← Quay lại trang sách

- 2 -

Bẵng đi mấy hôm cấm trại, người lính khố đỏ ấy lại chiều chiều ra bờ biển tập phóng dao như cũ. Đứng trước cổng đồn lính Tây Ga-li-ê-ni nhìn ra biển, chếch mé tay phải có những rặng dừa trồng trước đã lên khá cao và lắm trái. Lũ trẻ con lang thang bán cà-rem cây, đánh giày, đánh phấn mũ, ăn xin và ăn cắp các chợ nữa, đã quen chỗ thường kéo tới coi anh lính làm trò.

Nửa năm trước, khi anh mới đổi về đây và bắt dầu ném dao, đứa nào cũng sợ. Trông bộ tướng anh dễ khiếp: da đen thui, mắt trắng dã, thân hình rất to ngang và hơi lùn, tóc hớt ca-rê gần trọc, xăm những chữ và hình gì quái gở đầy ngực và hai tay. Thấy anh từ xa đi tới, hai vai lúc lắc như gấu, lũ trẻ đâm đầu chạy và gọi nhau: “Lính Đê đó bay!”. Thứ lính ở đâu trên núi cao ấy về Quy Nhơn ngày càng đông, có người hiền kẻ dữ, nhưng họ nói gì không hiểu được, qua vài ba câu gà lẫn với vịt là họ nổi khùng lao vào đánh lộn.

Dần dà, không thấy anh rượt đuổi la hét gì, bọn trẻ sán lại làm quen. Anh ta là người Kinh, nói giọng pha Sài Gòn nhiều, chỉ ra bãi cát tập ném dao và uống rượu, bấy nhiêu thôi. Có hôm anh mang theo một ổ bánh mì to trong túi dết, chỉ cắt một lát nhắm rượu còn chia hết cho trẻ con. Một lần thấy dừa sai quả, anh leo lên chặt cả buồng, cho chúng cả. Mọt tên cảnh sát đạp xe trên đường nhựa thấy thế, vừa thổi còi vừa bước vội tới ghi phạt. Anh lính rút dao găm ra liếc trên bàn tay, xổ một tràng tiếng gì lạ hoắc, chỉ tiếng quát cuối cùng là dễ hiểu: “Xà-lù, cu-soong, phút-lơ-căng”.Tên cảnh sát chạy biến luôn. Anh cười hô hố:

- Tụi bay kêu tao là lính Đê, tao giả làm Đê luôn cho nó kinh cha! Moi cát chôn dừa đi, tối ra lấy, xách đi bây giờ nó chặn đường nắm đầu hết đó.

Từ hôm ấy, anh có mấy chục đàn em trung thành.

Chiều nay cũng như mọi lần, anh lừ lừ đi tới giữa đám khán giả chờ sẵn, gật đầu chào mà không nói. Lũ trẻ đúng lệ cũng im lặng dàn thành hình vòng cung. Vài đứa mới dự cuộc lần đầu láu táu lên tiếng, bị số cũ thúc cùi tay đau điếng:

- Câm họng không? Anh đang bái tổ kia!

- Thấy gì đâu...

- Nhỏ cái miệng! Là ảnh sắp sửa bái tổ. Ngu lắm, người ta đi câu mập, đi săn, hay làm công chuyện gì như ảnh đó, là không được mở miệng. Biết chưa?

- Ờ, ờ...

Người lính móc túi áo lấy ra mảnh giấy báo vẽ sẵn một vòng tròn xộc xệch với một điểm đen ở giữa, ghim nó lên gốc dừa to đầy sẹo bằng mấy cái đinh ghim cài sẵn trêu ngực áo. Lùi lại cách gốc dừa chừng hai chục bước, anh rút trong cái túi dết ra cái bao bằng da trâu dày, bên trên có vòng da để đeo vào thắt lưng như bao dao găm. Nó chứa tới năm con dao thép rất mỏng xếp ép vào nhau như bộ nhíp xe ô tô. Dao của anh không giống một kiểu nào sẵn có: cán và lưỡi liền nhau một thanh thép, lưỡi dài độ một gang hình lá tre nhọn hoắt và bén cả hai cạnh, cán ngắn bằng một phần ba lưỡi và có khoan lỗ ở đầu mút.

Đang đứng, anh chợt nhảy lên, giẫm bịch hai đế giày đinh xuống cát, sụn đầu gối như người đánh võ xuống tấn, hai tay úp giữ bộ dao chắp lại trước ngực. Mắt nhìn thẳng vào bia, anh lẩm nhẩm khấn trong miệng. Không ai nghe được lời khấn, chỉ thỉnh thoảng nhận ra hai tiếng hơi to: “Hích! Hích!”. Lũ trẻ không thấy tức cười như hôm đầu nữa, chỉ rờn rợn ngắm người lính đen như khối than đang làm phép thuật gì đó trước khi giết kẻ thù. Có đứa tái mặt hẳn đi, không dám thở.

Xong, anh đứng xoay người chân trước chân sau, rút ra một lưỡi dao, ném bằng tay phải.

Kiểu ném có khác với gánh hát xiệc của người Chệt hay diễn rong trên các phố. Anh không cầm mũi dao mà cầm cán để ném, vung tay rất mạnh, con dao rời tay chỉ xoay mũi tới trước một phần tư vòng tròn là cắm phập luôn vào cây. Anh xướng to trước khi ném: “Tay mặt!”. Dao đâm vào mé bên phải của vòng tròn trên giấy. “Tay trái!”. Dao xóc đúng bên trái. Tiếp hai mũi cắm mé trên và mé dưới. Anh dừng lại một chút, thổi nhẹ và xoa ngón tay trên mũi dao cuối cùng như dỗ đành nó, rồi vung dao lên quá đầu, hét to: “Hồng tâm!”. Con dao bay vụt rất mạnh, nghe rõ tiếng vù xé gió, cắm lút vào gốc dừa ngập đến nửa lưỡi, xuyên qua điểm đen chỉ bằng đồng bạc hoa xòe giữa tờ giấy.

Người lính cười khà, rút cái bi-đông sắt tây trong túi dết ra - kiểu bi-đông Pháp có miệng to để rót nước và miệng nhỏ để uống - tu một hơi rượu dài. Lũ trẻ biết đó là lúc cười giỡn xả láng. Chúng đổ xô tới cây dừa, những đứa lớn rướn lên nhổ giúp mấy con dao dễ sợ. Đứa nào cứng tay nhất mới nhổ được con dao hồng tâm. Chúng đã được bày vẽ cách lấy dao thế nào cho khỏi gãy mũi nhọn. Từng đứa đem trả dao, nâng bằng hai tay rất kính cẩn.

- Dạ, anh Năm phóng mạnh quá, em lắc đau tay mới nhổ được đó.

- Nói thiệt chớ, dạ thưa anh Năm, em được cái tài như anh, em đi hát xiệc đủ nuôi cả nhà...

- Dạ, sao anh Năm không rèn vài chục lưỡi ném luôn cho thiệt đã thèm? Ném ào ào như súng cối xay mới sướng, anh Năm à!

Anh Năm tu một hơi rượu dài nữa. Mặt vẫn đen nhưng mắt anh bắt đầu chạy những sợi máu đỏ. Anh nói cà rà:

- Tại cha mẹ sinh ra tao thứ năm, gì cũng phải theo số năm hết. Rèn chục lưỡi thì phải đổi tên, cứ để là thằng Năm Phi Đao cho gọn... Giỡn chơi thôi. Nói tụi bay biết, đời tao thù có một thằng thôi. Tao tầm sư học đạo cũng tính giết một mình thằng đó thôi. Phóng năm lưỡi phi đao mà không giết được nó thì tao cũng chết tươi rồi, nó giết lại tao, hay là tao tức hộc máu tao chết không chừng.

- Anh có súng, bắn nó dễ hơn chớ!

- Khờ quá, thằng tửng! Xếp Tây có cho mượn súng về làng đâu mày! Thằng thù đó ở làng. Hạ nó bằng dao là nhứt, đem theo không ai thấy, phóng đi không ai nghe, trúng cuống họng trước thì n chẳng la ó gì được. Số dách, thấy chưa?

Thêm một ngụm nữa, rồi Năm Phi Đao nhét nút bi-đông. Anh chợt thấy một đứa trẻ lạ ngồi khép nép sau lưng mấy đứa lớn.

- Thầy cai nào mới đổi về đây? Lại tao hỏi coi.

Một đứa lớn tranh nói vội:

- Dạ, nó là thằng Cam. Bộ dạng nhát gan như con còng rúc lỗ vậy chớ bỏ nhà đi hoang đó anh. Nó lì lì cả ngày, tụi em kêu là thằng Câm, hì hì...

- Bay ăn hiếp lắm hay sao mà nó sợ quá vậy?

- Dạ... ờ, cái đó cũng có chút đỉnh, đứa khác chớ không phải em.

- Mày làm gì kiếm ăn, Cam? Móc túi hả?

Thằng bé bị đẩy trước mặt Năm, cúi mặt nói lí nhí. Năm bật một tiếng “hừ” trong mũi:

- Miệng mồm kiểu đó mà dám theo chó hoang mèo lạc! Hèn gì coi mày ốm nhom, xanh lét như ma chết trôi. Sáng giờ có miếng nào chưa?

Cam vẫn đáp lí nhí, lắc đầu. Năm móc trong túi dết ra một khúc bánh mì, thứ làm bột mì thật mà chỉ lính Tây mới được phát. Anh bẻ một miếng cắn nhai luôn, còn lại đưa hết cho Cam:

- Ăn đi nhỏ. Tụi bay phải thương nó, nhường nhịn nó, nghe chưa? Đứa nào ép bức nó thì liệu hồn với tao.

Lũ trẻ chung quanh dạ ran lên. Quanh năm chúng nó quen đánh chửi nhau, ăn nói tục tằn, nhưng trước mặt anh Năm thì đứa nào cũng lễ phép, ngọt ngào, anh dặn điều gì thì chúng làm theo răm rắp, cả khi anh vắng mặt. Mấy đứa lớn kháo nhau rằng anh Năm có cái tướng tinh làm đầu nậu, có phép thôi miên hay bùa chài gì đấy, gặp ảnh là trong bụng cứ thấy nể nể sợ sợ. Với lại chúng cũng muốn dựa thế của anh để bọn lớn và khỏe, thường nhảy ra làm đầu nậu thu thuế trẻ con, không dám làm quá tay. Nếu anh mãn lính, chịu làm ông trùm của đám trẻ không cửa không nhà, ôi chao, mấy trăm đứa trẻ sẵn sàng góp tiền nuôi anh sướng bằng ông vua Bảo Đại!

Trong khi thằng Cam gặm nhai ngấu nghiến khúc bánh mì, Năm Phi Đao sửa soạn tập ném dao bằng tay trái. Lũ trẻ dạt ra thành hình cánh cung như cũ. Anh Năm nói nhỏ xin lỗi:

- Tao phóng tay trái tồi lắm, đừng cười nghen.

Hai lưỡi dao ném tay trái không cắn đúng mép vòng tròn như trước. Anh co tay sắp ném lần thứ ba, chợt nghe tiếng kêu “úi!”. Thằng Cam thả rơi khúc bánh mì xuống cát, mắt trô trố ngó phía sau lưng Năm, mặt nhợt đi. Nó há miệng định nói gì, nhưng cặp môi run chỉ mấp máy mà không thốt ra lời.

Năm quay nhìn đằng sau. Chẳng thấy ai. Chỉ có hai bóng người mặc quần Âu, sơ-mi trắng, một cao một thấp, đang rời đường nhựa đi xuống bãi cát. Họ bước thong thả và nói chuyện với nhau, gầu đúng hướng anh đứng nhưng không có vẻ muốn ghé lại xem. Thằng Cam bỗng chồm dậy, đâm đầu chạy rất nhanh vào đám dừa mới trồng sau, xòe lá lòa xòa sát đất, biến mất.

- Thằng nhỏ sợ gì vậy, tụi bây? Đứa nào dọa nó hả?

Lũ trẻ cũng ngạc nhiên như anh. Một đứa rụt rè:

- Chắc là tánh nó khùng khùng, anh Năm à...

*

* *

Hai người trẻ tuổi đi cách nhóm ném dao hơn chục thước, chỉ liếc nhìn thờ ơ, nói tiếp chuyện của họ vừa đủ nghe trong tiếng sóng biển vỗ gần.

- Toa cắm đầu học Luật, học giỏi nữa, cái đó tụi moa bái phục. Có điều học ra toa làm gì? Toa hay chửi bọn quan Nam Triều ăn tiền như cá đớp cứt, vậy toa có vô trường Hậu bổ để ra tri huyện không? Hay là làm trạng sư? Ở nước mình bây giờ, nói một câu phải lẽ tụi Tây không bắt Nhật cũng nắm đầu, toa cãi cho ai nghe?

Người thấp nhỏ nói hăng, đấm nắm tay phải vào lòng bàn tay trái để chấm câu. Người bên cạnh cao hơn hẳn một đầu, khoanh tay trước ngực, im lặng nghe. Cặp chân dài của anh đếm bước rất chậm mà bạn anh phải đi gấp mới theo kịp.

- Vậy đó Khánh.... moa thấy Khánh là người có tài có đức mới nói thiệt tình... Cái Chương trình Việt Minh với mấy tờ báo đó, Khánh đọc cho kỹ. Còn giờ thì moa cho mượn thêm cuốn Principes du léninisme của Xta-lin, viết gọn mà sắc sảo lắm.

- Cậu mới kiếm được thứ đó à?

- Mấy anh bên Pa-ri gởi về hồi Mặt trận Bình dân, chuyển lần lần tới moa. Về sau moa phải chôn kỹ, mà chọn vườn khác chớ không chôn vườn nhà moa khi soát nhà tụi mật thám xăm miết mà không đụng. Hà hà... giữa thời buổi đảo điên này, chong đèn khuya đọc sách chính trị, tìm câu trả lời cho trăm ngàn dấu hỏi đang bò chồng chất trong óc như bầy đỉa đói, cần lắm chớ!

Mặt trời gần khuất hẳn sau đường chân trời gẫy khớp của dãy mái nhà dọc bờ biển. Sóng đánh mạnh hơn trên mặt biển đã ngả sang màu chì, điểm thưa thớt vài cánh buồm về muộn.

Họ quay lên phía đường nhựa vừa lên đèn phòng thủ. Người thấp nhỏ trầm ngâm một lát, chợt bật cười:

- Toa vẫn đáng mặt huynh trưởng Hướng Đạo như xưa. Chín chắn, mẫn mực, không uống rượu hút thuốc, không nói chen tiếng Pháp, ít nhiều misogyne trong khi các ả mê lăn lóc. Đẹp zai, nhà zàu, học ziỏi, cầm kỳ thi họa đều zu zương số zách! Các nàng bốc như lửa, chàng cứ lạnh như nước đá. Cô nào tới gặp moa đều giả bộ vồ vập vài câu đầu lưỡi, tiếp đó hỏi toàn chuyện anh Khánh, anh Hai Khánh, anh Hăng-ri Khánh. Thằng Tư Tuyển biến ra cái ghế cho các cô bước chân lên, cố với tay đến thần tượng đặt cao trên đầu tủ. Cái hồi toa đang học thi mà cứ đoạt cái cúp bơi lội học sinh Trung Kỳ, úi chà chà...

Hai Khánh cười to, xua tay:

- Cho qua, cho qua... Tay Việt Minh tới thuyết minh ở Hà Nội đó, cậu thấy nên tin hắn không?

Người bạn nghiêm giọng lại:

- Bọn A.B [1] bây giờ xuống nước hung, vậy chớ đôi thằng túng tiền còn làm chó kiếm ăn. Còn bọn Đệ Tử “số dách cách miệng” đang được Pháp cưng ghê gớm, đừng nghe mà lầm. Toa nhờ mấy đứa bạn thân trong sinh viên hỏi dò tung tích hắn ta thử coi, hễ thấy đứng đắn thì bắt liên lạc. Việt Minh lên mạnh lắm, đâu đâu cũng có. Tụi áp-phe bắt đầu in phiếu giả để quyên tiền cho Việt Minh rồi đó, người ta mắc lừa nhiều. Một cha thông ngôn trong tòa Sứ cho moa coi một tờ, cha đó quyên ba chục lấy cái bùa hộ mạng!

Tuyển liếc ngược lên dò nét mặt Khánh và tiếp:

- Với lại... Tây cũng ít nghi ngờ con trai ông phủ Đỉnh có thể theo Việt Minh. Bốc trúng một thằng A.B, hạng mình thì tù mọt xương, còn toa có sẵn ông già tháo gỡ cho...

Khánh dừng phắt lại, giọng đanh hẳn:

- Cậu đừng nói bậy. Mình chịu lấy họ ông phủ Đỉnh vì thương mẹ mình phải đi bước nữa, chịu làm vợ lẽ ông ta, chứ thật ra mình... mình rất khinh cái lão dê xồm mà mình phải gọi bằng ba ấy. Lão ấy lấy mẹ mình để đào mỏ, mẹ mình lấy lão để thoát thân phận góa bụa, chẳng ai thương yêu ai hết. Lão tới ba vợ, còn cả mớ nhân tình với con hoang nữa, mình là cái thớ gì mà hòng dựa vào lão... Được rồi, mình sẽ suy nghĩ thêm về lời khuyên của cậu. Cứ yên trí thằng này có gan làm, có gan chịu. Cậu tin mình chứ?

Khi nổi nóng, Khánh nói hẳn giọng Hà Nội. Mỗi khi về quê, anh cố gò cho giọng mình gần giống mọi người để khỏi bị chê là mất gốc. Tuyển nắm cổ tay Khánh, bóp mạnh:

- Xin lỗi, xin lỗi. Moa cứ tưởng ông Phủ không có con trai chắc quý toa lắm. Moa tin Khánh, rất rất tin. Khánh surhomme. Khánh superman. Khánh siêu nhân của trường Khải Định năm xưa kia mà! Vấn đề đối với Khánh bây giờ không phải dám hay không dám hành động, mà là chọn lý tưởng nào để hiến thân vậy thôi... Ôi chao, trễ quá rồi. Vợ moa bắt lùng mua xà-bông thơm chợ đen về tắm cho con, không kịp nữa rồi, về nhà lại phải nghĩ ra đôi lời phủ dụ cho yên lòng dân chúng. Ô-voa nghe!

Khánh nhìn theo Tư Tuyển đi gấp dưới quầng sáng vàng vọt của điện đường, kéo theo cái bóng cũng xổng xểnh và tất tưởi như tính nết anh ta. Một người tốt bụng, thật thà nhưng cuộc đời là một chuỗi chu kỳ bốc đồng và vấp ngã, nay là anh giáo dạy tư. Cậu ta đang bốc với Việt Minh đây, nhưng xem ra chưa hiểu gì nhiều về phong trào này.

Chưa nghe tên một danh nhân nào cầm đầu Việt Minh cả. Ông Nguyễn Ái Quốc đã chết trong nhà tù Ăng-lê, tiếc thật. Các bạn sinh viên nhắc loáng thoáng tới ông cụ Hồ Chí Minh nào không rõ, tên rất lạ tai. Kể về táo bạo hẳn là họ có thừa. Chẳng táo bạo mà lại dám hô hào “đánh Tây đuổi Nhật” giữa lúc Pháp vừa thu hồi bờ cõi và thuộc địa, Nhật đang làm chủ khắp Đại Đông Á! Để xem ông giáo dạy tư đang lo vợ mắng kia sẽ ra tay “đánh Tây đuổi Nhật” thế nào cho biết!

Khánh bật cười thành tiếng với ý nghĩ ấy, lững thững đi theo đường Khải Định về phố Gia Long. Một bóng con gái từ sau trụ đen bước tới thì thào: “Em có buồng riêng kín đáo lắm, mời thầy...” Hiện ra một khuôn mặt trẻ nhưng rất gầy, trát bự phấn sáp. Hai má hõm sâu. Chiếc áo dài vải hoa hẳn được may vào thời béo tốt, nay xếp nhiều nếp nhăn trên ngực và chung quanh cái cổ ngẳng nổi cả chùm gân. Mùi nước hoa bốc hăng hắc, không thơm. Cô gái điếm bám sát bên anh: “Dạ, em con nhà tử tế, không phải như họ. Hoàn cảnh mẹ già em dại anh à...”. Anh thoáng nhớ một nhân vật đứng đắn trong truyện của Lê Văn Trương đã trả lời cô gái nhảy cứ sấn vào mình: “Thưa cô, tôi liệt dương!”. Độc miệng thật... Khánh moi hết mớ hào lẻ trong túi quần, ước chừng được một đồng, dừng lại:

- Tôi biếu cô uống nước. Thôi nhé, đừng theo mất công.

- Dạ, cảm ơn thầy nhiều.

Một ông già ăn xin ngồi trên vỉa hè trông thấy cảnh ấy, bước ra nhanh, ngửa nón rên rỉ:

- Thầy thương thì thương cho khắp. Mấy cô đó xài tiền như nước, thân già như con lạy xin thầy lấy lưng chén cháo thôi...

Ăn mày trong này nói năng thật thà, không đọc thuộc lòng những bài dài đủ vần điệu như ăn mày ngoài Bắc. Khánh cố lục các túi. Hết nhẵn cả xu lẻ. Chỉ còn cái khăn mùi xoa của Duyên tặng, không cho được. Anh nói vội: “Hết sạch rồi bác!”, bỏ đi sải chân, vẫn nghe tiếng chửi lầu bầu của ông lão ném theo.

Tiệm buôn vải của bà Lợi Thịnh trước kia lọt thỏm trong đường vắng, nhờ ông phủ Đỉnh về Qui Nhơn chạy chọt thu xếp mới ngoi ra được giữa phố Gia Long, cái phố buôn bán tấp nập nhất và được sửa sang nhiều nhất. Từ ngày Nhật sang, hàng vải khan hiếm và lên giá vòn vọt, bà Lợi Thịnh chỉ dám bán nhỏ giọt những xúc vải tích trữ trước chiến tranh, ngả sang buôn thêm tạp hóa, lãi ít hơn nhưng bán đi còn mua lại được.

Vừa thấy Khánh nhô ra dưới ánh điện, cô em gái buông tập kiếm hiệp xuống quầy, gọi toáng vào nhà trong:

- Me, me ơi, anh Hai về, ảnh về đây nè!

Bà Lợi Thịnh bước vội ra, tay cầm khăn lau:

- Đâu, đâu... Thời buổi tàu bay tàu lặn mà con cứ dông dài, me ở nhà không làm ăn gì được...

- Me lạ chưa, con mới đi từ trưa tới tối!

- Ờ, thôi, tính nết me vậy đó... Con Ba bưng nồi bồ câu ra, để me bày bàn. Anh chúng mày hai ngày nữa lên tàu rồi. Anh nhớ cô nào Hà Nội chớ đâu có nhớ mẹ con mình. Đường sá trục trặc, bom đạn rầm rầm...

Đến lượt cô Tư phát gắt với mẹ:

- Kỳ cục không, ảnh đi xa mà me nói toàn chuyện rủi!

- Ờ, thôi, thôi... Vào ăn cho nóng đi con. Cả nhà ăn hết rồi. Me múc sẵn thau nước bên bếp đó, rửa cái cho mát.

Bà Lợi Thịnh ngồi trước mặt Khánh, múc từng muôi bồ câu hầm hạt sen mộc nhĩ đổ vào bát anh, giục anh ăn và kể chuyện không ngớt bằng giọng Bắc pha một nửa Bình Định. Khánh nhai thong thả, nghĩ nói nhiều có phải là tật về già không nhỉ? Me mới bốn mươi ba, tuổi Dần, đến tết vừa rồi được bốn mươi bốn tuổi ta. Trông me còn trẻ hơn tuổi... Xem tập an bom của me hồi còn là cô Thịnh phố Phe-ry, quả là giai nhân tuyệt sắc. Mấy ông dập dìu ngày xưa nay đến chơi còn nhắc tên những người nộp đơn nhà cô Thịnh, có cả phó sứ Pháp và tuần vũ góa vợ. Ba mình chỉ là anh thư ký nhà Đoan, được chọn nhờ đẹp trai và ngón đàn vi-ô-lông. Ba thụt két, đi tù, chết bệnh lao phổi. Lão phủ Đỉnh quay về với me, lão xấu xí đến phát tởm.

Câu chuyện của bà Lợi Thịnh nhảy sang vụ trộm năm ngoái. Ông cậu làm ở tòa án chỉ nghi thằng Cam mở cổng sau cho trộm vào bê mất hòm xà-bông Mạc-xây với một súc vải nội hóa. Khánh giật mình:

- Thằng Cam nào? Con ông Tư Chua ở Linh Lâm phải không me?

- Nó đấy. Ông phủ đem nó vào đây cho me sai vặt, trả ông Chua hai chục đồng. Nó đến đầu năm, mới bốn tháng nhà mình bị ăn trộm. Me cũng chẳng biết nó mở cổng sau hay là ăn trộm cạy khóa, mà cậu con cứ đoán chắc là thằng Cam thông đồng, ổng nhốt nó trong buồng tắm, đánh ghê quá, tối nào cũng như đòn mật thám, cả nhà bỏ cơm hết. Đánh riết ba buổi tối, me chịu không nổi lén thả nó ra, ngó qua ngó lại nó đã trốn mất tăm, không về nữa…

Khánh nhớ ngay thằng bé hồi chiều bỗng vọt chạy khỏi đám trẻ con xem ném dao. Nó gầy ngẳng, đầu trọc, cao hơn hồi giữ ngựa ở ấp ông phủ. Đúng thằng Cam đang trốn đi hoang. Nó sợ mình là phải. Biết đâu mình không túm bắt nó lôi về, để cậu mình tra tấn đến chết. Có luật lệ nào bênh vực một đứa trẻ ở mướn đâu. Đánh chết thì chôn, trả thêm cho cha mẹ nó vài chục bạc là xong. Mình học luật cũng không bênh được nó. Bênh nó thì mẹ mình, cậu mình ra tòa, và tòa cũng chỉ xử trắng án!

Khánh đẩy bát bồ câu hầm ra, buông đũa, rót nửa cốc rượu canh-ki-na Con Mèo uống cạn, lầm lì bước xuống bếp. Bà Lợi Thịnh gọi giật:

- Em con nó bưng thau nước lên đây rồi mà!

Vừa lúc ấy, trên đầu Khánh bỗng dậy lên tiếng xô đẩy bàn ghế ồn ào cùng nhiều tiếng cười gái trai lẫn lộn. Tiếp tới một cây đàn vi-ô-lông bắt đầu kéo bài “Buồn tàn thu” của Phạm Duy đang là thời thượng. Khánh dỏng tai nghe và cau mày. Bà Lợi Thịnh cầm sẵn khăn mặt đứng bên anh, thì thào:

- Mấy hôm nay thằng Chương rủ bạn về cầu cơ hoài. Nó nói cô Mai Linh tiên nữ giáng cho thơ, nhiều bài hay lắm. Chẳng học hành gì hết. Con nói với nó một tiếng...

Rô-be Chương là em cùng cha cùng mẹ của Khánh mới mười lăm tuổi mà đã thích làm trò nghệ sĩ, học như ả chơi trăng. Khánh lắc đầu chán ngán.

Chú thích:

(1) Anti-bolchévik (Tay sai chống cộng sản của Pháp)