← Quay lại trang sách

Chương mười một

Tuần đầu tiên tháng Mười một tới và cuộc bãi công bắt đầu. Thời tiết ẩm ướt, u ám. Mọi thứ ngoài trời đều bị phủ một lớp bụi nhờn nhụa. Mấy xe điện đang chạy, cảnh sát đi đi lại lại canh gác. Một vài xe bị tấn công, cửa sổ bị đập vỡ và hành khách bị buộc phải rời đi. Phố xá vắng vẻ, ẩm ướt và xám xịt. Mọi người kỳ vọng chính phủ von Papen* sẽ áp đặt thiết quân luật. Berlin có vẻ dửng dưng. Tuyên cáo, đọ súng, bắt bớ; chẳng có gì mới mẻ. Helen Pratt đặt cược vào Schleicher*: “Ông ta là tay lanh lợi nhất,” cô nói với tôi. “Nhìn này, Bill, tôi cá anh năm mác là ông ta sẽ thắng cử trước Giáng sinh. Chơi không?” Tôi từ chối.

Các đàm phán của Hitler với phe cánh Hữu đổ bể; phe Thập Ngoặc thậm chí còn đòng đưa ý nhị với phe Búa Liềm. Những cuộc đàm thoại qua điện thoại, như Arthur nói với tôi, đã diễn ra giữa các cơ sở đối địch. Lực lượng của Đảng Quốc xã bắt tay với Cộng sản trong đám đông, đả kích và dội mưa đá vào những kẻ phản đối đình công. Trong lúc đó, trên những cột dán quảng cáo ướt nhẹp, các bích chương của Đảng Quốc xã thể hiện đảng K.P.D dưới hình hài bộ xương khô trong quân phục của Hồng Quân. Trong vài ngày tới sẽ có một cuộc bỏ phiếu khác; lần thứ tư trong năm nay. Những cuộc mít-tinh chính trị luôn đông đủ; chúng rẻ hơn đi xem phim hay vào quán rượu. Người già ngồi nhà, trong những căn nhà tồi tàn ẩm thấp, đun cà phê mạch nha hoặc pha trà loãng, và luận bàn mà không có sự náo nhiệt của bài ca “Đập tan”*.

Ngày mùng 7 tháng Mười một, kết quả bầu cử được công bố. Đảng Quốc xã mất hai triệu phiếu. Đảng Cộng sản lấy được mười một ghế. Họ chiếm được đa số phiếu khoảng hơn 100.000 ở Berlin.

“Bà thấy không,” tôi nói với Frl. Schroeder, “tất cả là nhờ công của bà.” Chúng tôi đã thuyết phục bà đi ra quán bia ở góc phố và bỏ phiếu, lần đầu tiên trong đời. Và giờ bà phấn khởi như thể bà đã ủng hộ người thắng cuộc: “Ông Norris! Ông Norris! Nghĩ mà xem! Tôi chỉ làm y như những gì ông bảo tôi; và mọi thứ đều như ông nói! Vợ của ông phu khuân vác tức lắm. Bà ấy đã theo dõi bầu cử hàng năm giời, và bà ấy đã dự đoán là lần này Đảng Quốc xã sẽ thắng thêm một triệu phiếu nữa. Tôi đã được dịp cười vào mặt bà ấy. ‘Aha, Frau Schneider!’ tôi nói với bà ấy, ‘bà xem, tôi cũng biết chút đỉnh về chính trị đấy chứ!”’

Sáng hôm đó, Arthur và tôi tới phố Wilhelmstrasse để đến văn phòng của Bayer, “tận hưởng đôi chút trái ngọt chiến thắng,” như ông nói. Vài trăm người khác có vẻ cũng chung ý tưởng. Người lên xuống cầu thang đông tới mức chúng tôi chật vật lắm mới vào được trong tòa nhà. Mọi người đều hừng hực khí thế, réo gọi nhau, chào đón, huýt sáo, ca hát. Khi vật lộn lên cầu thang, chúng tôi gặp Otto đang đi xuống. Cậu ta suýt nữa giựt đứt luôn bàn tay của tôi trong sự phấn khích.

“Mensch! Willi! Jetzt geht’s los*! Cứ mặc bọn chúng bàn chuyện dẹp Đảng đi! Nếu chúng làm thế thì chúng ta sẽ chiến đấu! Tụi Đảng Quốc xã già nua thế là xong, chắc cú. Sáu tháng tới, Hitler sẽ không còn lấy một mống quân nào!”

Nửa tá bạn của cậu ta cũng đi cùng. Bọn họ đều bắt tay tôi nồng ấm như những anh em thất lạc lâu ngày. Trong khi đó, Otto vồ vập Arthur như con gấu. “Ông già này, Arthur, ông cũng ở đây ư? Tốt quá phải không? Hoành tráng phải không? Sao à, tôi vui tới mức có thể thụi cho ông một cú thật mạnh ấy!”

Cậu đấm Arthur một cú móc tình cảm vào mạng sườn khiến ông rúm người lại. Mấy người đi qua bật cười thông cảm. “Arthur đáng mến!” Một người bạn của Otto reo lớn. Cái tên được nghe thấy, lan xa, truyền từ miệng người này sang miệng người kia. “Arthur… Arthur là ai? Giời ơi, sao lại không biết Arthur à?” Không, họ không biết. Họ cũng chẳng quan tâm. Đó là một cái tên, là một tâm điểm cho lòng nhiệt thành của tất cả đám thanh niên đang háo hức này; nó đã hoàn thành nhiệm vụ. “Arthur! Arthur!” được vang lên từ mọi phía. Người ta gào lớn ở tầng phía trên chúng tôi, ở sảnh phía dưới. “Arthur ở đây!”

“Arthur muôn năm!”

“Chúng tôi muốn Arthur!” Cơn bão âm thanh dâng lên một lúc. Tiếng reo hò uy vũ, hồ hởi, có phần hài hước đồng loạt trào lên từ một trăm chiếc cổ họng. Hết đợt này tới đợt khác. Bậc cầu thang cũ kĩ rung lắc; một mảng thạch cao bé tí bị bong khỏi trần nhà. Trong không gian chật hẹp này, sự rung động là cực kì lớn; đám đông háo hức nhận ra tiếng động họ có thể tạo được. Có một chuyển động cuộn trào, bùng nổ, mạnh mẽ hướng vào trong, về phía khách thể đáng ngưỡng vọng không thấy mặt. Một làn sóng những người ngưỡng mộ huých nhau chạy lên gác, va chạm với một làn sóng khác đang đổ xuống từ phía trên. Ai cũng muốn chạm vào Arthur. Cơn mưa đập tay trút xuống bờ vai đang co rúm của ông. Một nỗ lực muốn tung ông lên không trung nhưng sai thời điểm suýt chút nữa làm ông bị ngã chúi đầu qua lan can. Mũ của ông bị hất rơi xuống. Tôi kịp bắt lấy nó và hoàn toàn biết trước sẽ phải cứu cả bộ tóc giả của ông. Hổn hển, Arthur cố gắng chịu đựng một cách khó khăn. “Cảm ơn…” Ông cố thốt thành lời. “Tốt quá… thực sự không xứng đáng… thật tử tế quá! Ôi trời!”

Ông có lẽ đã bị thương nghiêm trọng nếu Otto và bạn bè cậu ta không dẹp đường cho ông lên đầu cầu thang. Chúng tôi lập bập bước đi phía sau những cơ thể chuyển động mạnh mẽ của họ. Arthur tóm lấy cánh tay tôi, nửa sợ, nửa ngại ngùng sung sướng: “Không ngờ họ lại biết tôi, William ơi,” ông thì thào vào tai tôi.

Nhưng đám đông đâu đã xong chuyện với ông. Khi tới được cửa văn phòng, chúng tôi đứng ở vị trí thuận lợi mà đám đông những con người đang vật lộn trên cầu thang phía dưới kia có thể nhìn thấy. Vừa thấy Arthur, một tiếng reo hò cực kì lớn rung chuyển tòa nhà. “Phát biểu đi!” Có ai đó hét lên. Và đám đông hô theo: “Phát biểu! Phát biểu! Phát biểu!” Những người trên cầu thang bắt đầu giậm chân và gào thét theo nhịp điệu, tiếng ủng nặng nề của họ nện xuống uy vũ không kém tiếng đẩy của pít-tông khổng lồ. Nếu Arthur không làm gì để ngăn lại thì có vẻ toàn bộ cầu thang này sẽ bị đổ sụp.

Đúng vào thời khắc quan trọng này, cánh cửa văn phòng bật mở. Chính là Bayer đi ra để xem tiếng ồn đến từ đâu. Đôi mắt tươi cười của anh ta nhìn cảnh tượng với sự hứng thú của một vị hiệu trưởng khoan dung. Cơn náo động kia không làm khó anh một chút nào; anh đã quen với nó. Mỉm cười, anh bắt tay Arthur đang bối rối và sợ hãi, đặt bàn tay trấn an lên vai ông. “Ludwig!” những người chứng kiến gầm lên. “Ludwig! Arthur! Phát biểu!” Bayer bật cười với bọn họ, làm động tác chào hài hước và giải tán. Rồi anh ta quay lại, đưa Arthur với tôi vào văn phòng. Tiếng ồn bên ngoài dần chuyển thành tiếng hát và những câu đùa ầm ĩ. Ở văn phòng phía ngoài, những người đánh máy đang cố hết sức tiếp tục làm việc giữa những nhóm đàn ông và đàn bà đang hăm hở tranh luận. Tường được dán đầy những trang tin ghi kết quả bầu cử. Chúng tôi phải xô đẩy mới vào được căn phòng nhỏ của Bayer. Arthur ngay lập tức thả mình xuống ghế và bắt đầu cầm chiếc mũ được cứu vớt quạt lấy quạt để.

“Ôi, ôi… ôi trời! Tôi cảm thấy như bị cuốn đi theo vòng xoáy của lịch sử, thực sự tơi tả. Đây quả thực là mốc son vì Sự nghiệp.”

Đôi mắt Bayer nhìn ông lấp lánh hứng thú và ngỡ ngàng nhàn nhạt.

“Nó khiến ông ngạc nhiên à?”

“Chà, ờm, tôi phải thú nhận là, ngay cả trong những giấc mơ hoang đường nhất của tôi, chưa bao giờ tôi dám nghĩ tới một, ờm, chiến thắng có tính quyết định như vậy.”

Bayer gật đầu khích lệ.

“Đúng là tốt, đúng thế. Nhưng tôi nghĩ, sẽ là không khôn ngoan nếu cứ phóng đại tầm quan trọng của thành công này. Có nhiều nhân tố góp phần. Chiến thắng này, ông gọi là gì nhỉ, mang tính hình tượng?”

“Mang tính biểu tượng,” Arthur chữa lại, với một tiếng ho khẽ. Đôi mắt xanh lơ của ông bất an chuyển hướng tới đống giấy tờ trên bàn viết của Bayer. Bayer nở nụ cười rạng rỡ với ông.

“À, đúng. Mang tính biểu tượng. Giai đoạn mà chúng ta hiện đang trải qua có tính biểu tượng. Chúng ta vẫn chưa sẵn sàng bước sang bên kia phố Wilhelmstrasse.” Anh ta làm động tác hài hước, chỉ về phía cửa sổ, hướng Bộ Ngoại giao và dinh cơ của Hindenburg. “Chưa, vẫn chưa.”

“Anh có nghĩ” tôi hỏi, “rằng tình hình này Đảng Quốc xã đã hết cách?”

Anh ta lắc đầu quyết đoán. “Thật không may là không. Chúng ta có lẽ không nên lạc quan quá. Sự đảo chiều này với họ chỉ mang tính tạm thời. Anh thấy đấy, anh Bradshaw, tình hình kinh tế đang có lợi cho họ. Tôi nghĩ chúng ta sẽ nghe nhiều hơn từ những người bạn của chúng ta.”

“Ôi, xin đừng nói bất cứ điều gì không vui,” Arthur lí nhí, vần vò chiếc mũ. Đôi mắt ông vẫn lo lắng nhìn chiếc bàn. Ánh mắt của Bayer dõi theo.

“Ông không thích Đảng Quốc xã hả, Norris?”

Giọng điệu anh ta đầy hứng thú. Anh ta có vẻ thấy Arthur đặc biệt buồn cười trong chính giây phút này. Tôi không hiểu nổi vì sao. Bước về phía chiếc bàn, anh ta bắt đầu sắp xếp giấy tờ trên đó, như thể chỉ tiện tay.

“Thật là!” Arthur phản đối, giọng kinh ngạc. “Sao anh có thể hỏi như thế? Một cách tự nhiên là tôi không thích họ. Những sinh vật xấu xa…”

“À nhưng ông không nên thế!” Vô cùng cẩn trọng, Bayer rút từ trong túi một chiếc chìa khóa, mở ngăn kéo ở bàn làm việc, và lấy ra một túi nặng được niêm phong. Đôi mắt nâu đỏ của anh ta lấp lánh tia giễu cợt. “Bề ngoài vậy thôi. Người theo Đảng Quốc xã hôm nay có thể là người cánh tả ngày mai. Khi họ nhìn thấy cương lĩnh của giới lãnh đạo đã đưa họ tới đâu thì có lẽ sẽ không quá khó để thuyết phục họ. Tôi ước gì mọi sự thù địch có thể được hòa giải theo cách ấy. Có những người, ông thấy đấy, sẽ không lắng nghe những lập luận như vậy.”

Mỉm cười, anh ta lật chiếc túi trong tay. Mắt Arthur dán vào nó, như thể đang bị ép buộc. Bayer có vẻ đang tận hưởng giây phút thực hành sức mạnh thôi miên của mình. Dù sao thì Arthur rõ ràng rất không thoải mái.

“À… đúng. Thì… có thể anh đúng….”

Có một sự im lặng kì lạ. Bayer đang tự cười với mình, ý nhị, khóe môi chỉ vừa vặn nhếch lên. Tôi chưa bao giờ thấy anh ta trong tâm trạng ấy. Đột nhiên, anh ta tỏ ra quan tâm tới thứ đang cầm.

“Chà, dĩ nhiên rồi, Norris thân mến… Đây là những tài liệu mà tôi đã hứa sẽ cho ông xem. Ông có thể trả lại tôi vào ngày mai được không? Ta phải chuyển chúng đi, ông biết đấy, càng sớm càng tốt.”

“Dĩ nhiên rồi. Dĩ nhiên…” Arthur khẽ nhảy khỏi ghế để đón lấy chiếc túi. Ông giống như con chó được giao phó cho miếng đường. “Tôi sẽ giữ thật cẩn thận, tôi đảm bảo với anh.”

Bayer mỉm cười, không nói gì cả.

Vài phút sau, anh nhiệt tình hộ tống chúng tôi ra về bằng cầu thang sau dẫn xuống sân. Arthur nhờ đó tránh được cuộc đụng độ với những người hâm mộ.

Khi chúng tôi đi dọc phố, ông dường như trầm tư và có vẻ không vui. Ông thở dài hai lần.

“Thấy mệt sao?” Tôi hỏi.

“Không mệt, chàng trai thân mến. Không… tôi chỉ đơn giản đang chìm đắm trong cái thói thích triết lý xấu xa của mình thôi. Khi cậu bằng tuổi tôi cậu sẽ thấy ngày một rõ ràng hơn cái sự lạ lùng và phức tạp của cuộc đời. Ví dụ như sáng nay. Nhiệt huyết giản đơn của tất thảy những thanh niên ấy; nó thực sự làm tôi cảm động sâu sắc. Vào những dịp như thế, người ta lại cảm thấy bản thân thật không xứng. Tôi đồ rằng có những người sẽ không tự vấn lương tâm như vậy. Nhưng tôi không phải là họ.”

Điều lạ lùng nhất về lời bộc bạch kì quái này chính là rõ ràng Arthur thực sự có ý như vậy. Đó là một phần thành thực của lời thú tội, nhưng tôi không hiểu được gì.

“Vâng,” tôi thử động viên, “đôi lúc tôi cũng tự cảm thấy thế.”

Arthur không đáp lại. Ông chỉ thở dài lần thứ ba. Bóng tối lo âu đột nhiên lướt qua gương mặt ông; vội vàng ông lần mò chỗ túi áo phồng lên do tập giấy tờ Bayer đã đưa cho ông. Chúng vẫn còn ở đó. Ông thở phào.

Tháng Mười một trôi qua không nhiều biến động. Tôi lại có nhiều học sinh hơn và bận rộn. Bayer đưa cho tôi hai văn bản dài để dịch.

Có tin đồn rằng đảng K.P.D sẽ bị cấm; rất sớm thôi, trong vài tuần nữa. Otto rất khinh bỉ. Chính phủ sẽ không bao giờ dám, cậu ta nói. Đảng sẽ chiến đấu. Tất cả thành viên trong chi bộ của cậu ta đều có súng lục. Cậu ta nói với tôi họ lấy dây treo súng vào các thanh bao quanh trần lưới sắt trong quán rượu, để cảnh sát không tìm được. Dạo này cảnh sát rất tích cực. Chúng tôi nghe nói Berlin sắp được dọn sạch. Mấy người mặc thường phục đã vài lần bất ngờ đến chỗ Olga nhưng đều không tìm thấy gì. Cô ta rất cẩn thận.

Chúng tôi ăn tối với Kuno vài lần và uống trà ở căn hộ của ông ta. Ông ta lúc thì tình cảm lúc lại lạnh nhạt. Nghị sự đang diễn ra trong Nội các có lẽ khiến ông ta vô cùng lo lắng. Và ông ta nuối tiếc sự tự do tự tại của lối sống phóng túng thời trước. Trách nhiệm cộng đồng cấm cản ông ta giao du với nhóm thanh niên trẻ mà tôi đã gặp ở biệt thự Mecklenburg của ông ta. Giờ vỗ về ông ta chỉ còn những tấm hình của họ được đặt trong cuốn album sang trọng mà ông ta khóa kĩ trong một chiếc tủ bí mật. Một ngày nọ Kuno cho tôi xem khi chỉ có hai người chúng tôi.

“Thi thoảng, vào buổi tối, tôi thích ngắm nghía chúng, cậu biết không? Và rồi tôi tự bịa một câu chuyện rằng chúng ta tất cả đều đang sống trên một hòn đảo hoang thuộc Thái Bình Dương. Thứ lỗi cho tôi, hi vọng cậu không nghĩ là nó ngu ngốc?”

“Không đâu,” tôi trấn an ông ta.

“Cậu thấy đấy, tôi biết là cậu sẽ hiểu.” Được khích lệ, ông ta thẹn thùng tiếp tục thú nhận nhiều hơn. Giấc mộng đảo hoang kia không có gì mới mẻ. Ông ta đã nâng niu nó hàng tháng trời, nó đã dần trở thành một sự sùng bái riêng tư. Dưới tác động của nó, ông ta đã thu thập một thư viện nhỏ những câu chuyện cho bé trai, hầu hết bằng tiếng Anh, liên quan tới kiểu phiêu lưu này. Ông ta đã nói với người bán sách rằng mình mua cho cậu cháu ở London. Kuno không thấy thỏa mãn với hầu hết các cuốn sách này. Trong đó có người lớn, hay kho báu chôn giấu, hay các phát minh khoa học kì thú. Ông ta chả hứng thú gì với mấy thứ đó. Duy chỉ có một câu chuyện thực sự khiến ông ta hài lòng. Đó là Bảy Kẻ Bị Lạc.

“Đây là tác phẩm thiên tài, tôi thấy vậy.” Kuno khá chân thành. Đôi mắt ông ta lấp lánh nhiệt tình. “Tôi sẽ rất vui nếu cậu cũng dành thời gian đọc nó, cậu biết đấy?”

Tôi cầm cuốn sách về nhà. Dĩ nhiên với thể loại này nó không hề tệ. Bảy cậu bé, tuổi từ mười sáu tới mười chín, bị dạt vào một hòn đảo hoang, nơi có nước và vô vàn cây cỏ. Chúng không có thức ăn và không có công cụ nào ngoài một con dao nhíp bị hỏng. Phần lớn bắt chước từ cuốn Gia đình Robinson*, cuốn sách kể lể về chuyện chúng đi săn, đi câu, dựng lều và cuối cùng tự giải cứu bản thân. Tôi đọc một lèo hết cuốn sách và trả lại Kuno vào ngày hôm sau. Ông ta mừng rỡ khi tôi khen ngợi nó.

“Cậu có nhớ Jack không?”

“Cậu bé giỏi câu cá? Có.”

“Giờ thì xin hãy nói cho tôi nghe, cậu ta chẳng phải giống Günther sao?”

Tôi chả biết Günther là ai nhưng đã đoán đúng cậu ta là một trong mấy người tham gia tiệc tùng ở Mecklenburg.

“Đúng thế, khá giống.”

“Ôi, tôi mừng là cậu cũng thấy thế. Thế còn Tony?”

“Cậu bé leo trèo rất xuất sắc ư?”

Kuno háo hức gật đầu. “Cậu ta có khiến cậu nhớ tới Heinz không?”

“Tôi hiểu ý của ngài.”

Cứ thế chúng tôi đi hết các nhân vật khác, Teddy, Bob, Rex, Dick: Kuno đều có một bản sao cho mỗi nhân vật. Tôi tự khen ngợi bản thân vì đã thực sự đọc cuốn sách và nhờ thế mà có thể xuất sắc vượt qua bài kiểm tra kì quặc này. Cuối cùng là Jimmy, nhân vật chính của câu chuyện, nhà vô địch bơi lội, cậu bé luôn chỉ đạo mọi người trong tình huống khẩn cấp và có đầu óc giải quyết mọi khó khăn.

“Có lẽ cậu không nhận ra cậu ta?”

Giọng điệu của Kuno ngượng ngùng một cách buồn cười. Tôi nhận ra mình phải cẩn thận, nếu không sẽ đưa ra đáp án sai. Nhưng tôi phải nói gì bây giờ?

“Tôi cũng có chút hình dung…” Tôi đánh liều.

“Cậu có ư?” Ông ta thực sự đang đỏ mặt.

Tôi gật đầu, mỉm cười, cố gắng tỏ vẻ thông tuệ, chờ đợi manh mối.

“Cậu thấy đấy, cậu ấy là chính tôi.” Kuno đoan chắc. “Khi tôi còn nhỏ. Nhưng giống hệt. Tác giả là một thiên tài. Ông ấy đã kể những điều về tôi mà chẳng ai có thể biết. Tôi là Jimmy. Jimmy là chính tôi. Thật tuyệt diệu.”

“Thực sự rất lạ lùng,” tôi đồng tình.

Sau đó, chúng tôi đã vài lần nói chuyện về hòn đảo. Kuno kể cho tôi tỉ mỉ hình dung của ông ta về nó, và đi rất sâu vào ngoại hình và tính cách những người bạn đồng hành tưởng tượng của mình. Rõ ràng ông ta có một trí tưởng tượng phong phú. Tôi ước gì tác giả của Bảy Kẻ Bị Lạc có thể ở đó lắng nghe ông ta. Tác giả sẽ phải rùng mình mà nâng niu trái ngọt thành quả cho công sức không mấy tham vọng của mình. Tôi nhận ra rằng mình là kẻ duy nhất Kuno chia sẻ chủ đề này. Tôi cảm thấy bối rối như thể không may bị buộc phải trở thành thành viên của một hội kín. Nếu Arthur ở cùng chúng tôi thì Kuno sẽ thẳng thừng thể hiện ý muốn gạt ông ra và được ở riêng với tôi. Arthur dĩ nhiên nhận ra điều đó và làm tôi nổi đóa khi cố tình gạn hỏi cuộc nói chuyện riêng giữa chúng tôi. Dù sao thì tôi cũng không có ý tiết lộ bí mật bé nhỏ của Kuno tội nghiệp.

“Nghe này” có lần tôi đã nói với ông ta, “tại sao ngài không làm điều đó?”

“Gì cơ?”

“Tại sao ngài không tới Thái Bình Dương và tìm một hòn đảo như hòn đảo trong sách, và thực sự sống ở đó? Có người đã làm thế rồi đấy. Chẳng có lý do gì mà ngài lại không làm thế cả.”

Kuno buồn bã lắc đầu.

“Xin lỗi, không được. Là bất khả thi.”

Giọng ông ta thật kiên quyết và thật buồn, tới mức tôi nín lặng. Và tôi cũng không bao giờ đưa ra gợi ý ấy thêm lần nữa.

Thời gian trôi đi, Arthur càng ngày càng trở nên ủ rũ. Tôi sớm nhận ra ông có ít tiền hơn. Không phải do ông kêu ca. Quả thực ông đã trở nên rất kín tiếng về những vấn đề của mình. Ông cố gắng hết sức hạn chế chi tiêu, không đi taxi và lấy lý do đi xe buýt cũng nhanh không kém, tránh các nhà hàng đắt tiền, vì như ông nói, bụng dạ ông không tiêu hóa được đồ ăn mỡ màng. Anni cũng ít tới hơn. Arthur bắt đầu đi ngủ sớm. Ban ngày, ông đi ra ngoài nhiều hơn. Tôi phát hiện ra ông dành nhiều thời gian ở văn phòng của Bayer.

Không lâu sau đó một bức điện tín khác tới từ Paris. Tôi chẳng mấy khó khăn thuyết phục Frl. Schroeder, người tò mò vô sỉ chả kém gì tôi, hà hơi mở phong bì trước khi Arthur quay về nghỉ trưa. Đầu chụm sát lại, chúng tôi đọc: Trà ông gửi không tốt gì cả không thể hiểu nổi vì sao tin rằng ông có người con gái khác không hôn. Margot.

“Cậu thấy chưa,” Frl. Schroeder thốt lên, kinh sợ, “cô ấy đang cố gắng dừng lại.”

“Cái quái gì…”

“Ôi chao, cậu Bradshaw,” bà sốt ruột khẽ đập vào tay tôi, “sao cậu lại chậm hiểu thế! Dĩ nhiên là đứa bé rồi. Ông ấy chắc đã gửi cho cô ấy thứ gì đó… Ôi, đám đàn ông này! Nếu ông ấy mà tới gặp tôi thì tôi đã có thể bảo ông ấy phải làm gì- Chưa bao giờ thất bại.”

“Vì Chúa, Frl. Schroeder, đừng có nói bất cứ điều gì về chuyện này cho ông Norris.”

“Ôi, cậu Bradshaw, cậu có thể tin tôi!”

Tôi nghĩ dù sao thì cung cách của bà chắc cũng khiến Arthur đoán ra chuyện chúng tôi đã làm. Vì sau lần này, điện tín từ Pháp đã không tới nữa. Arthur, tôi đoán, đã thận trọng sắp xếp để chúng được chuyển tới địa chỉ khác.

Và rồi một tối đầu tháng Mười hai, khi Arthur ra ngoài và Frl. Schroeder đang tắm, chuông cửa reo. Tôi đã tự mình ra mở cửa. Ở đó, nơi ngưỡng cửa, là Schmidt.

“Xin chào, anh Bradshaw.”

Gã trông bệ rạc và lôi thôi. Gương mặt béo phị bóng nhờ của gã trắng bệch. Lúc đầu tôi tưởng gã bị say.

“Anh muốn gì?” Tôi hỏi.

Schmidt nhe nhởn khó chịu. “Tôi muốn gặp Norris.” Chắc chắn gã đã đọc được suy nghĩ của tôi, vì gã nói thêm: “Anh không cần phải nói dối tôi, vì tôi biết lão sống ở đây, đúng không?”

“Giờ anh không thể gặp ông ấy. Ông ấy ra ngoài rồi.”

“Có chắc là lão ấy ra ngoài không?” Schmidt nhìn tôi cười, nheo nheo mắt.

“Chắc chắn. Nếu không thì tôi chẳng nói thế với anh làm gì.”

“Vậy thì… tôi hiểu rồi.”

Chúng tôi đứng nhìn nhau một hồi, mỉm cười chán ghét. Tôi muốn đóng sầm cửa trước mặt gã.

“Ông Norris tốt nhất là nên gặp tôi,” Schmidt nói, sau một lát, giọng điệu thản nhiên như thể đây là lần đầu tiên gã đề cập tới chuyện này. Tôi kín đáo đưa chân chặn cửa, phòng khi gã đột nhiên nổi đóa.

“Tôi nghĩ là,” tôi nhẹ nhàng nói, “đó là vấn đề mà ông Norris phải tự cân nhắc.”

“Anh sẽ không nói với lão ý là tôi đến đây à?” Schmidt liếc xuống nhìn chân tôi và táo tợn cười. Giọng chúng tôi hòa nhã và trầm tới mức bất kì ai ngang qua cầu thang cũng đều có thể nghĩ rằng chúng tôi là hàng xóm đang trò chuyện thân mật.

“Tôi đã nói với anh là ông Norris không có nhà. Anh không hiểu tiếng Đức à?”

Nụ cười của Schmidt xấc xược kinh khủng. Cặp mắt nheo lại của gã nhìn tôi vừa hứng thú vừa chê bôi, tựa hồ tôi là một bức tranh bị vẽ hỏng. Gã nói chậm rãi, với sự nhẫn nại cao độ.

“Có lẽ chuyển tới ông Norris tin nhắn của tôi cũng không quá phiền cho anh?”

“Được, tôi sẽ chuyển.”

“Vậy anh có thể nói với ông Norris rằng tôi sẽ đợi thêm ba ngày nữa, chỉ ba ngày thôi nhé? Anh hiểu chứ? Cuối tuần này, nếu tôi vẫn không nghe tin gì từ lão thì tôi sẽ làm như tôi viết trong thư. Lão sẽ hiểu ý tôi. Có lẽ lão nghĩ là tôi không dám. Vậy thì, lão sẽ sớm phát hiện ra lão đã nhầm. Tôi không muốn phiền phức, trừ phi lão muốn thế. Nhưng tôi phải sống… Tôi phải chăm nom cho bản thân như lão. Tôi có quyền của tôi. Lão chớ có nghĩ là lão có thể dìm tôi xuống bùn…”

Gã đang thực sự run rẩy. Một thứ cảm xúc bạo lực, cơn giận hay sự yếu đuối cực độ, đang làm người gã run như cầy sấy. Trong khoảnh khắc tôi tưởng rằng gã sẽ ngã.

“Anh ốm à?” Tôi hỏi.

Câu hỏi của tôi có tác động kinh hồn tới Schmidt. Nụ cười mỉa mai, thớ lợ của gã cứng lại thành sự căm hận. Gã đã hoàn toàn mất kiểm soát. Tiến một bước về phía tôi, gã quát vào mặt tôi. “Không phải là việc của mày, mày nghe rõ không? Mày chỉ cần nói với lão Norris điều tao nói. Nếu lão không làm như tao muốn thì tao sẽ khiến lão phải hối hận vì đã sống trên đời. Và cả mày nữa, đồ con lợn!”

Cơn kích động của gã đột nhiên lan sang tôi. Lùi lại, tôi đóng sầm cửa, hi vọng giập trúng cái hàm đang gào thét hung hăng kia. Nhưng không có chuyện gì xảy ra. Giọng gã dừng lại như chiếc đĩa hát bị nhấc kim. Gã cũng không phát ra bất lừ âm thanh gì khác. Khi đứng đó, phía sau cánh cửa đã đóng, tim tôi thình thịch cơn giận dữ, tôi nghe thấy tiếng bước chân khẽ khàng của gã đi qua và bắt đầu xuống thang.