến họ xuyên qua cái tình yêu tuyệt vời mà gã dành cho vợ.

Nhưng đến khi vợ gã chết đi, gã mới chợt khám phá ra rằng vợ gã đã bao nhiêu lần lừa dối gã, và cả đứa con gái nhỏ của hai vợ chồng thật ra cũng chẳng phải là hòn máu của gã. Từ đó, bắt đầu cho gã tấn thảm kịch về sự sa sút của tinh thần. Như một cái lò xo bị dồn nén, bây giờ được dịp bung lên, gã thâu hồi cá tính của mình và trở thành một ‘‘con người hung tợn’’. Gã đi tìm trên các ngã đường của kinh đô Saint-Pétersbourg nóng bỏng hai kẻ tình địch của gã. Để làm gì? Giết chết họ ư? Lúc đầu, rõ ràng Troussotzky không dự tính hành động đó. Tâm lý của Troussotzky thật là phức tạp và rất dễ gây ngộ nhận, Dostoïevski để trọn một chương dành cho việc phân tách tâm trạng của Troussotzky, nhưng chung quy, chương này chỉ làm nổi bật thêm tính cách phức tạp của tâm trạng đó, hơn là soi sáng nó. Thật ra, người đọc khó thể thấu hiểu những ngoắt ngoéo trong tâm trạng của Troussotzky, nếu như người đọc chưa có một khái niệm nào về tâm lý thông thường của dân tộc Nga. Troussotzky cũng như phần đông những nhân vật khác của Dostoïevski (Raskolnikov Kirilov...) đều mang một tâm lý đầy Nga tính: tâm lý cực đoan và mâu thuẫn. Troussotzky đã chẳng ngớt đong đưa giữa hai cực đoan là sự thù ghét và tình thương mến. Nhưng sự thù ghét thì gần như vô lý ( câu chuyện ngoại tình đã kết thúc những chín năm về trước, và hơn nữa, ngườì vợ cũng đã quá vãng ), và tình thương mến thì lại bất lực trước thái độ hắt hủi của Veltchaninov, kẻ tình địch của gã. Những thủ đoạn ác hiểm của Troussotzky nhằm mục đích tra tấn kẻ tội phạm, bắt buộc nó phải nhìn nhận, cung khai tội lỗi, phải diễn lại tội lỗi — dù là chỉ diễn lại trong trí não của chính nó. Nhưng những thủ đoạn đó vẫn không gạt bỏ những biểu lộ trái ngược của tình thương mến mà tự bao giờ gã vẫn dành sẵn cho kẻ tội phạm. Troussotzky mong mỏi từ phía Veltchaninov một sự thống hối công khai, một lời van xin tha thứ, và trong trường hợp đó, gã sẽ ôm hôn người tình địch, khóc òa lên và xí xóa hết mọi chuyện. Tâm hồn của Troussotzky, dưới đáy cùng, có thể là một tâm hồn tràn đầy thánh hạnh. Tha thứ cho kẻ khác tức cứu rỗi được chính mình. Tấn thảm kịch của Troussotzky tự ý và có thật — tấn thẳm kịch của một tâm hồn thèm khát nỗi thống khổ, săn đuổi nỗi thống khổ. Đây cũng là một đặc điểm trong tâm tính thông thường của người Nga. Dostoievski viết: ‘‘Tên quái nhân quái đản nhất là một tên có những tình cảm cao thượng. Con người đã 49 tuổi đó có lẽ có thừa điều kiện để thấu hiểu chỗ tồi tệ mà sự sa sút của những tình cảm cao thượng đưa xuống.

Trong khi đó, Veltchaninov cũng tự giằng xé quyết liệt giữa cái tà tâm và lòng thành khẩn. Kỷ niệm câu chuyện ngoại tình chín năm về trước ở tinhT..., đối với Veltchaninov, đã trở thành ‘‘một sự ô nhục, và niềm hối lỗi đã dày vò hắn.’’ Nhưng Veltchaninov đã tránh né niềm hối lỗi, không dám gọi đích danh nó, không dám nhìn thẳng sự thật của chính mình. Hắn chạy tội trước chính mình trong những ngõ ngách quanh co của tâm hồn. Mọi việc tưởng chừng đã được thời gian thanh toán xong, cũng như cái tên của người đàn ông đội nón có băng tang thường gặp trên hè phố đã rơi chìm trong lãng quên mù mịt. Thời gian thường là một yếu tố mà người ta ỷ lại vào đó để tự tha thứ những lầm lỗi của mình. Câu chuyện ngoại tình đã được giấu nhẹm trong một góc tiềm thức khuất lấp nhất, đã được xếp bỏ lại một tỉnh lẻ đã mơ hồ. Nhưng người chồng muôn thuở đột ngột xuất hiện, khơi lại câu chuyện cũ, và Veltchaninov hứng chịu một cuộc tra tấn tinh thần muộn màng những chín năm sau. Veltchaninov, cũng như người đọc, bị cuốn hút trong nỗi thắc mắc là Troussotzky biết được những gì, biết được tới đâu về mối tình vụng trộm giữa Veltchaninov và người đàn bà có chồng kia. Và cũng vì thắc mắc như vậy, Veltchaninov đã kháng cự dằng dai trước những thủ đoạn tra tấn của Troussotzky. Niềm hối lỗi của Veltchaninov, cho đến lúc này, vẫn còn được che đậy, ngụy trang bên dưới sự bực dọc cùng lòng khinh nhờm đối với kẻ khác của Veltchaninov. Hắn không thiếu thành khẩn, nhưng thiếu can đảm. Thường khi, niềm hối lỗi của chúng ta, dường như vẫn cứ vướng mắc một sự gian lận vô ý thức: chúng ta sẵn sàng bẻ quặt niềm hối lỗi chiều theo những lý do thứ yếu. (Và lẽ hẳn nhiên, chúng ta chẳng bao giờ cạn những lý do thứ yếu đó.)

Trong tác phẩm Người chồng muôn thuở, Dostoïevski đã pha trộn lòng thương lâm và nỗi hung ác đối với sự bất hoàn hảo của loài người. Mọi phản tính thành khẩn, lương thiện của chúng ta bao giờ cũng phải là một công trình không toàn vẹn, một công trình bị bỏ dở bởi chính chúng ta. Điều đó, chúng ta không chối, nhưng cũng không nhận. Tác phẩm Người chồng muôn thuở mô tả cái đêm tối của lương tâm. Với họa phẩm La Ronde de Nuit, Rembrandt sáng tạo một thế giới của ánh sáng huyền diệu. Với Người chồng muôn thuở, Dostoïevski cũng soi chiếu vào cái đêm tối của lương tâm, một nguồn ánh sáng siêu phàm khiến cho người đọc bần thần, thao thức. Tôi nghĩ nên xếp loại Người chồng muôn thuở bên cạnh những tác phẩm khó hiểu và ít được biết đến khác của Dostoïevski: Les Nuits Blanches, Sous-Sol... — những tác phẩm của sự tự hỏi và không thể trả lời.

11 - 1969

TÔ THÙY YÊN