← Quay lại trang sách

Chương ba

Mấy ngày sau Giáng sinh tôi gọi điện cho Arthur (giờ chúng tôi gọi nhau bằng tên Thánh), gợi ý nên cùng nhau đón đêm giao thừa.

“William thân mến, dĩ nhiên là tôi rất vui rồi. Vui cực kỳ luôn… Tôi chẳng thể hình dung nổi còn có cuộc gặp nào vui vẻ hay may mắn hơn thế để ăn mừng năm mới đáng buồn này. Lý ra tôi định mời cậu dùng bữa tối với tôi cơ nhưng không may là tôi lại có hẹn mất rồi. Giờ thì cậu muốn chúng ta gặp nhau ở đâu?”

“Quán Troika có được không?”

“Quá được, chàng trai thân mến của tôi. Tôi phó thác bản thân vào tay cậu đấy. Tôi sợ là mình sẽ cảm thấy có phần lạc lõng giữa những gương mặt trẻ trung. Lão già râu bạc sắp xuống lỗ này… Có người nói, “Không không!” Nhưng chẳng ai trốn được. Thanh xuân thật nghiệt ngã. Đừng bận tâm làm gì- Đúng là đời mà…”

Một khi Arthur bắt đầu nói chuyện điện thoại thì sẽ rất khó can ông lại. Tôi thường để ống nghe lên bàn mấy phút, biết rằng khi nhấc lên ông vẫn đang nói liên hồi. Tuy nhiên, hôm nay tôi lại có một học sinh đang đợi học tiếng Anh nên đành ngắt lời ông.

“Tốt quá. Ở quán Troika. 11 giờ nhé.”

“Quá hợp với tôi. Trong lúc đợi, tôi sẽ cẩn thận chuyện ăn uống, đi ngủ sớm và đại khái là chuẩn bị tinh thần để tận hưởng một đêm của Wein, Weib, und Gesang*. Nhất là Wein. Đúng thế. Chúa phù hộ cho cậu, chàng trai. Tạm biệt.”

Đêm giao thừa tôi ăn bữa nhẹ ở nhà với bà chủ nhà và những người thuê nhà khác. Chắc hẳn tôi đã ngà ngà khi đến Troika, vì tôi nhớ là đã giật mình khi nhìn vào gương ở phòng treo áo và nhận ra tôi đeo một cái mũi giả. Nơi này chật cứng. Khó nhận ra ai đang nhảy và ai chỉ đơn thuần đang đứng. Sau khi tìm kiếm một hồi, tôi bắt gặp Arthur ở trong góc. Ông đang ngồi cùng bàn với một người khác, một quý ngài trẻ hơn, đeo kính và có mái tóc sẫm màu trơn bóng.

“À, cậu đây rồi, William. Chúng tôi bắt đầu sợ là bị cậu bỏ rơi đấy. Tôi xin được giới thiệu hai người bạn đáng quý nhất của mình với nhau. Cậu Bradshaw - Nam tước von Pregnitz.”

Vị Nam tước kia, có vẻ vừa khả nghi lại vừa lịch thiệp, nghiêng đầu. Nhoài người về phía tôi, như con cá tuyết bơi ngược dòng, ông ta nói: “Xin lỗi. Cậu có biết Napoli không?”

“Không. Tôi chưa từng đến đó.”

“Thứ lỗi cho tôi. Tôi xin lỗi. Tôi có cảm giác là chúng ta đã từng gặp nhau rồi.”

“Có lẽ thế,” tôi lịch sự đáp, tự hỏi sao ông ta có thể cười mà không làm rơi chiếc kính một mắt. Mắt kính không có viền cũng không có dây, nom như thể nó được bắt vít vào gương mặt đỏ nhuận nhẵn nhụi của ông ta trong một cuộc phẫu thuật kinh dị nào đó.

“Có lẽ cậu ở Juan-les-Pins năm ngoái?”

“Không, tôi nghĩ là không.”

“Vâng, tôi hiểu.” Ông ta cười vẻ tiếc nuối xã giao. “Nếu thế thì tôi lại phải xin cậu thứ lỗi.”

“Đừng nói thế,” tôi đáp. Cả hai chúng tôi đều cười sảng khoái. Arthur, rõ là hài lòng khi tôi gây ấn tượng tốt với vị Nam tước, cũng phá lên cười. Tôi uống một hơi hết li sâm-panh. Một ban nhạc ba người đang chơi: Grüss’ mir mein Hawai, ich bleib’ Dir treu, ich hob’ Dich gerne*. Những vũ công đứng dính vào nhau, nhún nhảy theo nhịp như bị liệt một phần, dưới tán ô to đùng thả từ trần nhà xuống, dập dìu trong khói thuốc và khí nóng bốc lên.

“Hai người có cảm thấy ở đây bí bách không?” Arthur lo lắng hỏi.

Ở cửa sổ là những chai đựng đầy chất lỏng màu sắc được chiếu sáng rực rỡ từ phía dưới, tím hồng, lục bảo, châu sa. Dường như chúng đang thắp sáng cả căn phòng. Khói thuốc làm mắt tôi cay cay cho tới khi nước mắt chảy thành dòng. Nhạc cứ lịm đi rồi lại nổi lên ầm ầm đáng sợ. Tôi buông tay xuống tấm rèm bằng vải dầu đen bóng trong hõm tường phía sau ghế tôi ngồi. Kì lạ thay, chúng khá lạnh. Những chiếc đèn như chuông đeo cổ cho bò trên núi An-pơ. Còn có một con khỉ trắng xù vắt vẻo trên quầy bar. Một lúc sau, khi nốc sâm-panh tới độ, tôi bắt đầu có ảo ảnh. Tôi nhấp một ngụm. Và giờ, cực kì minh triết, không chút đam mê hay căm hận, tôi nhìn thấy Đời thực sự là gì. Có điều gì đó, tôi nhớ, liên quan tới cái ô xoay tròn. Đúng thế, tôi lầm bầm với bản thân, cứ để họ nhảy đi. Họ đang nhảy. Tôi thấy vui quá.

“Ông biết không, tôi thích chỗ này đấy. Vô cùng thích!” Tôi nói với vị Nam tước kia đầy hứng khởi. Ông ta chẳng có vẻ gì ngạc nhiên.

Arthur thì đang nén ợ, mặt mày nghiêm trọng.

“Arthur thân mến, đừng buồn thế. Ông mệt ư?”

“Không, không phải mệt đâu, William. Có lẽ chỉ hơi suy tư thôi. Những dịp như thế này không thể thiếu nét trang nghiêm. Bọn thanh niên các cậu biết tận hưởng là đúng. Tôi không trách cứ gì cậu đâu. Người nào cũng có hoài niệm cả.”

“Hoài niệm là điều quý giá nhất mà chúng ta có,” vị Nam tước kia đồng tình. Khi rượu bắt đầu ngấm, gương mặt của ông ta dường như chầm chậm phân rã. Một vùng cơ liệt cứng hình thành quanh chiếc kính một mắt. Chiếc kính đang chống đỡ toàn bộ gương mặt của ông ta. Ông ta tuyệt vọng níu lấy nó bằng các cơ mặt, nhướn cặp mày xếch, miệng khẽ trĩu xuống ở hai bên mép, những hạt mồ hôi nhỏ lấm tấm dọc đường ngôi trên mái tóc sẫm màu, mỏng và mượt như xa-tanh. Bắt được ánh mắt tôi, ông ta nhoài về phía tôi, như ngoi lên khỏi mặt phẳng dường như đang chia cách đôi bên.

“Xin thứ lỗi. Tôi có thể hỏi cậu cái này chứ?”

“Xin cứ tự nhiên.”

“Cậu đã bao giờ đọc truyện Gấu Pooh của A.A. Milne chưa?”

“Rồi, tôi đọc rồi.”

“Vậy nói cho tôi xem, cậu thích nó tới mức nào?”

“Thực sự là rất thích.”

“Vậy thì tôi rất mừng đấy. Tôi cũng thế. Rất thích.”

Và giờ chúng tôi tất cả đều đứng dậy. Chuyện gì đã xảy ra? Đã là nửa đêm. Ly của chúng tôi chạm vào nhau.

“Nâng ly,” vị Nam tước nói, với khí thế của một người vừa thốt được một câu hợp tình hợp cảnh.

“Cho phép tôi được chúc cả hai người,” Arthur nói, “mọi điều thành công và hạnh phúc trong năm một ngàn chín trăm ba mươi mốt này. Mọi điều thành công…” Giọng ông lịm dần, run rẩy hóa thành im lặng. Lo lắng, ông sờ tay lên phần tóc mái dày. Một tiếng rầm dữ dội vang lên từ phía ban nhạc. Giống như toa tàu chậm rãi, ì ạch leo lên đỉnh của đường ray trên núi, chúng tôi cắm đầu lao vào Năm Mới.

Những gì diễn ra trong hai giờ tiếp theo có phần bối rối. Chúng tôi ở trong một quán bar nhỏ, ở đó tôi chỉ nhớ những chùm giấy nhún, đỏ rực, đẹp mê hồn, bay bay như rong biển trong gió lùa từ một cây quạt điện. Chúng tôi lang thang qua các con phố đông nghịt, những cô gái thổi còi giấy vào mặt chúng tôi trêu đùa. Chúng tôi ăn thịt nguội và trứng trong nhà hàng hạng nhất của Ga Friedrichstrasse. Arthur đã biến mất. Vị Nam tước kia khá bí hiểm và kín đáo về chuyện này; mặc dù tôi không tài nào hiểu nổi vì sao. Ông ta bảo tôi gọi ông ta là Kuno, và giải thích rằng mình xiết bao ngưỡng mộ tính cách của giới thượng lưu Anh. Chúng tôi ngồi trên một chiếc taxi. Vị Nam tước kể với tôi về một người bạn của ông ta, một thanh niên học trường Eton*. Người này đã từng sống ở Ấn Độ hai năm. Một sáng nọ sau khi quay về, người này đã gặp người bạn phổ thông của mình ở phố Bond. Mặc dù họ đã không gặp nhau khá lâu rồi nhưng người bạn phổ thông kia chỉ nói: “Chào cậu. Giờ e là không nói chuyện được với cậu. Mình còn phải đi mua đồ với mẹ.”

“Và tôi thấy thế rất hay,” vị Nam tước kia kết luận. “Chính là sự tự kiểm soát của người Anh, cậu thấy không.” Chiếc taxi băng qua vài cây cầu và một trạm xăng. Vị Nam tước ấn tay tôi và thuyết giảng cho tôi một bài dài về sự tuyệt vời của tuổi trẻ. Ông ta bắt đầu líu ríu và tiếng Anh của ông ta nhanh chóng trở nên tệ hại. “Cậu biết không, thứ lỗi cho tôi, tôi đã quan sát phản ứng của cậu cả tối nay. Tôi hi vọng cậu không thấy khó chịu?” Tôi tìm thấy chiếc mũi giả của mình trong túi áo và đeo nó lên. Nó hơi bị méo mó một chút. Vị Nam tước kia có vẻ ấn tượng. “Cái này cũng rất thú vị với tôi.” Ngay sau đó, tôi phải dừng xe taxi dưới một cột đèn đường để nôn.

Xe chúng tôi chạy dọc con phố được bao quanh bởi tường thành cao tối màu. Ở mé trên của bức tường, bất chợt tôi nhìn thấy một cây thánh giá. “Chúa ơi,” tôi nói. “Ông đang đưa tôi tới nghĩa trang ư?”

Vị Nam tước kia chỉ mỉm cười. Chúng tôi dừng lại; có vẻ đã tới góc tăm tối nhất của đêm nay. Tôi vấp phải thứ gì đó, và vị Nam tước kia nghĩa hiệp nắm lấy cánh tay tôi. Ông ta có vẻ đã từng đến đây rồi. Chúng tôi đi qua một cổng vòm vào trong sân. Có ánh sáng hắt ra từ mấy ô cửa sổ, thấp thoáng tiếng máy quay đĩa và tiếng cười. Bóng một cái đầu và bờ vai nhoài ra một trong mấy ô cửa sổ, hét lên: “Prosit Neujahr*!” và dữ tợn nhổ nước bọt. Bãi nước bọt hạ cánh toẹt một cái trên viên đá lát ngay cạnh chân tôi. Mấy cái đầu khác nhô lên từ các ô cửa còn lại. “Có phải là mày đấy không, Paul?” Có ai đó hét lên. “Mặt trận Đỏ*!” Một người kêu lên, và một tiếng toẹt to hơn theo sau. Tôi nghĩ lần này chắc họ phải nốc hết cả một vại bia.

Tại đây một trong những khoảnh khắc mê man của buổi tối bất ngờ xảy ra. Tôi không biết làm thế nào vị Nam tước đưa tôi lên gác. Khá là êm thấm.

Chúng tôi ở trong một căn phòng đầy người đang nhảy múa, hát hò, nốc rượu, bắt tay chúng tôi và đấm thụp thụp lên lưng chúng tôi. Có một cỗ đèn chùm đốt bằng khí ga khổng lồ được chuyển đổi sang bắt bóng đèn điện, vương đầy giấy trang trí. Tôi liếc quanh phòng, nhận diện các vật lớn nhỏ, một bát đựng cốc-tai màu đỏ bên trên nổi lềnh bềnh vỏ bao diêm rỗng, một hạt xoàn bị vỡ rớt ra từ một chuỗi vòng cổ, tượng bán thân của Bismarck* đặt trên chiếc bàn trang điểm kiểu Gô-tích - mắt tôi níu giữ chúng trong giây lát, rồi lại để tuột mất trong khung cảnh hỗn loạn đầy sắc màu. Cứ như thế, tôi đột nhiên thấy hình ảnh rung rung của chiếc đầu Arthur, cái miệng đang mở, bộ tóc giả bù xù che khuất con mắt trái. Tôi loạng choạng tìm kiếm cơ thể rồi ngã nhoài lên chiếc ghế xô-pha, ôm lấy phần thân trên của một cô gái. Mặt tôi vùi vào áo ngực ren mùi bụi. Tiếng ồn ĩ của bữa tiệc dội vào tôi như những cơn sóng ì ùng, hệt như biển. Kì lạ thay nó thật êm ái. “Đừng ngủ, anh yêu,” cô gái tôi đang ôm nói. “Không, dĩ nhiên là tôi sẽ không ngủ đâu,” tôi đáp, ngồi dậy, vuốt gọn tóc tai. Đột nhiên, tôi cảm thấy khá tỉnh táo.

Đối diện tôi là Arthur đang ngồi trong chiếc ghế bành lớn, trên đùi là một cô gái gầy gò, ngăm đen, mặt dỗi hờn. Ông đã cởi áo khoác và áo gi-lê, trông gần như đang ở nhà. Ông đeo dây yếm kẻ lòe loẹt. Tay áo cuộn lên bằng dây chun. Trừ ít tóc bao quanh đáy hộp sọ nơi gáy, ông hói hoàn toàn.

“Ông đã làm gì thế?” Tôi thốt lên. “Ông sẽ bị cảm lạnh mất.”

“Không phải là ý tưởng của tôi, William. Đúng hơn là một hành động tri ân tao nhã tới ngài Thủ tướng Sắt, anh nghĩ thế chứ?”

Giờ có vẻ tinh thần ông phấn chấn hơn hẳn so với lúc sẩm tối, và kì lạ thay, ông không hề say. Ông quả là có tửu lượng khá. Ngước lên, tôi thấy bộ tóc giả đang vắt vẻo trên mũ sắt của Bismarck. Nó quá to với ông ta.

Quay lại, tôi thấy vị Nam tước đang ngồi cạnh tôi trên ghế xô-pha.

“Chào Kuno,” tôi nói. “Làm thế nào mà ông lại tới đây được?”

Ông ta không trả lời mà nở nụ cười rạng rỡ, cứng nhắc và cố gắng rướn một bên lông mày. Có vẻ như ông ta sắp sửa gục. Chỉ một tích tắc nữa là chiếc kính của ông ta sẽ rơi xuống.

Máy hát đột ngột chuyển sang nhạc đinh tai. Hầu hết người trong phòng bắt đầu nhảy. Chủ yếu là người trẻ. Các cậu thanh niên mặc áo sơ mi; các cô tháo gài váy. Không khí phòng nồng mùi bụi, thuốc xịt và nước hoa rẻ tiền. Một phụ nữ cao lớn khuỳnh tay dẹp lối xuyên qua đám đông, mỗi bên tay cầm một ly rượu. Cô ta mặc chiếc áo lụa tay bồng màu hồng cùng chân váy trắng kẻ ngắn cũn; đôi bàn chân nhồi nhét trong đôi giày cao gót nhỏ đến chướng mắt, lồi lên những mảng thịt phủ tất lụa. Đôi má hồng bóng như sáp, còn tóc nhuộm màu vàng ánh kim, rất hợp với nửa tá vòng tay óng ánh phủ trên cánh tay dặm phấn của cô ta. Cô ta nom bí ẩn và đáng sợ hệt như một con búp bê kích cỡ người. Và hệt như búp bê, cô ta có đôi mắt màu xanh sứ trừng trừng và không biết cười, mặc dù đôi môi hé nở nụ cười để lộ mấy chiếc răng bọc vàng.

“Đây là Olga, chủ nhà,” Arthur giải thích.

“Chào cưng!” Olga đưa tôi một ly. Cô nhéo má Arthur: “Thế nào, con chim cu bé nhỏ của em?”

Cử chỉ này đại khái tới mức khiến tôi nghĩ tới bác sĩ thú y và con ngựa. Arthur khúc khích: “Khó mà nói đấy là biệt danh chuẩn không cần chỉnh với anh nhỉ? Chim cu. Em thấy thế nào, Anni?” Ông hỏi cô gái ngăm đen ngồi trên đùi mình. “Em ít nói quá đấy, em biết không? Tối nay em không tỏa sáng. Hay tại sự hiện diện của chàng thanh niên cực kì đẹp trai phía đối diện kia làm em xao nhãng? William, tôi tin là cậu đã chinh phạt thành công rồi đó. Tôi thực sự tin thế.”

Anni nghe thế, mỉm cười, nụ cười thoáng vẻ một ả điếm tự mãn. Rồi cô ta gãi đùi, ngáp. Cô ta mặc chiếc áo khoác đen nhỏ may vừa vặn và một chân váy đen, xỏ một đôi bốt cao cổ đen, thắt dây tới tận gối. Đôi bốt ấy có họa tiết màu vàng khá lạ mắt chạy quanh phần thân trên, tạo hiệu ứng đồng bộ cho cả bộ cánh của cô.

“À, cậu đang chiêm ngưỡng đôi bốt của Anni,” Arthur nói, vẻ thỏa mãn. “Nhưng cậu nên nhìn cô ấy đi đôi khác cơ. Da đỏ gót đen. Tôi đã tự đặt đôi đó cho cô ấy. Anni không đi đôi đó ra đường, cô ấy nói chúng làm cô ấy trông quá khả nghi. Nhưng thỉnh thoảng, nếu cảm thấy đặc biệt hưng phấn thì cô ấy sẽ diện chúng tới gặp tôi.”

Trong lúc đó, có mấy cô cậu ngừng nhảy nhót. Họ đứng quanh chúng tôi, tay lồng tay, mắt hau háu nhìn vào miệng Arthur với vẻ hứng thú man rợ, tựa hồ như họ chờ đợi thấy con chữ nhảy ra khỏi họng ông. Một cậu bắt đầu phá lên cười, “Ô đúng rồi,” cậu ta nhại lại. “Tôi nói Englisch*, đúng không?”

Tay Arthur hững hờ lướt qua đùi Anni. Cô ả nhấc người và gạt mạnh tay ông như con mèo hung dữ.

“Ôi, tôi e là tối nay em đang trong tâm trạng cáu bẳn! Chắc chắn tôi sẽ bị chỉnh vì vụ này. Anni là một cô nàng khắc nghiệt lắm đấy.” Arthur khịt mũi cười lớn, tiếp tục nói chuyện bằng tiếng Anh: “Cậu thấy cô ấy có một gương mặt đẹp thanh tú đấy chứ? Khá hoàn hảo theo cách của nó. Giống như Madonna của Raphael. Có hôm tôi đã làm một câu thơ trào phúng thế này. Càng đẹp càng cay, càng say càng chết, ấy là vẻ đẹp của cô nàng đấy. Tôi hi vọng là chưa có ai có tứ thơ như thế? Phải không? Cười đi nào!”

“Tôi nghĩ thực sự hay đấy.”

“Càng đẹp càng cay. Tôi mừng là cậu thấy thích. Suy nghĩ đầu tiên của tôi là, mình phải nói cho William nghe mới được. Cậu truyền cảm hứng tích cực cho tôi, cậu có biết không. Cậu làm tôi linh lợi hẳn lên. Tôi luôn nói là mình chỉ ước có ba kiểu người làm bạn: người rất giàu, người rất khôn và người rất đẹp. Cậu ý, William thân mến của tôi, cậu thuộc về nhóm thứ hai.”

Tôi có thể đoán được Nam tước von Pregnitz thuộc nhóm nào, rồi nhìn quanh xem ông ta có đang nghe không. Nhưng vị Nam tước đang bận rộn. Ông ta ngả người lên đầu kia của chiếc xô-pha trong vòng ôm của một thanh niên trẻ khỏe vận chiếc áo len của dân đấm bốc, anh này đang từ từ đổ một cốc bia đầy vào mồm ông. Vị Nam tước phản đối một cách yếu ớt; bia văng tung tóe khắp người.

Tôi chợt nhận ra mình đang ôm một cô gái. Có lẽ cô ta đã ở đó từ bấy đến giờ. Cô ta rúc vào tôi trong khi bên kia một cậu trai vụng về cố gắng thó ví của tôi. Tôi mở miệng định tri hô, nhưng rồi nghĩ lại. Sao phải làm ầm ĩ vào cuối một buổi tối vui vẻ dường này? Cứ để cậu ta lấy tiền của tôi. Cùng lắm tôi cũng chỉ còn ba mác. Gì thì gì, vị Nam tước kia sẽ trả hết. Lúc đó, tôi nhìn gương mặt ông ta sắc nét tới từng lỗ chân lông. Giờ tôi mới thấy ông ta đã đi nhuộm da. Vùng da quanh mũi ông ta vừa bắt đầu bong. Hay hớm ghê! Tôi nâng cốc về phía vị Nam tước. Mắt kính lồi của ông ta lóe lên qua cánh tay của thanh niên đấm bốc kia và ông ta khẽ cử động đầu. Ông ta không nói nên lời. Khi tôi quay lại, Arthur và Anni đã biến mất.

Mơ hồ muốn tìm họ, tôi loạng choạng đứng lên, chỉ để bị cuốn vào điệu nhảy vừa trỗi lên với sự cuồng nhiệt mới. Tôi bị ôm eo, vòng cổ, hôn, ôm, cù, lột áo; tôi nhảy với các cô gái, với các cậu trai, với hai hay ba người cùng lúc. Có lẽ khoảng năm hay mười phút gì đó tôi mới tới được cánh cửa phía đầu kia của căn phòng. Đằng sau cánh cửa là một lối đi tối như hũ nút, le lói một tia sáng phía cuối. Lối đi lèn chặt đồ đạc tới mức người ta chỉ có thể xoay ngang người nhích tới. Tôi vặn vẹo luồn lách được nửa đường thì nghe thấy tiếng kêu vật vã vang lên từ căn phòng sáng đèn phía trước.

“Nein, nein*. Hãy xót thương! Ôi ôi! Hilfe! Hilfe*!”

Không thể nhầm được. Họ đang giữ Arthur ở trong đó, trấn lột và đánh đập ông. Tôi lý ra đã có thể lường trước điều này. Chúng tôi là những kẻ ngốc nhất trần đời khi thọc mũi vào một nơi như thế này. Chúng tôi chỉ có thể tự trách mình. Chất cồn làm tôi gan dạ. Khó khăn tiến về phía cánh cửa, tôi đẩy mở.

Người đầu tiên tôi nhìn thấy là Anni. Cô ả đang đứng giữa phòng. Arthur khúm núm trên sàn nhà dưới chân cô ả. Ông đã cởi bỏ vài món quần áo, và giờ đang ăn mặc thiếu vải nhưng vô cùng chỉnh tề: quần lót lụa màu hoa cà, thắt lưng cao su buộc bụng và một đôi tất. Một tay ông đang cầm chổi, tay kia cầm một miếng giẻ lau giày màu vàng. Olga đứng phía sau ông, vung cây roi da nặng.

“Lão gọi đó là sạch à, đồ con lợn!” Cô ta ré lên, chất giọng khủng khiếp. “Làm lại ngay! Và nếu ta còn tìm thấy một hạt bụi nào trên đó thì ta sẽ quất cho lão tới lúc không thể đặt mông xuống ngồi cả tuần.”

Vừa nói cô ta vừa quất Arthur một vết cứa sắc ngọt ngang mông. Ông thốt lên một tiếng the thé đau đớn xen lẫn khoái lạc, và bắt đầu hăng hái đánh bóng đôi bốt của Anni.

“Tôi xin! Tôi xin!” Giọng Arthur vút lên và sung sướng, như một đứa trẻ vờ vĩnh. “Dừng lại đi! Em giết tôi mất.”

“Giết là quá phúc đức cho lão,” Olga vặc lại, quất thêm một cú nữa. “Ta sẽ lột da lão!”

“Ôi! Ôi! Dừng lại! Tôi xin! Ôi!”

Họ mê mải ồn ĩ tới mức không nghe thấy tôi mở toang cánh cửa. Giờ thì họ đã nhìn thấy tôi. Sự hiện diện của tôi dường như không khiến họ nao núng chút nào. Ngược lại, có vẻ như nó lại tăng thêm phần hưng phấn cho Arthur.

“Ôi trời! William, cứu tôi với! Không ư? Cậu tàn nhẫn hệt như bọn họ vậy! Anni, tình yêu của tôi! Olga! Cứ nhìn cô ả đối xử với tôi mà xem! Làm sao mà biết được họ sẽ bắt tôi làm gì chứ!”

“Vào đi, cưng!” Olga kêu to, giọng rít lên như hổ cái. “Cứ đợi đó! Rồi sẽ đến phiên cưng! Ta sẽ làm cho cưng phải khóc đòi mẹ!”

Cô ta vung roi trêu đùa khiến tôi quay đầu thoái lui theo lối vừa tới, vẳng phía sau là tiếng kêu khóc vừa vui sướng vừa đớn đau của Arthur.

Vài giờ sau đó tôi tỉnh dậy, thấy mình co quắp trên sàn nhà, mặt áp vào chân ghế xô-pha. Đầu tôi nóng rẫy còn xương khớp thì nhức mỏi. Bữa tiệc đã kết thúc. Nửa tá người nằm lay lắt bất tỉnh quanh căn phòng lộn xộn, trong đủ mọi tư thế thiếu thoải mái. Ánh sáng ban ngày xuyên qua khe cửa chớp.

Sau khi chắc chắn cả Arthur và Nam tước đều không nằm trong đống vạ vật kia, tôi bước qua người bọn họ, ra khỏi căn hộ, xuống gác, băng qua sân và đi ra phố. Cả tòa nhà dường như đầy những kẻ say rượu đã chết. Tôi không gặp một ai.

Tôi thấy mình đang đứng trên một con phố hậu gần kênh đào, không quá xa Ga Möckernbrücke, cách nơi tôi sống khoảng nửa tiếng đi bộ. Tôi không có tiền để đi tàu điện. Nhưng gì thì gì, đi bộ sẽ tốt cho tôi. Tôi tập tễnh về nhà, dọc theo những con phố thê lương nơi ruy băng treo lủng lẳng trên khung cửa sổ của các tòa nhà trống rỗng ẩm thấp, hoặc rối nùi trên những cành cây ẩm ướt. Khi tôi về, bà chủ nhà chào đón tôi bằng tin Arthur đã gọi cho tôi ba lần để hỏi thăm.

“Tôi luôn nghĩ ông ấy là một quý ông lịch thiệp. Lại rất chu đáo nữa.”

Tôi đồng tình với bà, rồi đi ngủ.