Chương mười
Arthur ngẩng lên, đôi mắt ngây thơ vô số tội.
“Nhân tiện, William này,” giọng ông tự nhiên một cách gắng gượng, “cậu có bận gì vào tối thứ Năm tới không?”
“Không.”
“Tuyệt vời. Thế thì tôi có thể mời cậu tới một bữa tiệc tối nho nhỏ được không?”
“Nghe hay quá. Còn ai sẽ đến nữa?”
“Ồ, sẽ chỉ là cuộc gặp gỡ nho nhỏ thôi. Chúng ta và Nam tước von Pregnitz.”
Arthur thốt ra cái tên đó nhẹ như không. “Kuno!” Tôi kêu lên.
“Có vẻ như cậu rất ngạc nhiên, William, nếu không muốn nói là bất mãn.” Ông ngây thơ. “Tôi cứ nghĩ cậu và anh ta là bạn tốt?”
“Tôi cũng tưởng thế cho tới lần gần nhất chúng tôi gặp nhau. Ông ta lờ tôi đi đúng nghĩa đen.”
“Ôi, chàng trai thân mến của tôi, tôi nghĩ chắc một phần do cậu tưởng tượng ấy thôi, mong cậu không phiền khi tôi nói thế. Tôi chắc chắn anh ta chẳng bao giờ làm điều gì như thế; nghe không giống anh ta chút nào.”
“Không phải ông đang bảo là tôi mơ thấy chuyện đó đấy chứ?”
“Dĩ nhiên tôi không nghi ngờ lời nói của cậu một khắc nào. Giống như cậu nói, nếu anh ta có phần thô lỗ thì tôi đoán là anh ta đang lo lắng vì nhiều trách nhiệm thôi. Chắc cậu cũng biết, anh ta có một chân trong chính quyền mới.”
“Vâng, tôi nghĩ là đã đọc được điều đó trên báo.”
“Dù sao thì, kể cả anh ta đúng là cư xử có phần lạ lùng như cậu đã nói, tôi có thể đảm bảo với cậu là do một hiểu lầm mà giờ đã được xóa bỏ.”
Tôi mỉm cười.
“Ông không cần phải úp mở về chuyện đó đâu, Arthur. Tôi đã biết một nửa câu chuyện rồi, thế nên ông có thể kể nốt cho tôi nửa còn lại. Tôi đồ là tay thư kí của ông có can dự vào việc này?”
Arthur chun mũi lại, vẻ mặt khó chịu khôi hài.
“Xin đừng gọi gã ta như thế, William. Cứ gọi Schmidt thôi. Tôi không ngại khi cậu nhắc tới mối quan hệ ấy. Những kẻ ngu ngốc nuôi ong tay áo thường có nguyên do để nuối tiếc, sớm hay muộn.”
“Thôi được rồi, Schmidt… Ông nói tiếp đi…”
“Tôi thấy là, như thường lệ, cậu biết nhiều hơn tôi tưởng,” Arthur thở dài. “Chậc, chậc, nếu cậu đã muốn nghe toàn bộ sự thật lâm ly bi đát thì cậu phải chịu nỗi đau như tôi đã từng chịu. Cậu biết đấy, những tuần lễ cuối cùng tại Courbierestrasse của tôi chìm trong nỗi khốn cùng.”
“Tôi vẫn còn nhớ.”
“Đấy, không cần phải đi vào những tiểu tiết không quan trọng, tôi đã buộc phải gắng gượng và kiếm tiền. Tôi đã thử mọi hướng có thể và không thể. Và rồi trong nỗ lực cuối cùng, khi con sói đã thực sự cào ngoài cửa, tôi đã cất tự trọng của mình đi…”
“Và hỏi vay Kuno ít tiền?”
“Cảm ơn cậu, chàng trai thân mến. Bằng sự quan tâm thường trực dành cho cảm xúc của tôi, cậu đã giúp tôi vượt qua được phần đau đớn nhất của câu chuyện… Phải, tôi đã chìm quá sâu. Tôi đã phá vỡ một trong những nguyên tắc linh thiêng nhất của bản thân - ấy là không bao giờ vay tiền từ bạn bè. (Bởi tôi có thể nói là tôi thực sự coi anh ta là bạn, một người bạn thân ái). Đúng thế…”
“Và ông ta đã từ chối? Tên khốn keo kiệt!”
“Không, William. Cậu lại quá nhanh rồi. Cậu đã trách lầm anh ta. Tôi chẳng có lý do gì để nghĩ rằng anh ta sẽ từ chối. Trái lại. Đấy là lần đầu tiên tôi từng tiếp cận anh ta. Nhưng Schmidt đã biết ý đồ của tôi. Tôi chỉ có thể phỏng đoán rằng gã đã thường xuyên mở tất cả thư từ của tôi. Sau đó, gã đến thẳng Pregnitz và khuyên anh ta không nên ứng tiền cho tôi; đưa ra đủ loại lí do, hầu hết toàn là những lời phỉ báng ghê tởm. Mặc dù đã có nhiều kinh nghiệm về bản chất con người nhưng tôi không tài nào tin nổi sự tráo trở và vô ơn bạc nghĩa ấy…”
“Điều gì khiến gã làm thế chứ?”
“Đại khái là căm ghét thôi, tôi nghĩ thế. Cứ xem cái cách đầu óc xấu xa ấy của gã vận hành thì biết. Nhưng rõ ràng là sinh vật ấy cũng sợ rằng, trong trường hợp này gã sẽ bị lột da. Gã thường tự mình thu xếp các khoản vay này, cậu biết đấy, và trừ phần trăm trước khi giao lại tiền… Quả thực tôi thấy rất xấu hổ khi phải kể cho cậu chuyện này.”
“Vậy tôi cho là gã ta làm đúng? Ý tôi là, ông sẽ không định đưa tí gì cho gã lần này đúng không?”
“Không. Sau cách xử sự côn đồ của gã về tấm thảm ở phòng khách, tôi làm sao có thể làm thế chứ. Cậu còn nhớ tấm thảm không?”
“Có.”
“Có thể nói là, vụ tấm thảm ấy chính là lời tuyên chiến giữa hai chúng tôi. Mặc dù tôi vẫn nỗ lực đáp ứng đòi hỏi của gã một cách công bằng nhất.”
“Vậy Kuno đã nói gì về tất cả những chuyện này?”
“Đương nhiên, anh ta rất thất vọng và giận dữ. Tôi phải nói thêm là khá tàn nhẫn một cách không cần thiết. Anh ta viết cho tôi một lá thư khó chịu. Dĩ nhiên vẫn tương đối lịch thiệp; anh ta luôn thế. Nhưng lạnh lùng. Rất lạnh lùng.”
“Tôi thấy ngạc nhiên là ông ta lại tin lời Schmidt.”
“Chắc chắn Schmidt đã có cách thuyết phục anh ta. Trong sự nghiệp của tôi, chắc cậu cũng biết, có những sự việc rất dễ bị hiểu nhầm.”
“Và chắc gã cũng lôi cả tôi vào luôn?”
“Tôi rất tiếc phải nói là đúng thế. Điều này khiến tôi đau đớn hơn tất thảy trong toàn bộ sự việc; khi biết là cậu cũng bị kéo xuống vũng bùn mà tôi đã vật lộn trong đó.”
“Vậy chính xác thì gã đã nói gì với Kuno về tôi?”
“Có vẻ như gã đã bóng gió, có khi còn thêm mắm dặm muối, rằng cậu là đồng phạm với tôi.”
“Chà, tôi quả là bị xúi quẩy.”
“Hẳn là gã đã tô vẽ cho hai ta là những tên Bôn-sê-vích đỏ từ trong ra ngoài.”
“Vậy tôi e là gã tâng bốc tôi quá đáng rồi.”
“À thì… vâng. Dĩ nhiên đó là một cách nhìn nhận sự việc. Thật không may, nhiệt huyết cách mạng không phải là điều Nam tước thích thú. Quan điểm của anh ta về những thành viên cánh tả có phần sơ khai. Anh ta hình dung chúng ta là những kẻ túi nhét đầy bom.”
“Ấy vậy mà, bất chấp những chuyện đó, ông ta lại sẵn lòng dùng bữa tối với chúng ta vào thứ Năm tới?”
“Ồ, giờ thì quan hệ của chúng tôi rất khác, tôi mừng là thế. Tôi đã gặp anh ta vài lần kể từ lúc quay lại Berlin. Dĩ nhiên vẫn cần xã giao ở mức độ nào đó; nhưng tôi nghĩ mình đã ít nhiều thuyết phục được anh ta tin rằng những lời buộc tội của Schmidt rất vớ vẩn. May mắn là tôi có thể giúp anh ta mấy chuyện vặt. Pregnitz đặc biệt hiểu chuyện; anh ta luôn sẵn sàng nghe lý lẽ.”
Tôi mỉm cười: “Có vẻ như ông đã tự đẩy mình vào kha khá rắc rối vì ông ta. Tôi hi vọng là điều đó đáng.”
“William ạ, một trong những nét tính cách của tôi, cậu có thể gọi là điểm yếu cũng được nếu thích, là tôi không bao giờ chịu để mất một người bạn, nếu có thể tránh được.”
“Ông cũng sốt sắng để tôi không mất đi một người bạn?”
“Đúng thế, tôi phải nói rằng tôi sẽ rất buồn nếu tôi là nguyên nhân cho sự lạnh nhạt vĩnh viễn giữa Pregnitz và cậu, kể cả là gián tiếp. Nếu hai phía vẫn còn chút ngờ vực hay hằn học gì thì tôi chân thành mong cuộc gặp này sẽ đặt dấu chấm hết cho chúng.”
“Về phần tôi thì không có cảm xúc nào tiêu cực cả.”
“Tôi mừng khi nghe cậu nói vậy, chàng trai thân mến. Rất mừng ấy. Cứ oán giận thì thật là ngu xuẩn. Ở đời này, người ta sẽ mất rất nhiều nếu cứ vì sĩ diện hão.”
“Chắc chắn là mất rất nhiều tiền.”
“Đúng thế… cả cái đó nữa.” Arthur bấu cằm và nhìn tư lự. “Mặc dù vừa rồi tôi nói thiên về tinh thần hơn là vật chất.” Giọng ông hàm chứa ý trách cứ.
“Nhân tiện,” tôi hỏi, “giờ Schmidt đang làm gì rồi?”
“William thân mến của tôi,” Arthur nom đau đớn, “làm sao tôi biết được cơ chứ?”
“Tôi tưởng gã sẽ còn làm phiền ông chứ.”
“Trong tháng đầu tiên tôi ở Paris, gã viết cho tôi cơ số thư đe dọa và đòi tiền kinh dị nhất. Tôi đơn giản là mặc kệ. Kể từ ấy trở đi, tôi chẳng nghe thấy tin gì nữa.”
“Gã chưa bao giờ tới nhà Frl. Schroeder?”
“Tạ ơn Chúa, chưa. Cho tới giờ thì chưa. Nếu gã làm cách nào đó phát hiện ra địa chỉ thì hẳn sẽ là cơn ác mộng của đời tôi.”
“Tôi đồ là gã sẽ tìm ra thôi, chỉ là sớm hay muộn?”
“Đừng nói thế, William. Xin đừng nói thế… Tôi có cả trăm mối lo rồi.”
Khi chúng tôi đi bộ tới nhà hàng vào buổi tối tổ chức bữa tiệc, Arthur đã dặn dò tôi mấy lời.
“Chàng trai thân mến, cậu hứa là sẽ cẩn trọng để không lỡ lời về Bayer hay về niềm tin chính trị của chúng ta chứ?”
“Tôi đâu có điên.”
“Dĩ nhiên, William. Xin đừng nghĩ tôi có ý gì. Nhưng đôi lúc kể cả những người cẩn trọng nhất cũng phản bội chính họ… Thêm một điều nhỏ này nữa: có lẽ, ở giai đoạn này, sẽ tốt hơn nếu không gọi Pregnitz bằng tên Thánh. Cũng là để giữ khoảng cách. Những việc kiểu thế dễ bị hiểu lầm lắm.”
“Ông đừng lo lắng. Tôi sẽ ngồi im như tượng.”
“Đừng ngồi im, chàng trai, tôi xin đấy. Cứ tự nhiên, cứ thoải mái. Có lẽ chỉ hơi trang trọng lúc đầu thôi. Cứ để anh ta dẫn dắt. Giữ khoảng cách lịch sự một tí là được.”
“Nếu ông còn nói nữa thì ông sẽ đẩy tôi vào trạng thái không thể mở miệng được mất.”
Chúng tôi tới nhà hàng và thấy Kuno đã ngồi vào bàn mà Arthur đặt trước. Điếu thuốc trên tay ông ta đã đốt gần hết; gương mặt ông ta toát lên sự chán chường cảnh vẻ. Vừa nhìn thấy ông ta, Arthur đã há hốc miệng kinh hãi.
“Nam tước thân mến của tôi, xin hãy thứ lỗi cho tôi. Tôi thật không dám để chuyện này xảy ra. Tôi đã nói là tám rưỡi đúng không? Tôi có nói rồi đúng không? Vậy là ngài đã đợi hẳn mười lăm phút? Ngài khiến tôi xấu hổ quá. Thật là, tôi không biết xin lỗi sao cho đủ.”
Sự xoắn xuýt của Arthur dường như khiến cho Nam tước ngại ngùng chả kém gì tôi. Ông ta lạnh nhạt phẩy bàn tay như vây cá và lầm bầm câu gì đó mà tôi không thể nghe ra.
“…Tôi ngu quá. Tôi không thể tin nổi làm sao tôi lại có thể khờ vậy…”
Tất cả chúng tôi ngồi xuống. Arthur cứ tiếp tục lải nhải; lời xin lỗi của ông biến hóa muôn hình vạn trạng. Ông đổ tại trí nhớ của mình rồi nhắc lại mấy ví dụ khác do đãng trí (“Tôi lại nhớ tới một dịp rất không may ở Washington mà tôi quên biến việc phải tới dự một buổi xã giao quan trọng tại nhà Đại sứ Tây Ban Nha.”) Ông đổ lỗi cho cái đồng hồ đeo tay; dạo này, ông nói với chúng tôi, nó bắt đầu chạy sai. (“Tôi vẫn thường phải ghi chú, vào tầm này hàng năm, là gửi nó tới mấy người làm đồng hồ ở Zurich để kiểm tra.”) Và rồi ông trấn an Nam tước, ít nhất là năm lần, rằng tôi không dính dáng gì tới lỗi lầm ấy. Tôi ước gì mình có thể độn thổ luôn cho rồi. Tôi có thể thấy Arthur đang lo lắng và không tự tin vào bản thân; những lời thanh minh kia mong manh và tựa hồ sẽ đổ sụp thành một đống mâu thuẫn trong bất cứ khoảnh khắc nào. Tôi chưa bao giờ thấy ông nhiều lời và tẻ nhạt đến thế. Kuno giấu mình sau chiếc kính một mắt. Gương mặt ông ta bí ẩn như cuốn thực đơn, không tài nào đọc nổi.
Giữa chừng món cá, Arthur đã dốc hết ruột gan. Khoảng im lặng sau đó trở nên gượng gạo hơn cả màn múa mép của ông vừa rồi. Chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn ăn nhỏ bé thanh lịch như ba con người đang chìm đắm trong một thế cờ khó. Arthur sờ mó cái cằm và kín đáo liếc nhìn về phía tôi tuyệt vọng, ra dấu cần trợ giúp. Tôi từ chối đáp lại. Tôi hờn dỗi và bực bội. Tôi đến đây tối nay, tưởng rằng Arthur đã ít nhiều hàn gắn được với Kuno, rằng sự hòa giải đại khái đã được lót đường. Nhưng chẳng có gì cả. Kuno vẫn nghi ngờ Arthur, và có gì lạ đâu, cứ nhìn cách ông xử sự bây giờ thì ai chẳng nghi ngờ. Cảm thấy con mắt ông ta liên tục dò xét, tôi tiếp tục ăn, chẳng nhìn phải cũng chẳng nhìn trái.
“Cậu Bradshaw đây vừa mới quay về từ Anh.” Cứ như thể Arthur đã thô bạo đẩy tôi lên giữa sân khấu. Giọng điệu của ông van vỉ tôi hãy diễn vai của mình. Giờ thì cả hai bọn họ đang nhìn tôi. Kuno có vẻ hứng thú nhưng cảnh giác; Arthur thì tuyệt vọng rõ mồn một. Cả hai bọn họ đều khôi hài theo những cách riêng khiến tôi phải mỉm cười.
“Vâng,” tôi nói, “hồi đầu tháng.”
“Xin lỗi, cậu ở London?”
“Vâng, cứ đi đi về về.”
“Thật sao?” Con mắt Kuno ánh lên tia sáng dịu dàng. “Cho tôi hỏi ở đó thế nào?”
“Thời tiết tháng Chín rất đẹp.”
“À, tôi hiểu…” Một nụ cuời bí ẩn, nhàn nhạt nở trên môi ông ta; có vẻ như ông ta đang nhấm nháp những kí ức ngọt ngào. Mắt kính ông ta tỏa ra ánh sáng mơ màng. Khuôn mặt nghiêng sắc nét, cứng nhắc của ông ta trở nên trầm mặc, ủy mị và buồn bã.
“Tôi vẫn luôn cho rằng,” Arthur vô duyên chen vào, “London vào tháng Chín có nét duyên dáng của nó. Tôi nhớ một mùa thu đẹp tuyệt vời vào năm một ngàn chín trăm linh năm. Tôi vẫn thường đi bộ tới cầu Waterloo trước bữa sáng để ngắm nhà thờ St. Paul. Lúc đó, tôi có một căn phòng hạng sang ở khách sạn Savoy…”
Kuno có vẻ không nghe ông nói.
“À, thế còn tòa nhà Horse Guards sao rồi?”
“Vẫn ở đó.”
“Vậy sao? Tôi mừng là nó vẫn ở đó. Rất mừng…”
Tôi nhe răng cười. Kuno cười mỉm, ủ rũ và trầm lặng. Arthur bất ngờ phát ra tiếng khịt mũi lỗ mãng khiến ông ngay lập tức giơ tay che lại. Rồi Kuno ngửa cổ ra sau và cười phá lên: “Hô! Hô! Hô!” Tôi chưa bao giờ nghe ông ta cười thực sự. Tiếng cười của ông ta thật hiếm có, một dạng đồ cổ, một thứ truyền lại từ những bàn dạ tiệc của thế kỉ trước; quý tộc, nam tính và kiểu cách, ngày nay hiếm khi được nghe thấy trừ khi trên sân khấu. Có vẻ chính ông ta cũng hơi ngượng ngùng về tiếng cười ấy, bởi sau khi định thần lại, ông ta nói thêm, bằng tông giọng xin lỗi: “Cậu thấy đấy, thứ lỗi cho tôi, tôi có thể nhớ chúng rất rõ.”
Arthur nhoài người qua bàn ăn; giọng điệu trở nên mặn mà, “tôi nhớ tới một giai thoại truyền miệng về nhân vật này… Hãy gọi anh ta là Chúa X đi. Tôi có thể đảm bảo chắc chắn, vì tôi gặp anh ta một lần ở Cairo rồi, một người rất lập dị…”
Rõ ràng là bữa tiệc đã được cứu vớt. Tôi bắt đầu hít thở thoải mái. Kuno thả lỏng khá tinh tế, từ lịch sự nghi ngờ sang lịch sự vui vẻ. Arthur, hồi phục sau cơn lo lắng, đã hóm hỉnh và tinh quái. Chúng tôi uống rất nhiều Brandy và cạn ba chai Pommard. Tôi đã kể một câu chuyện cực kì ngu xuẩn về hai gã Scotland đi vào một giáo đường Do Thái. Kuno bắt đầu đá chân vào tôi. Trong tích tắc, tôi nhìn đồng hồ và thấy đã 11 giờ.
“Mong được lượng thứ!” Arthur thốt lên. “Nếu hai người thứ lỗi thì tôi phải lượn đây. Có chút hẹn…”
Tôi nhìn Arthur nghi hoặc. Tôi không biết là ông có hẹn vào tầm giờ này; vả lại, đây đâu phải là tối của Anni. Tuy vậy, Kuno không có vẻ gì là bị mất hứng. Ông ta rất thông cảm.
“Đừng nói thế, bạn của tôi… Chúng tôi đều hiểu mà.” Bàn chân ông ta giẫm lên bàn chân tôi dưới gầm bàn.
“Ngài biết đấy,” tôi nói, sau khi Arthur rời đi, “tôi cũng nên về thôi.”
“Ôi, không phải chứ?”
“Tôi nghĩ là phải,” tôi cứng rắn nói, mỉm cười và dịch chân tôi ra chỗ khác. Ông ta đang giẫm lên một vết chai.
“Tôi rất muốn chỉ cho cậu xem căn hộ mới của tôi. Chúng ta có thể đi ô tô, mất có mười phút.”
“Tôi cũng muốn lắm, để lần khác nhé.”
Ông ta nhợt nhạt mỉm cười.
“Vậy có lẽ để tôi đưa cậu về?”
“Cảm ơn ngài rất nhiều.”
Tay tài xế vô cùng điển trai nhanh nhảu chào, đẩy chúng tôi vào sâu trong chiếc xe limousine đen rộng. Khi chúng tôi đang lướt dọc Kurturstendamm, Kuno cầm tay tôi dưới tấm thảm lông.
“Cậu vẫn còn giận tôi,” ông ta khẽ gợi chuyện.
“Tại sao tôi phải thế chứ?”
“Ô vâng, xin lỗi, nhưng cậu vẫn còn giận.”
“Thực sự, tôi không hề giận gì đâu.”
Kuno khẽ siết tay tôi.
“Tôi hỏi cậu câu này được không?”
“Xin mời.”
“Cậu biết đấy, tôi không có ý gì nhưng cậu có tin vào tình bạn thuần khiết không nhục dục không?”
“Tôi nghĩ là có,” tôi cảnh giác đáp.
Câu trả lời có vẻ làm ông ta hài lòng. Giọng điệu ông ta trở nên bí mật hơn: “Cậu có chắc là sẽ không tới xem căn hộ của tôi không? Năm phút cũng không?”
“Không phải là tối nay.”
“Chắc chứ?” Ông ta siết tay.
“Chắc, chắc chứ.”
“Vậy tối nào đó chứ?” Một cái siết nữa.
Tôi bật cười: “Tôi nghĩ là tôi sẽ nhìn căn hộ rõ hơn vào ban ngày?”
Kuno khẽ thở dài, nhưng không tiếp tục chủ đề này nữa. Một lát sau, chiếc limousine dừng trước cửa căn hộ của tôi. Liếc lên ô cửa sổ của Arthur, tôi thấy đèn đang sáng. Tuy nhiên, tôi không đề cập chuyện này với Kuno.
“Chúc ngủ ngon, cảm ơn ngài đã cho đi nhờ.”
“Xin đừng khách sáo.”
Tôi gật đầu về phía tài xế. “Tôi nói với anh ta đưa ngài về nhà nhé?”
“Không, cảm ơn cậu,” Kuno đáp hơi buồn bã, nhưng cố gắng cười. “Tôi nghĩ là tôi chưa về ngay.”
Ông ta ngồi thừ xuống ghế đệm, nụ cười vẫn đang đóng băng trên gương mặt, mắt kính bắt tia sáng ma mị từ ánh đèn đường khi chiếc xe lướt đi.
Khi tôi bước vào căn hộ, Arthur xuất hiện trong chiếc áo sơ mi dài tay ở trước cửa phòng ông. Ông có vẻ khá hoang mang.
“Về rồi sao, William?”
Tôi toét miệng: “Ông không vui khi thấy tôi sao, Arthur?”
“Sao lại thế, chàng trai thân mến. Câu hỏi kì quá! Chỉ là tôi không nghĩ cậu lại về sớm thế.”
“Tôi cũng biết thế. Cuộc hẹn của ông cũng có vẻ không lâu lắm nhỉ.”
“À… nó bị hủy.” Arthur ngáp. Ông buồn ngủ đến mức chẳng buồn nói dối.
Tôi bật cười. “Ông có ý tốt, tôi biết. Đừng lo. Chúng tôi chia tay vui vẻ mà.”
Ngay lập tức ông tươi tỉnh hẳn. “Thật sao? Ôi, tôi mừng quá. Vừa rồi tôi cứ lo là đã có chút xung đột xảy ra. Giờ thì tôi có thể nhẹ nhõm mà đi ngủ rồi. Một lần nữa, William ạ, tôi phải cảm ơn cậu vô cùng vì sự giúp đỡ vô giá của cậu.”
“Lúc nào tôi cũng sẵn lòng,” tôi đáp. “Chúc ngủ ngon.”