Chương năm
Gần cuối tháng Tám, Arthur rời Berlin. Một bầu không khí bí hiểm bao trùm chuyến đi của ông; ông thậm chí còn không nói với tôi rằng ông định đi. Tôi gọi điện đến nhà ông hai lần, những lúc tôi biết khá chắc là Schmidt sẽ không ở đó. Hermann, tay đầu bếp, chỉ biết là ông chủ đi xa trong một khoảng thời gian không xác định. Lần thứ hai, tôi hỏi ông ấy đã đi đâu, và được trả lời là London. Tôi bắt đầu sợ rằng Arthur đã rời Đức mãi mãi. Hẳn là ông có đầy lý do để làm vậy.
Tuy nhiên, một ngày nọ, vào trung tuần tháng Chín, điện thoại đổ chuông. Arthur ở đầu dây.
“Có phải là cậu không, chàng trai thân mến? Tôi đây, cuối cùng cũng về! Tôi có nhiều thứ để kể cho cậu lắm. Đừng nói là cậu bận tối nay nhé. Không hả? Thế thì cậu qua đây tầm sáu rưỡi nhé? Tôi nghĩ mình nên nói thêm là tôi còn chút bất ngờ dành cho cậu. Không, tôi sẽ không tiết lộ gì nữa đâu. Cậu phải tới và tận mắt nhìn chứ. Au revoir.”
Tôi tới căn hộ và thấy Arthur đang vô cùng phấn khởi.
“William thân mến của tôi, gặp lại cậu thật vui xiết bao! Cậu thế nào? Dạo này phất chưa hay vẫn lẹt đẹt?”
Arthur cười khúc khích, gãi cằm và liếc mắt thấp thỏm quanh phòng như thể ông vẫn chưa yên tâm rằng tất cả đồ đạc đã ở đúng chỗ.
“Ở London như thế nào?” Tôi hỏi. Mặc những gì ông nói qua điện thoại, ông dường như không đặc biệt muốn tâm tình.
“Ở London à?” Arthur trông ngây ra. “À, vâng, London… Nói thực với cậu, William ạ, tôi không ở London. Tôi ở Paris kìa. Chỉ là vào lúc này, chút hỏa mù về việc tôi ở đâu là cần thiết với một số người ở đây.” Ông ngưng lời, rồi nói tiếp đầy hứng khởi: “Tôi nghĩ là mình nên nói với cậu, như một người bạn chí cốt, rằng chuyến đi của tôi không phải không liên quan tới phe cánh tả.”
“Ý ông là ông đã thành một người cánh tả?”
“Tất thảy ngoại trừ cái tên, William ạ, đúng thế. Tất thảy ngoại trừ cái tên.”
Ông ngưng lại giây lát, thích thú trước sự ngỡ ngàng của tôi. “Thêm nữa, tôi mời cậu tới đây tối nay để chứng kiến cái mà tôi có lẽ sẽ gọi là Confessio Fidei, thú nhận đức tin. Khoảng một giờ nữa, tôi sẽ phải phát biểu trong một cuộc mít-tinh nhằm phản đối việc bóc lột nông dân Trung Quốc. Tôi hi vọng cậu sẽ vì tôi mà tới dự.”
“Ông còn phải hỏi sao?”
Cuộc mít-tinh sẽ được tổ chức tại Neukölln. Arthur cứ khăng khăng đi taxi. Ông đang trong tâm trạng phấn khích.
“Tôi cảm thấy,” ông nói, “mình sẽ nhìn lại tối nay như một bước ngoặt trong sự nghiệp của mình.”
Ông rõ ràng đang lo lắng, ngón tay cứ gõ gõ lên đống giấy tờ. Thi thoảng ông lại khổ sở liếc nhanh ra ngoài cửa sổ taxi, như thể ông muốn nói tài xế dừng xe.
“Tôi thì lại nghĩ là sự nghiệp của ông đã có rất nhiều bước ngoặt tốt đẹp,” tôi nói để phân tán suy nghĩ của ông.
Arthur ngay lập tức rạng rỡ trước lời phỉnh nịnh kín đáo ấy.
“Đúng là thế, William à. Đúng là thế thật. Nếu đời tôi mà kết thúc đêm nay (một điều tôi thực lòng không hi vọng) thì tôi có thể thành thật nói rằng: “Dù thế nào thì tôi cũng đã sống…” Tôi ước gì cậu biết tôi ngày xưa, khi ở Paris, ngay trước khi Thế chiến nổ ra. Tôi có xe ô tô riêng, căn hộ riêng trên phố Bois. Đó là một trong những chốn phồn hoa nhất đời. Tôi tự thiết kế phòng ngủ, tuyền đỏ và đen. Bộ sưu tập roi quất của tôi có lẽ là độc nhất vô nhị.” Arthur thở dài. “Bản chất tôi là một kẻ nhạy cảm. Tôi phản ứng ngay tức khắc với môi trường xung quanh. Khi mặt trời soi rọi, tôi lớn mạnh. Để nhìn tôi lúc phong độ nhất, cậu phải nhìn tôi trong đúng hoàn cảnh. Một bàn ăn thịnh soạn. Một hầm rượu ngon. Hội họa. Âm nhạc. Những thứ đẹp đẽ. Xã hội thượng lưu duyên dáng và dí dỏm. Khi ấy tôi sẽ bắt đầu linh lợi. Tôi sẽ lột xác.”
Xe taxi dừng lại. Arthur cẩn thận trả tiền cho tài xế rồi chúng tôi đi qua một khu vườn bia lớn, giờ tối om và vắng ngắt, vào một nhà hàng bỏ hoang, có một người bồi bàn già báo với chúng tôi rằng cuộc mít-tinh đang diễn ra trên gác. “Không phải tầng một đâu,” ông ý nói thêm. “Ấy là Câu lạc bộ Skittles.”
“Ôi trời,” Arthur thốt lên. “Tôi sợ là chúng ta đã đến rất muộn.”
Ông đã đúng. Cuộc mít-tinh đã bắt đầu. Khi leo lên chiếc cầu thang lớn ọp ẹp, chúng tôi có thể nghe thấy giọng của một diễn giả vang vọng dọc hành lang dài tồi tàn. Hai thanh niên vạm vỡ đội mũ sắt búa liềm đứng gác ở cánh cửa kép. Arthur vội vàng thì thào lời giải thích, và họ để chúng tôi qua. Ông ấn bàn tay tôi lo lắng. “Tôi sẽ gặp anh sau nhé.” Tôi ngồi xuống chiếc ghế còn trống gần nhất.
Hội trường rộng và lạnh lẽo. Trang trí theo lối baroq quê mùa, có lẽ nó được xây từ ba mươi năm trước và chưa được sơn vẽ lại một lần nào. Trên trần hội trường, bức vẽ khổng lồ xanh xanh, hồng hồng, ánh vàng hình tiểu thiên sứ, hồng hoa và mây trắng bị tróc lở vì ẩm. Quanh tường là các tấm khẩu hiệu đỏ rực với dòng chữ trắng: “Arbeiterfront gegen Fascismus und Krieg.*”
“Wir fordern Arbeit und Brot*.”
“Arbeiter aller Länder, vereinigt euch*.”
Vị diễn giả kia ngồi ở một chiếc bàn dài trên sân khấu, quay mặt xuống khán giả. Sau lưng, một tấm phông tả tơi tượng trưng cho một trảng rừng. Có hai người Trung Quốc, ấy là cô gái đang tốc kí và một người đàn ông gầy gò với mái tóc bù xù, tay chống cằm, tựa như đang nghe nhạc. Trước mặt họ, ngay sát mép sân khấu, có một người đàn ông tóc đỏ, vai rộng, thấp người đang vẫy một mẩu giấy như vẫy cờ.
“Đó là những con số, các đồng chí. Các đồng chí đã nghe về chúng rồi. Chúng đã tự nói lên điều cần nói, phải không? Tôi chẳng cần nói thêm gì. Ngày mai, các đồng chí sẽ thấy chúng được in trên tờ Welt am Abend. Đừng phí công tìm kiếm chúng trên tờ Press của giới tư bản, vì chúng sẽ không ở đó đâu. Đám chủ báo sẽ không đăng trên báo của họ, vì nếu như được phát hành, chúng sẽ khiến thị trường chứng khoán đảo lộn. Chẳng phải như thế sẽ thật đáng tiếc sao? Đừng lo. Những người công nhân sẽ đọc chúng. Những người công nhân sẽ biết phải nghĩ gì về chúng. Hãy gửi một thông điệp tới người của chúng ta ở Trung Quốc: Công nhân của phe cánh tả Đức biểu tình phản đối lũ sát nhân người Nhật Bản. Công nhân của phe cánh tả Đức kêu gọi sự giúp đỡ cho hàng trăm ngàn nông dân Trung Quốc giờ đang chịu cảnh vô gia cư. Các đồng chí, bộ phận Trung Quốc của I.A.H* đã đệ trình xin ngân sách để đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản và sự bóc lột của châu Âu. Chúng ta có nghĩa vụ giúp đỡ họ. Chúng ta sẽ giúp họ.”
Người tóc đỏ kia mỉm cười khi anh ta nói, nụ cười quân nhân vinh quang; hàm răng trắng đều chằn chặn của ông lấp lóa dưới ánh đèn.
Cử chỉ của anh ta tuy nhẹ nhưng đầy sức mạnh. Có lúc cứ như nguồn năng lượng khổng lồ trữ trong thân hình bè bè chắc nịch ấy có thể bắn cả người anh ta vọt khỏi sân khấu, như một chiếc xe máy rồ ga. Tôi đã nhìn thấy ảnh anh ta hai, ba lần trên báo, nhưng không tài nào nhớ ra anh ta là ai. Từ chỗ tôi ngồi, rất khó để nghe rõ mọi điều anh ta nói. Bản thân giọng của anh ta cũng chùn dần, khỏa lấp trong hội trường lớn và ẩm thấp kia với những tiếng vọng như sấm.
Arthur lúc này đã xuất hiện trên sân khấu, hấp tấp bắt tay với mấy người Trung Quốc, xin lỗi và cẩn trọng ngồi vào ghế. Một tràng pháo tay sau khi người tóc đỏ kia dứt lời rõ ràng làm ông giật mình. Ông ngồi phịch xuống ghế.
Trong lúc mọi người vẫn vỗ tay, tôi di chuyển lên vài hàng ghế phía trên để nghe rõ hơn, lách người vào chỗ trống phía trước mặt. Khi ngồi xuống, tôi thấy tay áo mình bị kéo. Là Anni, cô gái đi bốt. Cạnh cô, tôi nhận ra cậu trai đã rót bia thẳng họng Kuno ở nhà Olga trong đêm Giao thừa. Cả hai có vẻ đều vui mừng khi gặp tôi. Cậu trai siết chặt tay tôi tới mức làm tôi suýt chút nữa hét lên.
Hội trường rất đông. Khán giả ngồi đó trong trang phục thường ngày lấm lem. Hầu hết đàn ông đều mặc quần ống túm, tất len thô kéo cao tới gối, áo len dài tay và mũ kê-pi. Mắt họ dõi theo diễn giả hau háu tò mò. Tôi chưa bao giờ tới một cuộc mít-tinh của phe cánh tả, và điều khiến tôi ấn tượng nhất chính là sự chăm chú cao độ của hàng hàng gương mặt ngẩng cao nhìn về sân khấu; những gương mặt của tầng lớp lao động Berlin, xanh xao và già trước tuổi, thường mệt mỏi và khắc khổ, giống đầu của những học giả với mái tóc mỏng, nhạt màu, chải ngược lộ vầng trán rộng. Họ không đến đây để gặp và được gặp, hay thậm chí là để hoàn thành trách nhiệm xã hội. Họ chăm chú nhưng không thụ động. Họ không phải là khán giả đơn thuần. Họ tham gia vào bài phát biểu của người tóc đỏ kia với lòng đam mê háo hức ghìm nén. Anh ta nói thay lời họ, anh ta khiến suy nghĩ của họ thông tỏ. Họ đang lắng nghe tiếng nói tập thể của chính họ. Trong những khoảng lặng, họ tán thưởng tiếng nói ấy, với sự hung hăng bột phát, ngẫu hứng. Lòng đam mê cùng mục tiêu mạnh mẽ của họ khiến tôi phấn khích. Tôi đứng ngoài tất cả những điều ấy.
Một ngày kia, có thể, tôi sẽ song hành với họ, nhưng sẽ không bao giờ gia nhập. Hiện tại tôi chỉ ngồi đó, một kẻ phản bội giai cấp nửa vời, cảm xúc của tôi bị khuấy đảo bởi chủ nghĩa vô chính phủ được bàn ở Cambridge, bởi những khẩu hiệu từ Lễ Kiên tín, bởi những giai điệu ban nhạc đã chơi khi trung đoàn của bố tôi diễu hành tới nhà ga mười bảy năm trước. Rồi người đàn ông nhỏ bé kia kết thúc bài phát biểu và quay về chỗ của mình tại bàn trong những tràng vỗ tay như sấm nổ.
“Anh ta là ai?” Tôi hỏi.
“Sao, anh không biết ư?” Bạn của Anni thốt lên ngỡ ngàng. “Là Ludwig Bayer. Một trong những người giỏi nhất của chúng ta.”
Cậu trai tên là Otto. Anni giới thiệu chúng tôi và tôi nhận thêm một cú bắt tay như máy nghiền. Otto đổi chỗ với cô để nói chuyện với tôi.
“Có phải anh ở Cung Thể thao tối nọ không? Trời đất, thế thì đáng lẽ anh phải nghe về anh ấy rồi chứ! Anh ấy nói liền hai tiếng rưỡi mà không cần uống một ngụm nước luôn.”
Đại biểu người Trung Quốc giờ đứng lên và được giới thiệu. Ông ta nói thứ tiếng Đức chỉn chu và học thuật. Bằng âm điệu trầm bổng như tiếng dây đàn châu Á búng lên thê lương, ông ta kể về nạn đói, những trận lụt khủng khiếp, những trận càn quét của không lực Nhật Bản xuống các thị trấn không được bảo vệ. “Các đồng chí Đức, tôi mang đến cho các đồng chí một thông điệp buồn từ đất nước khổ đau của tôi.”
“Ôi chao!” Otto thì thào, chấn động. “Chắc chắn còn khủng khiếp hơn ở nhà dì tôi tại Simeonstrasse.”
Đã 9 giờ 15. Sau người Trung Quốc kia là người đàn ông với mái tóc xoăn. Arthur đang trở nên sốt ruột. Ông liên tục liếc nhìn đồng hồ và lo lắng chạm vào bộ tóc giả. Rồi đến người Trung Quốc thứ hai. Tiếng Đức của người này yếu hơn người kia, nhưng khán giả vẫn hừng hực đón nhận các bài diễn thuyết. Tôi có thể thấy Arthur gần như hoảng loạn. Hồi lâu, ông đứng dậy và đi vòng ra phía sau ghế của Bayer. Gập người xuống, ông bắt đầu thì thầm căng thẳng. Bayer mỉm cười và làm một động tác xoa dịu thân thiện. Anh ta có vẻ thích thú. Arthur miễn cưỡng quay về chỗ và lại nhanh chóng bắt đầu ngọ nguậy.
Cuối cùng thì người Trung Quốc kia cũng kết thúc. Bayer ngay lập tức đứng lên, nắm cánh tay Arthur đầy động viên, như thể ông chỉ là một cậu nhỏ, và dẫn ông lên phía trước sân khấu.
“Đây là đồng chí Arthur Norris, đến đây để nói với chúng ta về tội ác của Đế quốc Anh tại vùng Viễn đông.”
Dường như việc nhìn ông đứng trên đó kỳ dị tới mức tôi khó có thể giữ gương mặt bình thản. Thực sự, tôi không tài nào hiểu được vì sao mọi người trong hội trường không phá lên cười. Nhưng không, khán giả rõ ràng không thấy Arthur có chút gì buồn cười. Kể cả Anni, người có nhiều lí do hơn bất kì ai hiện tại để nhìn ông từ góc độ khôi hài, cũng mang gương mặt đưa đám hoàn hảo.
Arthur ho, lật giở giấy tờ. Rồi ông bắt đầu nói bằng thứ tiếng Đức hoa mĩ, trơn tru, có phần hơi nhanh: “Kể từ ngày lãnh đạo các chính phủ đồng minh nhận thấy cần thiết phải thảo ra văn bản thần thánh có tên Hòa ước Versailles, bằng trí tuệ vô hạn của họ, kể từ ngày đó, tôi xin nhắc lại…”
Có chút xôn xao, như thể khó chịu, lan truyền trong dãy người nghe. Nhưng những gương mặt nhợt nhạt, nghiêm túc, ngẩng cao kia không hề có vẻ mỉa mai. Họ chấp nhận không thắc mắc quý ông tư bản thành thị đứng đó, chấp nhận bộ đồ sành điệu của ông, sự hóm hỉnh duyên dáng của ông -một kẻ sống bằng tiền lợi tức. Ông đã đến để giúp họ. Bayer đã giới thiệu ông. Ông là bạn của họ.
“Trong suốt hai trăm năm qua, Đế quốc Anh đã liên tục trút lên đầu nạn nhân của họ những lợi ích mập mờ của Kinh thánh, Rượu và Bom. Trong ba thứ trên, tôi có lẽ mạo muội nói thêm rằng, Bom chắc chắn là thứ ít buồn nôn nhất.”
Có tiếng vỗ tay ở đoạn này; ngập ngừng, chần chừ, như thể người nghe đồng tình với quan điểm của ông, nhưng vẫn còn nghi ngại phong thái của ông. Rõ ràng được khích lệ, ông tiếp tục: “Tôi nhớ tới một câu chuyện về một người Anh, một người Đức và một người Pháp cùng cá cược nhau xem ai có thể đốn được nhiều cây nhất trong một ngày. Người Pháp là người đầu tiên thử…”
Cuối câu chuyện này, có tiếng cười và pháo tay. Otto phấn khích đấm mạnh vào lưng tôi. “Mensch! Der spricht prima, wahr?*” Rồi cậu ta lại chúi người về phía trước để nghe, đôi mắt dính chặt lấy sân khấu, một tay vòng qua vai Anni. Arthur đổi từ giọng nhẹ nhàng trêu chọc sang giọng diễn thuyết nghiêm nghị, tiến dần tới cao trào: “Tiếng kêu khóc của nông dân Trung Quốc chịu nạn đói đang vang lên trong tai chúng ta khi chúng ta ngồi trong hội trường này đêm nay. Tiếng kêu khóc ấy đã vượt cả vòng địa cầu đến với chúng ta. Chúng ta hi vọng sớm thôi, tiếng kêu khóc ấy sẽ còn vang vọng hơn, nhấn chìm những lời tán gẫu vô dụng của đám ngoại giao, nhấn chìm giai điệu của các ban nhạc nhảy trong khách sạn xa xỉ, nơi phu nhân của đám chủ nhà máy mân mê những viên ngọc trai được mua bằng máu của trẻ em vô tội. Đúng thế, chúng ta phải đảm bảo những tiếng kêu khóc ấy được tất cả đàn ông và phụ nữ có lương tri ở châu Âu và châu Mỹ nghe thấu. Đến khi đó, và chỉ khi đó, mới chấm dứt được nạn bóc lột phi nhân tính này, nạn buôn bán những linh hồn sống này…”
Arthur kết thúc bài phát biểu của mình với một nguồn năng lượng bung tỏa. Gương mặt ông hơi ửng đỏ. Hết tràng pháo tay này tới tràng pháo tay khác vang lên trong hội trường. Nhiều khán giả hét lên. Trong lúc tiếng vỗ tay vẫn còn rất cao trào, Arthur bước xuống từ sân khấu và gặp tôi ở cửa.
Những cái đầu ngoảnh ra nhìn chúng tôi rời đi. Otto và Anni cũng rời cuộc mít-tinh với chúng tôi. Otto siết tay Arthur và vỗ bồm bộp bàn tay nặng nề của cậu ta lên vai ông: “Arthur, cái ông già này! Quá ổn!”
“Cảm ơn, chàng trai thân mến của tôi. Cảm ơn.” Arthur rúm người lại. Ông đang cảm thấy rất thỏa ý.
“Họ thấy thế nào hả, William? Thích đúng không, tôi đoán thế. Tôi mong là mình trình bày quan điểm khá mạch lạc. Xin cậu hãy nói là đúng đi.”
“Thực sự đấy, Arthur, tôi ấn tượng lắm.”
“Cậu đáng mến làm sao: lời khen ngợi từ một người phê bình nghiêm khắc như cậu thực sự du dương với tôi đấy.”
“Tôi không hề biết ông là một diễn giả cứng cựa đấy.”
“Hồi xưa,” Arthur khiêm nhường thú nhận, “tôi đã có nhiều dịp phải nói trước công chúng, mặc dù không giống thế này.”
Chúng tôi có bữa ăn nguội ở căn hộ. Schmidt và Hermann đều ra ngoài. Otto và Anni pha trà và dọn bàn. Họ có vẻ khá thoải mái trong bếp và biết mọi thứ được cất ở đâu.
“Otto là người bảo hộ của Anni,” Arthur giải thích khi hai người đang ở ngoài phòng. “Sẽ có người gọi cậu ta là ông bầu của cô ấy. Tôi tin là cậu ta có phần trăm hoa hồng trên thu nhập của cô ấy. Tôi không thích hỏi quá kĩ. Cậu ta là người tốt nhưng hay ghen. May là không ghen với khách của Anni. Tôi sẽ thực sự khốn đốn nếu rơi vào sổ đen của cậu ta. Tôi biết cậu ta là vô địch hạng trung ở câu lạc bộ đấm bốc.”
Cuối cùng bữa tối cũng sẵn sàng. Ông cuống quýt điều phối.
“Đồng chí Anni có thể mang cho chúng tôi mấy cái ly được không? Cô ấy thật dễ thương quá. Tôi muốn được nâng cốc vì tối nay. Có lẽ, nếu đồng chí Otto sẵn lòng, chúng ta thậm chí còn có thể nhâm nhi chút rượu brandy ấy nhỉ. Tôi không biết liệu đồng chí Bradshaw có uống brandy không. Cậu nên hỏi đồng chí ấy.”
“Vào thời khắc lịch sử này, đồng chí Norris, tôi uống gì cũng được.”
Otto quay lại, báo rằng chẳng còn brandy nữa.
“Không sao,” Arthur nói, “brandy không phải là đồ uống vô sản. Chúng ta sẽ uống bia.” Ông rót đầy ly của chúng tôi. “Vì cách mạng thế giới.”
“Vì cách mạng thế giới.”
Chúng tôi chạm ly. Anni thanh nhã nhấp bia, ngón trỏ và ngón cái cầm vào thân ly, ngón út hơi cong cong. Otto nốc cạn một hơi, đặt vại bia đánh cạch một cái trên bàn. Arthur thì bị sặc. Ông ho, khạc, cắm mặt vào chiếc khăn ăn.
“Tôi e đó là điềm báo,” tôi đùa. Ông có vẻ khá buồn.
“Đừng nói thế, William. Tôi không thích người ta nói những chuyện như thế, kể cả là đùa.”
Đây là lần đầu tiên tôi biết Arthur mê tín. Tôi lấy làm buồn cười và khá ấn tượng. Ông có vẻ như mê tín rất nặng. Có khi nào ông đã thực hiện một dạng cải đạo nào đó chăng? Thực khó tin.
“Arthur, ông theo phe cánh tả lâu chưa?” Tôi hỏi, bằng tiếng Anh, khi chúng tôi bắt đầu ăn.
Ông hơi hắng giọng, bắn một tia nhìn bất an về phía cửa ra vào.
“Trong tim thì lâu rồi, William ạ. Tôi nghĩ là tôi luôn cảm thấy từ tận sâu thẳm rằng chúng ta tất cả đều là anh em. Phân biệt giai cấp chưa bao giờ có nghĩa lý gì với tôi cả; và lòng căm ghét sự bạo ngược chảy trong máu tôi. Kể cả khi còn nhỏ, tôi cũng chưa bao giờ có thể chịu được sự bất công dù ở bất kì hình thức nào. Nó xúc phạm mĩ quan của tôi. Nó thật ngu xuẩn và phi thẩm mĩ. Tôi hẵng còn nhớ cảm giác của mình khi lần đầu tiên bị cô điều dưỡng phạt oan. Tôi không giận dữ vì hình phạt ấy; tôi giận là giận sự vụng về, sự thiếu trí tưởng tượng ẩn sau nó. Tôi vẫn nhớ điều đó đã khiến tôi tổn thương sâu sắc.”
“Thế vì sao trước đây ông không chọn phe?”
Arthur đột nhiên nhìn mông lung; day day thái dương: “Thời điểm chưa chín muồi. Không.”
“Thế Schmidt nói gì về tất cả mấy chuyện này?” Tôi láu cá hỏi.
Arthur liếc nhanh về phía cánh cửa lần thứ hai. Như tôi đã hồ nghi, ông đang trong trạng thái chần chừ, lo sợ tay thư kí kia sẽ đột nhiên bước vào.
“Tôi e là hiện tại Schmidt và tôi không tâm đầu ý hợp về chuyện này.”
Tôi nhe răng cười. “Rồi sẽ đến lúc ông cải đạo được anh ta.”
“Đừng có nói tiếng Anh nữa đi, hai người,” Otto hét lên, thụi cho tôi một cái thật mạnh vào mạng sườn. “Anni và tôi muốn nghe câu chuyện cười đó.”
Trong bữa ăn chúng tôi uống khá nhiều bia. Tôi chắc hẳn đã rất loạng choạng, vì, khi đứng lên vào cuối bữa ăn, tôi đã xô đổ ghế của mình. Phía dưới ghế có dính một tấm vé với số 69 in trên đó.
“Cái này để làm gì thế?” Tôi hỏi.
“Ồ, cái đó à?” Arthur vội vàng nói; ông có vẻ rất bối rối. “Chỉ thuần túy là số catalog từ chỗ tôi mua nó thôi. Chắc là nó cứ ở đó suốt… Anni, tình yêu của tôi, em và Otto có thể rộng lượng mang mấy thứ này vào bếp và cho vào bồn rửa được không? Tôi không muốn Hermann phải làm quá nhiều thứ vào buổi sáng. Cậu ta sẽ cáu loạn lên với tôi cả ngày mất.”
“Cái vé đó để làm gì thế?” Tôi nhẹ nhàng nhắc lại ngay khi họ đi ra ngoài. “Tôi muốn biết.”
Arthur buồn bã lắc đầu.
“À, William thân mến của tôi, chẳng có gì qua nổi mắt cậu. Lại thêm một bí mật nữa của chúng tôi bị phơi bày rồi.”
“Tôi e là tôi rất chậm hiểu. Bí mật gì cơ?”
“Tôi thấy vui vì biết rằng thời thanh xuân của cậu chưa từng bị nhem nhuốc bởi những trải nghiệm dơ bẩn. Bằng tuổi cậu, tôi rất tiếc phải nói rằng, tôi đã làm quen với một người mà chữ kí của ông ta cậu sẽ tìm thấy trên tất cả đồ đạc trong phòng này.”
“Chúa ơi, ý ông là người tịch biên?”
“Tôi ưa dùng từ Gerichtsvollzieher, viên chức đòi nợ, hơn. Nghe dễ chịu hơn hẳn.”
“Nhưng, Arthur, bao giờ ông ta sẽ đến?”
“Tôi xin lỗi nhưng, gần như sáng nào ông ta cũng đến. Cũng có lúc cả buổi chiều nữa. Nhưng hiếm khi ông ta thấy tôi ở nhà. Tôi ưa để Schmidt tiếp ông ta. Từ những gì tôi thấy, ông ta có vẻ là người không có mấy văn hóa. Tôi không nghĩ là chúng tôi có điểm gì chung.”
“Vậy là ông ta sẽ sớm mang hết mọi thứ đi?”
Arthur có vẻ thích thú cơn cáu giận của tôi. Ông nhả khói thuốc vẻ bất cần khoa trương.
“Thứ Hai tới, tôi nghĩ thế.”
“Thật kinh khủng! Không thể làm gì được sao?”
“Ồ, đương nhiên là có thể. Sẽ có thể. Tôi sẽ buộc phải tới thăm ông bạn người Scotland, ông Issacs. Issacs đã đảm bảo với tôi rằng ông ta xuất thân từ một danh gia vọng tộc ở Scotland, nhà Issacs xứ Inverness. Lần đầu tiên tôi có vinh dự gặp ông ta, ông ta suýt chút nữa đã ôm chầm lấy tôi: ‘A, ngài Norris thân mến,’ ông ta nói, ‘đồng hương của tôi.”’
“Nhưng, Arthur, nếu ông tới gặp một người cho vay thì ông lại dính vào nhiều vấn đề kinh khủng hơn thôi. Chuyện này đã diễn ra lâu chưa? Tôi vẫn cứ tưởng rằng ông tương đối khá giả.”
Arthur bật cười: “Tôi khá giả, về mặt Tinh thần, hy vọng thế… Chàng trai thân mến của tôi ơi, đừng hoảng hốt vì tôi. Tôi đã sống nhờ cái đầu của mình được gần ba mươi năm nay rồi, và giờ tôi vẫn tiếp tục sống như thế cho tới khi nào tôi được gọi về chầu tổ tiên, dù tôi e rằng họ không mấy mặn mà gì khi thấy tôi.”
Tôi chưa kịp hỏi thêm gì thì Anni và Otto đã từ bếp đi ra. Arthur vui vẻ chào họ, rồi Anni nhanh chóng ngồi lên đầu gối ông, hết tát lại cắn nhằm chối từ sự gạ gẫm của ông, trong khi đó Otto đã cởi áo khoác và xắn tay áo, mê mải tìm cách chữa máy nghe nhạc. Dường như không có chỗ cho tôi trong hoạt cảnh gia đình này, tôi nhanh chóng nói rằng mình phải đi.
Otto xuống gác, cầm theo chìa khóa để mở cửa cho tôi. Lúc chia tay, cậu ta nghiêm trang giơ nắm đấm lên chào: “Mặt trận Đỏ.”
“Mặt trận Đỏ,” tôi đáp lại.