Chương bốn
Frl.* Schroeder, bà chủ nhà của tôi, rất thích Arthur. Qua điện thoại, bà luôn gọi ông là Herr* Doktor, cảnh giới cao nhất cho sự ngưỡng mộ của bà.
“A, có phải là ông không, Herr Doktor? Dĩ nhiên tôi nhận ra giọng của ông chứ; tôi nhận ra ngay ấy. Sáng nay nghe giọng ông mệt thế. Ông lại ngủ muộn phải không? Ôi, không, không, ông đừng mong một bà già như tôi tin vào chuyện đó; tôi biết đàn ông như thế nào khi họ nói là “đi đàn đúm”… Ông nói gì cơ? Vớ vẩn! Ông đúng là khéo nói quá cơ! Chậc, chậc, đàn ông các vị đều một giuộc cả; mười bảy tới bảy mươi… Ui chao! Tôi ngạc nhiên về ông đấy… Không, dĩ nhiên là tôi không! Ha, ha! Ông muốn nói chuyện với Herr Bradshaw à? Dĩ nhiên, sao tôi lại quên chứ. Tôi sẽ gọi cậu ấy ngay.”
Khi Arthur tới uống trà với tôi, Frl. Schroeder sẽ mặc chiếc đầm nhung đen, cổ khoét sâu, và đeo chuỗi ngọc trai Woolworth. Má dặm phấn đỏ và mí kẻ đậm, bà sẽ mở cửa cho ông, nom hệt như hình biếm họa Nữ hoàng Mary xứ Scots. Tôi chia sẻ nhận xét của mình với Arthur, ông rất tâm đắc.
“Thật là, William, cậu ác khẩu quá chừng. Cậu chua ngoa quá. Tôi bắt đầu thấy sợ cái lưỡi của cậu rồi đấy, thật sự.”
Sau lần đó, ông thường gọi Frl. Schroeder là Nữ hoàng. La pine* Schroeder cũng là một biệt hiệu ông ưa thích.
Bất kể vội vã đến mức nào, ông vẫn luôn có thời gian cho vài phút đòng đưa với bà, tặng bà hoa, kẹo, thuốc lá, và tỏ bày sự đồng cảm với tình trạng sức khỏe mong manh lên xuống thất thường của Hanns, con chim hoàng yến của bà. Khi Hanns chết thì Frl. Schroeder rơi lệ, tôi nghĩ Arthur cũng sắp khóc theo. Ông buồn bã một cách chân thành. “Ôi, ôi,” ông cứ nói mãi. “Thiên nhiên thực sự rất tàn nhẫn.”
Những người bạn khác của tôi không quá nhiệt tình về Arthur. Tôi giới thiệu ông với Helen Pratt, nhưng cuộc gặp mặt không thành công. Khi đó, Helen đang là phóng viên thường trú Berlin cho một tờ tuần san chính trị London, và kiếm thêm thu nhập bằng việc dịch thuật và dạy tiếng Anh. Chúng tôi thi thoảng giới thiệu học sinh cho nhau. Cô ấy đẹp, tóc nhạt màu, dáng mảnh khảnh, từng học ở Đại học London và coi chuyện Tình dục rất nghiêm túc. Cô quen với việc sống trong xã hội của đàn ông cả đêm lẫn ngày và chả mấy khi đi cùng với các cô gái khác. Cô có thể đọ tửu lượng với hầu hết cánh phóng viên người Anh, và thỉnh thoảng vẫn làm vậy, nhưng chủ yếu là do vấn đề nguyên tắc chứ chẳng phải vì thích thú gì. Lần đầu tiên gặp nhau, cô sẽ gọi luôn bạn bằng tên Thánh và giới thiệu rằng bố mẹ cô là chủ tiệm thuốc lá và kẹo bánh ở Shepherd’s Bush. Đó là phương pháp “kiểm tra” tính cách của cô; qua phản ứng của bạn trước thông tin đó, cô sẽ đưa ra đánh giá hoặc là khinh thường hoặc chấp nhận bạn. Hơn tất thảy, Helen khó chịu khi bị nhắc nhở rằng cô là phụ nữ, trừ khi trên giường.
Quá trễ để nhận thấy Arthur không hề có chút kĩ thuật ứng phó với kiểu người như cô. Ngay từ giây phút đầu tiên ông thực sự sợ cô. Cô chuốt sạch sành sanh chút lịch thiệp bóng bẩy che chắn cho tâm hồn ủy mị của ông. “Chào hai anh,” cô nói, tự nhiên chìa tay qua tờ báo cô đang đọc. (Chúng tôi đã hẹn nhau tại một nhà hàng nhỏ phía sau nhà thờ Tưởng niệm.)
Arthur cảnh giác nắm lấy bàn tay cô chìa ra.
Ông lúng túng tựa cạnh bàn, nhấp nhổm, chờ đợi nghi thức mà ông quen thuộc. Chẳng có gì xảy ra. Ông hắng giọng, ho: “Không biết cô có cho phép tôi ngồi xuống?”
Helen, đang định đọc to điều gì đó trong báo, liếc lên nhìn ông như thể cô đã quên mất sự tồn tại của ông và ngạc nhiên khi thấy ông vẫn ở đó.
“Sao thế?” Cô nói. “Chẳng phải là có đủ ghế sao?”
Bằng cách nào đó, chủ đề xoay quanh đời sống Berlin về đêm. Arthur khúc khích và trở nên tinh quái. Helen, người chuyên làm việc với thống kê và các thuật ngữ phân tâm học, nhìn ông khó hiểu và bất mãn. Sau một hồi, Arthur ranh mãnh nhắc tới “đặc sản của nhà Kaufhaus des Westens*.”
“Ồ, ông muốn nói tới mấy cô điếm ở góc đằng kia,” Helen đáp với chất giọng tươi sáng thản nhiên của một cô giáo sinh học, “ăn vận diêm dúa để kích thích những kẻ tâm thần bái vật?”
“Ôi trời đất ơi, ha ha,” Arthur hinh hích cười, ho và cuống quýt nghịch bộ tóc giả, “hiếm khi tôi lại được gặp một người cực kì, à thì… tân tiến như thế này, hay tôi nên nói là, à ừm… một phụ nữ trẻ hiện đại…”
“Giời ôi!” Helen ngửa ngật cổ ra sau, cười khinh khỉnh. “Tôi đã không còn được gọi là phụ nữ trẻ từ hồi tôi giúp mẹ trông cửa hàng vào các chiều thứ Bảy.”
“Cô… ừm… cô ở thành phố này lâu chưa?” Arthur vội hỏi. Mơ hồ nhận thấy mình đã phạm lỗi, ông cho là mình nên đổi chủ đề. Tôi nhìn ánh mắt Helen ném về phía ông và hiểu rằng thế là xong.
“Nếu cậu nghe lời tôi, Bill ạ,” cô ấy nói với tôi trong lần gặp tiếp theo của cả hai, “thì cậu không nên tin lão đó, dù chỉ là một câu.”
“Tôi sẽ không đâu.”
“Ôi, tôi biết cậu. Cậu ủy mị, như hầu hết đám đàn ông. Cậu phủ màu hồng lên người ta thay vì nhìn thẳng vào thực tế. Đã bao giờ cậu nhìn cái mồm của lão ấy chưa?”
“Thường xuyên.”
“Eo ôi, trông kinh tởm. Tôi không thể nhìn nổi luôn. Ngoẵng ra như cóc.”
“Chậc,” tôi cười lớn, nói, “đồ là tôi có cảm tình với cóc rồi.”
Không thối chí vì thất bại này, tôi thử giới thiệu Arthur với Fritz Wendel. Fritz là người Mỹ gốc Đức, trai thành thị trẻ trung, thời gian rảnh thích nhảy nhót và chơi bài brit. Anh ta có hứng thú với giới họa sĩ và nhà văn, cũng có được vị trí nhất định trong giới nhờ làm việc tại một đại lý nghệ thuật thời thượng. Chủ đại lý không trả tiền cho anh ta nhưng Fritz có thể chịu chi cho sở thích này vì anh ta sẵn tiền. Fritz có khiếu buôn chuyện, thậm chí đã đạt đến mức tài năng, và có thể là một thám tử tư hạng nhất.
Chúng tôi tới nhà Fritz uống trà. Anh ta và Arthur nói chuyện về New York, hội họa ấn tượng, và những tác phẩm chưa xuất bản của nhóm Wilde. Arthur tinh ranh và biết nhiều chuyện đến kinh ngạc. Đôi mắt đen láy của Fritz lấp lánh khi ông ta ghi chép lại những câu thơ trào phúng để dùng cho sau này, tôi mỉm cười, cảm thấy hài lòng và tự hào. Tôi tự thấy mình có trách nhiệm với sự thành bại của cuộc phỏng vấn. Tôi sốt sắng lo âu không biết liệu Arthur có được chấp thuận, có lẽ vì tôi rốt cuộc cũng muốn được thuyết phục hoàn toàn.
Chúng tôi chia tay, cùng hứa hẹn sẽ sớm gặp lại. Một hay hai ngày sau, tôi tình cờ gặp Fritz trên phố. Từ cung cách chào tôi hồ hởi, tôi biết ngay anh ta có điều gì đó thậm cay nghiệt muốn nói với tôi. Trong mười lăm phút, anh ta liên thiên vui vẻ về bài brit, về câu lạc bộ đêm và mối tình nồng mới nhất của anh ta, một nữ nghệ sĩ điêu khắc nổi tiếng; nụ cười xấu xa của anh ta cứ ngoác ra nãy giờ vì suy nghĩ về cái điều bí mật mà anh ta đang cố ghìm nén. Mãi rồi anh ta cũng thốt ra.
“Có còn gặp ông bạn Norris của anh không?”
“Còn,” tôi hỏi. “Sao thế?”
“Chẳng sao cả,” Fritz ngân nga, ánh mắt ranh mãnh soi xét mặt tôi. “Thực sự là tôi đang canh chừng cho anh thôi.”
“Anh nói thế là có ý gì?”
“Tôi có nghe được mấy thứ kì quặc về ông ta.”
“Thật ư?”
“Có thể không đúng. Anh biết người ta bàn tán kiểu gì rồi đấy.”
“Và tôi biết anh nghe ngóng kiểu gì rồi, Fritz.”
Anh ta nhe răng cười, không hề tự ái. “Người ta đang xôn xao thực ra Norris là một gã xảo trá mạt hạng.”
“Tôi phải nói là, “mạt hạng” không phải là từ có thể dùng với ông ấy.”
Fritz cười vẻ kẻ cả, khoái trá.
“Tôi dám cá là anh sẽ ngạc nhiên khi biết ông ta đã ở tù?”
“Ý anh là, tôi sẽ ngạc nhiên khi biết bạn bè anh nói rằng ông ấy đã ở tù, phải không? Chà, không hề. Bạn anh nói gì chả được.”
Fritz không đáp lại, chỉ tiếp tục cười.
“Ông ấy làm sao mà phải vào tù chứ?” Tôi hỏi.
“Tôi không biết,” Fritzl lèm bèm. “Nhưng có thể đoán ra.”
“ừm, tôi chịu.”
“Bill này, thứ lỗi cho tôi.” Giờ anh ta đổi tông giọng. Anh ta trở nên nghiêm túc, đặt tay lên vai tôi. “Tôi muốn nói, vấn đề chính là thế. Thực ra, hai ta, chả thằng nào thèm quan tâm cả. Nhưng chúng ta còn có những người khác cần nghĩ tới ngoài bản thân, đúng không? Giả sử như Norris bắt cóc đứa trẻ con nào đấy rồi lột sạch đồng xu cuối cùng của nó thì sao?”
“Nếu thế thì thật chấn động quá.”
Fritz từ bỏ. Phát súng cuối cùng của anh ta là: “Thôi thì đừng bảo tôi không nói trước.”
“Không, Fritz à, tôi chắc chắn sẽ không làm thế.”
Chúng tôi nhẹ nhàng chia tay.
Có lẽ Helen Pratt đã đúng về tôi. Từng bước từng bước tôi đang dựng nên một bức màn lãng mạn quanh Arthur, và ghen ghét khi nó bị xáo trộn. Hẳn là tôi sẵn sàng vui thú với ý nghĩ ông thực ra là một tên tội phạm nguy hiểm; nhưng tôi chắc chắn mình chưa bao giờ thực sự tin vào đó dù chỉ một khắc. Thế hệ tôi, gần như ai cũng hiếu kì về tội phạm. Tôi thích Arthur bằng một thứ tình cảm được gia cố bằng sự cố chấp. Nếu bạn bè tôi không thích ông vì cái miệng của ông hay quá khứ của ông thì phần thiệt là về họ; còn tôi, tự phỉnh phờ bản thân, tôi thấy mình sâu sắc hơn, nhân văn hơn, sành sỏi bản chất con người hơn họ. Và nếu như, trong những lá thư tôi gửi về Anh, tôi thi thoảng gọi ông là “một gã lừa đảo kì thú nhất”, thì tôi cũng chỉ có ý rằng tôi muốn hình dung ông là một con người đáng ca ngợi, liều lĩnh nhưng độc lập, ngông cuồng nhưng điềm tĩnh. Tất cả những điều này, thực ra, đau đớn thay và hiển nhiên thay, ông không hề như vậy.
Arthur tội nghiệp! Hiếm khi tôi gặp ai thần kinh yếu ớt dường ấy. Có lúc, tôi bắt đầu tin rằng ông hẳn phải đang chịu chứng phức cảm ngược đãi thể nhẹ. Tôi có thể nhìn ra điều đó ở ông bởi ông thường ngồi đợi tôi ở góc kín đáo nhất trong nhà hàng ưa thích của cả hai, chán nản, vô định, bất an; hai bàn tay chồng lên nhau lãnh đạm trong lòng, đầu nghiêng gượng gạo vẻ nghe ngóng, tựa hồ như ông lo sợ sẽ bị giật mình bởi một tiếng nổ lớn bất cứ lúc nào. Tôi có thể nghe thấy qua tiếng nói trong điện thoại, rằng ông đang cẩn trọng ghé sát vào ống nói hết mức có thể, giọng lúc nào cũng khẽ khàng như tiếng thì thầm.
“Xin chào. Là tôi đây. Vậy là cậu đã tới bữa tiệc đó? Tốt. Thế bao giờ ta gặp nhau được đây? Cứ giờ cũ, ở nhà cái người mà ai cũng biết ấy nhé. Và nhớ bảo cả người kia tới nữa. Không, không. Herr D.
Đặc biệt quan trọng đấy. Tạm biệt.”
Tôi bật cười. “Ai mà nghe ông nói có khi lại nghĩ ông là một kẻ chủ mưu mất.”
“Một kẻ chủ mưu cứng cựa ấy chứ,” Arthur khúc khích. “Không, tôi đảm bảo với cậu, William thân mến của tôi, tôi có thảo luận cái gì đâu ngoài việc bán mấy món nội thất cũ mà tôi tình cờ, ờm, quan tâm về mặt giá cả.”
“Thế thì tại sao mà phải bí mật thế?”
“Tai vách mạch dừng mà.”
“Nhưng nếu có nghe được thì họ cũng đâu hứng thú gì chứ?”
“Thời buổi này không thể sơ sểnh được đâu,” Arthur mập mờ đáp.
Tới lúc này, tôi đã mượn và đọc gần hết chỗ sách “kì thú” của ông. Hầu hết đều dở tệ. Các tác giả viết bằng giọng văn trung lưu cấp thấp, khệnh khạng, gắng gượng khêu gợi, và bất chấp những nỗ lực thành khẩn cho ra chất khiêu dâm, đều trở nên mông lung khó chịu ở những đoạn quan trọng nhất. Arthur có nguyên bộ “Đời Tôi, Tình Tôi” có chữ kí. Tôi đã hỏi ông liệu ông có quen Frank Harris* không.
“Hơi hơi. Cũng vài năm trước rồi. Tin ông ấy qua đời là một cơn sốc lớn với tôi. Ông ấy là thiên tài theo cách rất riêng. Rất dí dỏm. Tôi nhớ ông ấy có lần đã nói với tôi ở Louvre rằng, ‘Norris thân mến của tôi, cậu và tôi là những quý ngài phiêu lưu lịch thiệp cuối cùng’ Ông ấy có thể rất sắc sảo, cậu biết đấy. Người ta chẳng bao giờ quên những gì ông ấy nói về họ.”
“Và điều đó,” Arthur thong thả tiếp lời, “khiến tôi nhớ tới một câu hỏi mà có lần Ngài Disley quá cố đã hỏi tôi. ‘Cậu Norris’ ông ấy hỏi, ‘cậu có phải là một kẻ phiêu lưu?’”
“Quả là một câu hỏi phi thường. Tôi không gọi đó là dí dỏm. Ông ta quả là rất thô lỗ.”
“Tôi đáp lại: ‘Chúng ta đều là kẻ phiêu lưu. Cuộc đời là một chuyến phiêu lưu’. Khá tỉnh, đúng không?”
“Đúng là câu trả lời mà ông ta xứng đáng nhận được.”
Arthur ý tứ ngắm nghía móng tay.
“Tôi khá là phong độ trên bục nhân chứng đấy.”
“Ý ông là câu hỏi đó được đưa ra trong một phiên xét xử?”
“Không phải là phiên xét xử, William. Đó là một vụ kiện. Tôi khi đó đang kiện tờ Bản Tin Tối tội phỉ báng.”
“Vì sao, họ đã nói gì về ông?”
“Bọn họ đã đặt điều về một quỹ công mà tôi được tín thác.”
“Dĩ nhiên là ông thắng kiện?”
Arthur cẩn trọng vuốt cằm. “Họ không thể bưng bít lời buộc tội của họ. Tôi được bồi thường năm trăm bảng.”
“Ông có hay đi kiện tội phỉ báng không?”
“Năm lần,” Arthur khiêm nhường thú nhận. “Thêm ba dịp khác xử lý xong xuôi không cần ra tòa.”
“Và lần nào ông cũng được tiền bồi thường?”
“Một cái gì đấy. Toàn thứ vô giá trị. Danh dự thấy thỏa đáng là được.”
“Chắc cũng thành nguồn thu nhập ấy nhỉ.”
Arthur làm điệu bộ không tán thành. “Tôi làm gì đến nỗi như thế chứ.”
Cuối cùng, đây dường như chính là thời khắc cho câu hỏi của tôi.
“Nói cho tôi nghe, Arthur. Đã bao giờ ông vào tù chưa?”
Ông chậm rãi gãi cằm. Sâu thẳm trong đôi mắt xanh lơ trống rỗng của ông toát lên vẻ kì lạ. Nhẹ nhõm, có lẽ thế. Hoặc thậm chí, tôi hình dung, một kiểu kiêu hãnh được ve vuốt.
“Vậy là cậu đã nghe về vụ đó?”
“Đúng thế,” tôi nói dối.
“Hồi đó nó được đưa tin rộng rãi lắm.” Arthur khép nép xếp tay trên cán ô. “Cậu đã tình cờ đọc toàn bộ bản cáo trạng chưa?”
“Chưa. Không may là chưa.”
“Tiếc quá. Tôi lý ra có thể cho cậu mượn mấy mẩu báo cắt ra từ tờ Press, nhưng không may là chúng đã bị mất trong một lần chuyển nhà của tôi. Tôi lý ra đã có thể lắng nghe quan điểm công tâm của cậu… Tôi cho là quan tòa đã có định kiến bất công với tôi ngay từ đầu. Hồi đó tôi mà có kinh nghiệm như bây giờ thì chắc chắn tôi đã được xử vô tội. Cố vấn của tôi mách nước cho tôi sai toét. Tôi lý ra nên đệ đơn kháng cáo, nhưng anh ta cứ đảm bảo với tôi là không thể nào kiếm được đủ bằng chứng. Thẩm phán thì rất khó khăn với tôi. Ông ta thậm chí còn đơm đặt rằng tôi đã tham gia vào một vụ tống tiền nữa chứ.”
“Thế cơ đấy! Đúng là quá thể.”
“Chính thế.” Arthur buồn bã lắc đầu. “Đáng buồn thay, não trạng pháp lý của Anh đôi lúc không sâu sắc chút nào. Nó không thể phân biệt được những sắc thái tinh vi của hành động.”
“Vậy thì… ông thụ án bao nhiêu… bao nhiêu lâu?”
“Mười tám tháng ở trại số hai. Wormwood Scrubbs.”
“Mong là họ đối xử tử tế với ông?”
“Họ cứ theo luật mà làm thôi. Tôi không thể phàn nàn gì… Với lại, sau khi được thả, tôi thấy hứng thú với việc cải tổ hình sự. Tôi đã đăng kí vào rất nhiều hội nhóm hoạt động vì mục đích đó.”
Có chút ngưng lại, rõ ràng Arthur đang đắm mình trong những kí ức đau thương. “Tôi nghĩ,” hồi lâu ông tiếp lời, “tôi có thể tuyên bố chắc nịch rằng trong toàn bộ sự nghiệp của mình, tôi rất ít khi làm việc gì mà tôi biết là trái với pháp luật… Mặt khác, tôi đã và luôn luôn khẳng định rằng việc chỉnh đốn những cá nhân như tôi đây chính là đặc quyền của những thành viên giàu có hơn nhưng kém thông tuệ hơn trong cộng đồng. Tôi hi vọng là cậu cũng cùng phe với tôi.”
“Phe không thuộc đám thành viên giàu có hơn,” tôi nói. “đúng thế.”
“Tôi rất mừng. Cậu biết đấy, William, tôi cảm thấy dần dần chúng ta có thể đồng tình về nhiều vấn đề… Những điều dối trá mua được bằng rất nhiều tiền, chực chờ người ta tin lấy tin để, chúng quả là phi thường. Đúng thế, tin lấy tin để. Kể cả bây giờ cũng thế. Có điều người ta phải tinh ý mới nhận ra được. Và phải có cả tiền nữa. Chắc chắn là phải cần tới một khoản tiền nhất định. Có ngày tôi sẽ kể với cậu về mấy phi vụ của tôi và một gã người Mỹ tin mình là hậu duệ trực hệ của Peter Đại Đế. Đó là câu chuyện hết sức khai mở đấy.”
Có lúc Arthur kể về thuở thơ ấu. Khi còn nhỏ, ông yếu ớt và không được tới trường học. Là con một, ông sống cùng bà mẹ góa, người mà ông ngưỡng mộ. Hai mẹ con cùng nhau học văn học và nghệ thuật; cùng nhau tới thăm Paris, Baden-Baden, Rome, dịch chuyển không ngừng trong xã hội thượng lưu xa hoa, từ lâu đài tới hoàng cung, từ hoàng cung tới biệt viện*, dịu dàng, duyên dáng, đáng yêu; không ngừng yêu thương quan tâm tới sức khỏe của nhau. Bị ốm, phải nằm trong những phòng có cửa thông, hai mẹ con sẽ xin chuyển giường để có thể nói chuyện với nhau mà không cần gân giọng. Kể chuyện, bông đùa dăm ba câu vui vẻ, họ động viên tinh thần nhau qua những đêm trắng lo âu. Hồi phục, họ được đẩy trên những chiếc xe lăn, song hành xuyên qua những khu vườn ở Lucerne.
Cuộc sống thanh bình không tưởng ấy vốn dĩ phải sớm kết thúc. Arthur phải lớn lên, phải tới Oxford. Mẹ ông phải chết. Bảo bọc ông bằng tình mẫu tử tới phút cuối, bà không cho người hầu đánh điện cho con trai chừng nào bà còn tỉnh táo. Tới lúc họ không tuân lệnh bà thì đã quá muộn. Người con trai yếu ớt kia đã không phải chịu cảnh sinh li tử biệt bên giường bệnh, như chủ đích của bà.
Sau khi bà qua đời, sức khỏe của ông cải thiện kha khá vì ông phải tự đứng trên đôi chân mình, tình trạng đau xót mới mẻ này cũng được xoa dịu đáng kể nhờ phần tài sản ông được thừa kế. Ông có đủ tiền để sống, theo chuẩn của xã hội London trong những năm chín mươi*, được ít nhất mười năm. Ông tiêu hết trong chưa đầy hai năm. “Chính vào lúc đó,” Arthur nói, “lần đầu tiên tôi mới học được ý nghĩa của từ ‘xa hoa’. Từ đó trở đi, thứ lỗi cho tôi, tôi đã buộc phải bổ sung các từ khác vào vốn từ vựng của mình; có những từ thô kệch và xấu xí.”
“Tôi ước,” ông thản nhiên buông lời, vào một dịp khác, “giờ tôi có tiền. Tôi biết phải làm gì với nó.” Những ngày đó ông mới chỉ hai mươi hai và không biết phải làm gì. Tiền bay như gió, đổ cả vào miệng ngựa và quần tất của các nàng vũ công ba-lê. Gan bàn tay của đám người hầu dính chặt vào nó như gọng kìm sắt. Tiền biến thành quần lụa áo là ông thải ra sau một hay hai tuần, với sự khinh miệt, cho người đầy tớ; thành mớ đồ phương đông hầm bà lằng mà bằng cách nào đó, khi ông đem chúng về căn hộ, lại hóa ra nồi sắt cũ han gỉ; thành những bức tranh phong cảnh của những thiên tài phái ấn tượng mà đến sáng hôm sau lại hóa đống nguệch ngoạc như con nít vẽ. Bảnh tỏn và dí dỏm, lại sẵn tiền đốt, ông chắc hẳn là một trong những gã độc thân trẻ trung đáng giá trong giới của mình; nhưng đến phút cuối chính những kẻ cho vay, chứ không phải các quý cô, mới là người tìm đến ông.
Một ông chú cứng nhắc đã hằn học đề nghị cứu vớt ông, với các điều kiện ràng buộc. Arthur được thu xếp để học ôn thi làm luật sư. “Và tôi thề là tôi đã cố. Tôi không thể kể cho cậu nghe những nỗi đau đớn mà tôi phải chịu đựng. Sau một hay hai tháng tôi buộc phải hành động.” Khi tôi hỏi hành động đó là gì, ông im lặng. Tôi hiểu rằng ông đã tìm cách nào đó để tận dụng những mối quan hệ xã hội của mình. “Hồi đó chuyện này có vẻ như rất bẩn thỉu,” ông nói tiếp vẻ bí hiểm. “Tôi lại là một cậu trai quá ư nhạy cảm, cậu biết đấy. Giờ nghĩ lại lại thấy muốn cười.”
“Từ giây phút ấy tôi bắt đầu lập nghiệp; và không như vợ của Lot*, tôi chưa bao giờ nhìn lại. Có những thăng trầm… thăng trầm. Phần thăng thì giờ đã là một phần của lịch sử châu Âu. Phần trầm thì tôi không muốn nhớ tới. Chậc, chậc. Như thành ngữ đã nói, đâm lao rồi thì phải theo lao thôi.”
Trong khoảng xuân hè ấy, tôi nghĩ lại, những thăng trầm của Arthur cứ đến liên tục. Ông chưa bao giờ thực sự sẵn lòng chia sẻ về chúng, nhưng tinh thần của ông luôn phản ảnh rõ ràng tình trạng tài chính của ông. Việc buôn bán “đồ cũ” (hay bất cứ cái gì trên thực tế) có vẻ đem lại khoản thu tạm thời. Rồi, vào tháng Năm, ông quay lại sau một chuyến đi ngắn tới Paris, rất rạng rỡ, thông báo “có chút sắt vụn đang nung” bằng giọng thận trọng.
Đằng sau tất thảy những giao dịch ấy là bóng dáng của gã Schmidt đầu bí ngô đáng sợ. Arthur có vẻ khá sợ viên thư kí của mình, mà cũng chẳng có gì là lạ. Schmidt quá ư hữu dụng; anh ta biến lợi ích của ông chủ thành của mình. Anh ta là một trong những kẻ không chỉ có năng lực mà còn có cả niềm ham mê với những việc bẩn thỉu của ông chủ. Từ những nhận xét thảng hoặc của Arthur trong những giây phút ít bí mật hơn, dần dà tôi có thể lờ mờ đoán được trách nhiệm và tài năng của viên thư kí kia. “Với bất kì ai trong tầng lớp của chúng ta, nói một số chuyện nhất định với một số người nhất định quả rất khó khăn. Nó làm tổn thương lí trí mong manh của chúng ta. Con người ta phải vô cùng thô tục.” Schmidt có vẻ như chả biết khó khăn là gì. Anh ta dường như luôn sẵn sàng nói bất cứ điều gì với bất cứ ai. Anh ta đối diện các chủ nợ với lòng quả cảm và kĩ thuật của đấu sĩ bò tót. Anh ta bám đuổi những phát bắn rồ dại nhất của Arthur, và quay lại với tiền như con chó tha mồi cắp vịt về nhà.
Schmidt kiểm soát và nhỏ giọt từng đồng tiêu vặt cho Arthur. Arthur, suốt một dạo, không thừa nhận điều này, nhưng nó quá đỗi hiển nhiên. Có những ngày ông chả đủ tiền mua vé xe buýt, lại có những ngày ông nói: “Đợi tôi một tí, William. Tôi phải chạy lên nhà lấy cái này tôi bỏ quên. Cậu sẽ không ngại đứng dưới đây đợi tôi một phút chứ?” Trong những dịp như thế, ông sẽ quay lại gặp tôi trên phố, sau mươi mười lăm phút gì đó, lúc thì ủ dột sâu sắc, lúc thì rạng rỡ tươi vui, hệt như cậu trò nhỏ vừa được nhận một khoản tiền tiêu vặt nhiều không tưởng.
Một cụm câu nữa mà tôi cũng dần trở nên quen thuộc: “Tôi sợ là không thể mời cậu lên chơi lúc này được. Nhà cửa đang bừa bộn quá.” Tôi sớm nhận ra câu này có nghĩa là Schmidt đang ở nhà. Arthur, khiếp đảm các cảnh cãi lộn, luôn khổ sở ngăn chúng tôi đụng mặt; vì kể từ lần đầu tôi đến nhà, sự khó chịu của đôi bên đã tăng lên đáng kể. Tôi nghĩ Schmidt không chỉ đơn giản là không thích tôi, mà chắc chắn không chấp nhận tôi như một thế lực thù địch gây ảnh hưởng bất ổn cho ông chủ của anh ta. Chính ra thì anh ta chưa bao giờ tỏ ra công kích. Anh ta chỉ đơn thuần nở nụ cười phỉ báng và tự mua vui bằng cách đường đột bước vào phòng bằng đôi giày không tiếng động. Anh ta sẽ đứng đó vài giây, không ai nhận ra, và rồi cất giọng, làm Arthur giật mình nhảy dựng và khẽ hét lên. Khi anh ta liên tục làm trò này hai, ba lần, Arthur sẽ rơi vào trạng thái không thể nói được gì cho gãy gọn và chúng tôi phải lánh ra quán cà phê gần nhất để tiếp tục cuộc trò chuyện. Schmidt sẽ giúp ông chủ mặc áo khoác và cúi chào chúng tôi ra khỏi cửa với dáng vẻ châm biếm, khoái trá vì mục tiêu của anh ta đã đạt được.
Tháng Sáu, chúng tôi đi nghỉ cuối tuần với Nam tước von Pregnitz; ông ta mời chúng tôi tới biệt thự nông thôn bên một hồ nước ở Mecklenburg. Căn phòng rộng nhất trong biệt thự là một phòng tập thể thao với đầy đủ trang thiết bị hiện đại, bởi Nam tước rất quan tâm tới vóc dáng. Ông ta ngày ngày hành hạ bản thân trên ngựa điện, máy chèo thuyền và đai mát-xa đánh mỡ. Trời rất nóng, tất cả chúng tôi đều đi tắm, kể cả Arthur. Ông đội chiếc mũ bơi cao su, cẩn thận chỉnh trang trong phòng ngủ kín đáo. Căn nhà đầy ắp các thanh niên đẹp trai, thân hình vạm vỡ nâu bóng vì thoa dầu và phơi nắng hàng giờ. Họ ăn như sói, cung cách ăn uống khiến Arthur đau đớn sâu sắc; hầu hết bọn họ đều nặng giọng Berlin. Họ vật lộn và đấm bốc trên bãi biển, nhảy lộn nhào từ cầu nhảy xuống hồ. Nam tước tham gia hết thảy và thường không được nương tay. Thô bạo một cách sảng khoái, đám thanh niên chơi khăm ông ta, làm vỡ nát chiếc kính một mắt và thậm chí còn có thể làm gãy cổ ông ta không chừng. Ông ta chịu đựng tất cả với nụ cười mỉm băng giá vẻ anh hùng.
Vào buổi tối thứ hai trong chuyến đi, ông ta trốn khỏi bọn họ và đi dạo riêng với tôi vào rừng. Sáng hôm đó họ tung ông ta vào một tấm chăn rồi quăng ông ta lên vỉa hè rải nhựa đường; người vẫn còn run rẩy. Bàn tay ông ta vịn trĩu cánh tay tôi. “Khi nào cậu bằng tuổi tôi,” ông ta buồn bã nói, “tôi nghĩ cậu sẽ nhận ra rằng những thứ đẹp đẽ nhất trong cuộc đời thuộc về Tinh thần. Da thịt không thôi chẳng thể đem lại hạnh phúc cho ta.” Ông ta thở dài và khẽ siết cánh tay tôi.
“Kuno bạn của chúng ta là một người rất xuất chúng,” Arthur quan sát khi chúng tôi cùng ngồi trên tàu quay về Berlin. “Có người tin rằng ông ấy sẽ có một sự nghiệp rực rỡ phía trước. Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu ông ta được bổ nhiệm vào vị trí quan trọng trong Chính phủ mới.”
“Thế kia à?”
Arthur lé mắt nhìn tôi đầy ẩn ý, “Tôi nghĩ rằng ông ta ngưỡng mộ cậu lắm.”
“Ông nghĩ thế?”
“William ạ, có lúc tôi cảm thấy với tài năng của cậu, thật tiếc là cậu không tham vọng hơn. Thanh niên là phải tận dụng cơ hội. Kuno là người ở vị trí có thể giúp cậu được tất thảy.”
Tôi bật cười. “Ý ông là, giúp cả hai ta?”
“Chậc, nếu cậu hiểu theo ý đó thì, đúng, tôi thừa nhận là tôi cũng có tiên lượng những lợi thế nhất định cho bản thân từ sự sắp xếp này. Dù tôi thất thố điều gì, tôi cũng mong mình không phải là kẻ đạo đức giả. Ông ta có thể nhận cậu vào làm thư kí chẳng hạn.”
“Xin lỗi, Arthur,” tôi nói, “nhưng tôi e là nếu thế thì trách nhiệm của tôi quá nặng nề.”