- 3 -
Tiếng còi báo yên vẳng đến từ xa. Chị vợ Bảy Tộ rướn mình lách qua cửa hầm hẹp, hai tay bồng nách hai đứa con đẻ sinh đôi, nặng nhọc leo từng bậc. Bảy Tộ với ông khách ngồi bên bếp lửa vẫn say chuyện, quên hết tàu bay và trẻ con. Chị tức sôi lên, muốn gào thật to cho cả xóm biết cái cảnh khốn khổ của chị. Rốt cuộc, chị lặng im đặt hai con xuống chõng cho chúng nó ngủ, chui xuống hầm xốc đứa nhỏ đầu lòng lên, trút cơn giận vào bàn chân đá mạnh cái thùng bên lối đi. Họ vẫn không quay đầu lại.
Bảy Tộ hoa tay, nói khẽ nhưng vệt râu mép ngắn và đậm đen cứ nhảy thon thót:
- Lão cai Tống thay anh làm vi-dít-tơ, bị chửi kinh khủng. Rù rờ một cây mà. Cũng xách búa đi gõ như anh mà có biết hư nên cái chó gì đâu. Lão phân bua với anh em: “Thằng Chanh con nhà thợ rèn, đẻ nằm nôi đã nghe tiếng búa, tôi bì sao được với nó!” Thằng Chẩn vặn luôn: “Vậy sao bác lập-bô cho họ bắt mất anh Chanh?”. Lão chối lia lịa, chẳng ai tin. À mà thằng Ghi-ôm-mê, thằng kỹ sư đề-pô đó, coi bộ nó về phe Đờ Gôn anh ơi. Có lần nó chửi lão cai Tống một hơi dài, bỏ đi, thằng Bảy thông ngôn dịch lại cho tụi em: “Thà rằng mày theo cộng sản mà giỏi tay nghề như thằng Chanh, tao cứ coi trọng, chớ mày làm chỉ điểm cho Nhà nước mà dốt đặc như con heo, tao đuổi”. Anh em sướng lỗ tai quá (1)
Cả Chanh cười nhẹ:
- Ngoài cai Tống ra, còn ai chỉ chọt nữa không?
- Dạ. Không đâu anh. Đứa nào thèm cũng sợ. Làm cho Tây sợ Nhật bắt, cho Nhật sợ Tây bắt. Làm cho cả hai thì sợ bị đẩy vô đường ray xe lửa, tà-vẹt rớt xuống đầu, dây điện quấn vô chân, hà hà... Hạng chót như em, vậy chớ đứa nào đi hót nhà Đoan lên khám đầu máy của em tìm cơm đen, em cho xe kẹp không kịp trối vái. Thiếu gì cớ, anh cả!
Chai rượu lậu và đĩa tôm khô đã vơi chừng hai phần ba, hầu như một mình Bảy Tộ nhắm và uống.
Cả Chanh chỉ nhấp trà, cạn bình lại châm thêm nước sôi trong ấm đặt trên bếp. Khuya rồi, quanh xóm im ắng cả, họ cứ dông dài hoài hoài. Chị vợ Bảy Tộ cố chợp mắt một lát để tới gà gáy đầu dậy làm hàng. Chị bán bún bò với bánh canh, thuê con nhỏ nhà bên giữ ba đứa con. Trằn trọc mãi không ngủ được, chị nhỏm dậy vấn tóc, nhìn kỹ lại ông khách lạ. Không phải bạn cùng sở với anh Bảy, chị quen họ cả bởi sáng nào cũng bán hàng trước ga. Cũng chẳng phải tay buôn lậu nào thậm thụt đến nhà, dân buôn ít hỏi về nghề thợ xe lửa.
Chị cố nghe những câu lổn nhổn tiếng Tây trong khi ngắm ông khách. Trán cao, lông mày nét mác, mắt hơi xếch. Râu thưa lởm chởm quanh miệng. Tóc cắt vụng bằng kéo hiện những tầng ong xếp lớp. Da sạm như người miền ngược mới về. Anh Cả, anh Cả Chanh, là ai vậy? Bà con anh Bảy ở nhà quê ra... chắc ảnh nói phỉnh thôi, bà con gì mà nói giọng tỉnh khác... Chị ngả lưng xuống và lịm đi lúc nào không biết.
Một bàn tay vỗ mãi vào vai chị. Chị chớp mắt khá lâu mới tỉnh, vừa nghe tiếng gà gáy râm ran. Bảy Tộ đứng bên giường, gọi chị dậy nổi lửa làm hàng.
- Ông kia... đâu rồi anh?
- Đi rồi. Xuống đò dọc về quê rồi.
- Hứ, tưởng tôi ngu... Ai đó nói thiệt coi.
Bảy Tộ ngồi xuống sát bên chị, thở ra mùi rượu nhưng vẻ mặt vẫn vui và trịnh trọng:
- Thì nói thiệt đây nè. Anh là cộng sản, trốn tù về. Anh tin tôi, thương tôi, mới ghé thăm nhà mình chốc lát đó. Liệu mà giữ miệng mồm.
Cộng sản, tù cộng sản... Chị bỗng quờ tay sang phía hai đứa con trai sinh đôi như bom sắp rớt xuống đầu, rên rỉ:
- Anh không kể gì nhà cửa, cũng phải thương con với chớ. Bắt bớ lung tung vậy...
- Tôi đưa ảnh đi chỗ khác rồi. Nghe dặn kỹ đây hồi nào ảnh tới hỏi tôi thì phải đưa ảnh vô buồng trong, nói cặn kẽ, ảnh muốn nghỉ lại thì phải xếp chỗ thiệt kín, cơm bưng nước rót đàng hoàng, nghe chưa?
- Sợ quá đi...
- Sợ hả? Thì chạy luôn tới sở mật thám, khai là thằng Bảy Tộ nó dắt cộng sản vô nhà, vợ chẳng dính dáng tới chồng. Tiền thưởng cũng khá đó... Anh là ân nhơn của tôi, biết chưa? Hồi đó tôi nhậu nhẹt đôi chén, cãi lại xếp Tây chút xíu nữa bị đuổi, ảnh đứng ra rủ anh em kêu kiện riết, tôi mới khỏi mất việc. Người ta làm ơn cho mình mà mình lánh né, thà làm con chó kiếm cứt mà ăn!
Chị Bảy lặng lẽ xuống bếp, nhen lửa, bắc nồi nước chan lên hâm, quay sang soạn gánh. Hồi lâu chị mới buông lơ lửng:
- Cũng phải nói cho rành ảnh ăn uống ra sao, có cần têm trầu mời thuốc gì không, hay là ưa rượu như anh...
Bảy Tộ đã nằm vật xuống thay chỗ chị, ngáp dài, nhắm mắt, nói lúng búng.
- Miễn đi, khỏi... Anh đâu phải là hạng tụi này...
Anh ngủ tít luôn. Chị vợ đẩy củi vào bếp, vẫn băn khoăn: không cùng một hạng với chồng thì phải tiếp đón sao đây, trọng vọng hơn hay sơ sài hơn?
Trong khi ấy, Cả Chanh cũng đang ngả lưng xuống giường, thay chỗ cô con gái rượu của ông Hai Rề.
Tên cúng cơm ông Hai là gì chẳng ai biết, người quen thường gọi theo tên con là ông Thùy, anh em trong xưởng lại đặt cho ông là Hai Rề, kêu riết cũng quen tai. Tính ông hơi rề rà một chút cùng có, nhưng cái chính là ông làm nghề rề-pa-ra-tơ (2) rất cực nhọc đã hết một đời thợ mà không được đổi.
Qua hơn năm năm mà ông thợ già vẫn nhớ ám hiệu gõ cửa của Chanh: ba tiếng rời, hai tiếng gấp. Sau lần gõ thứ hai, ông đã lên tiếng trong nhà, tỉnh như chưa hề ngủ:
- Ai rứa?
- Dạ cháu. Thằng Cả vi-dít-tơ đây.
Ông lặng lẽ mở cửa mà không thắp đèn. Đóng cửa, gài cây ngáng xong, ông mới nắm bắp tay Chanh lắc thật mạnh như thử sức, rồi bằng giọng Quảng Nam đặc sệt:
- Chú về có giấy tờ ghi không?
- Có giấy, cháu đã khỏi đi đêm!
- Liên lạc với ai chưa? Ai dẫn chú?
- Cháu ghé Bảy Tộ hồi mới tối, hỏi thăm nhiều. Nó dắt cháu băng lên khỏi xóm Ga, cháu chia tay giữa đường, đổi hướng, vòng tới đây một mình.
- Rứa là được. Tây mới gởi trát về, treo tiền thưởng bắt chú.
Ông Hai Rề vốn ít nói. Ông thắp cây đèn dầu nhỏ ngọn, đưa Chanh xuống rửa bằng lu nước mưa để dành nấu cơm cạnh bếp. Ông kỹ tính đến cái độ khách vất mẩu thuốc lá vào góc nhà, ông đi nhặt bỏ vào đúng chỗ ngay trước mặt khách. Chanh quay vào thì nơi nằm đã xếp xong. Cô Thùy con gái đầu lòng ra ngủ gian ngoài với hai em, nhường buồng và giường cho anh. Rất áy náy nhưng biết nết chủ nhà, anh chỉ cười nhẹ:
- Cung kính bất như phụng mệnh, xin tùy bác!
- Ừ, ngủ đã. Vừa may sáng mai tôi nghỉ, mặc sức ta bàn tính. Có động thì thoát như cũ.
Ông chỉ lên đầu vách xây hở, cách mái nhà vừa một người nằm sấp lách qua. Ông nhặt cái bao tải đựng nắm khoai khô, đôi guốc xuồng mà ông tự đẽo bằng gỗ mộc, cầm đèn bước ra ngoài. Đầu ông vẫn ngửa ngửa ra phía sau do cái tật riêng của thợ rề-pa-ra-tơ, quanh năm đứng dưới hố ngửa cổ lên mà sửa dưới gầm các toa xe lửa.
*
* *
Mãi mấy ngày sau thằng Cam mới trở lại chỗ Năm Phi Đao. Nó đói quá đâm liều. Đói đến loạng choạng lảo đảo, đi không vững, ngủ không yên, ngó trời đất thấy vàng khè. Lảng vảng chung quanh cái chợ xép xóm Động hay những chỗ kéo lưới trên bãi vắng, nó gặm những đầu củ sắn xơ cứng, nướng mấy con ba khia bỏ lại trong đám rong giũ lưới, lượm nhai mớ chân cua luộc để hít lấy nước, về sau nó nuốt luôn cả bã sắn và bã cua.
Dạo này giáp hạt, người ăn xin và ăn cắp túa ra đầy các ngõ ngách. Thằng Cam không dám ăn cắp, chỉ nghĩ đến những đêm tra tấn trong tiệm bà Lợi Thịnh là đủ cho nó lạnh run. Nó cũng không biết ăn xin. Lũ trẻ trạc tuổi nó và nhỏ hơn nó xin xỏ rất tài. Vừa vật lộn rầm rầm trên bãi đấy, chúng đã đi cà nhắc thọt chân, chìa bàn tay quấn giẻ, kêu thảm thiết: “Lạy ông đi qua lạy bà đi lại, cha mẹ con chết bom tan xác, ông bà thương con què cụt chẳng có ai nuôi...”. Cam chỉ biết nép vào góc vắng, chìa ra một bàn tay run rẩy, nói lí nhí: “Con đói quá, con xin một xu...” Các bà buôn bán ở chợ ít ngại những đứa ồn ào và quen mặt, mỗi ngày họ cho mỗi đứa tí chút là xong. Họ nghi thằng nhỏ lầm lì kia hơn, xin không cần được, con mắt lấm lét, chui rúc chỗ khuất, đúng là đứa chuyên nghề đá cá lăn dưa!
Nhác thấy thằng Cam ngồi nép sau lưng lũ trẻ. Năm Phi Đao đã vẫy nó tới gần:
- Đói muốn gục rồi hả? Đúng, mày là thằng Câm, thằng khùng. Ăn đi nè!
Vừa trông thấy khúc bánh mì, Cam đã nuốt nước bọt dồn dập. Nó cắn nhai vội vã đến nỗi mắc nghẹn, trợn cả mắt. Anh Năm vỗ vào gáy nó, hệt các bà mẹ chữa phép khi con bị nghẹn:
- Xuội, xuội, xuội.. Đây không có nước, mày không uống được rượu đâu, ăn rài rài chớ.
Cuối buổi, lũ trẻ lại dạ ran khi anh dặn chúng kiếm được gì ăn phải chia cho thằng Cam.
Tới chiều hôm sau, Năm Phi Đao không tập ném dao mà kéo Cam đi theo mình ra chỗ vắng. Anh bắt đầu thương nó như một người to khỏe thương con chim trên tổ rớt xuống, chỉ biết há mỏ và rung đầu đòi ăn. Cam cũng bắt đầu chịu sức hút của tảng đá nam châm đen thui và lởm chởm là người lính khố đỏ.
- Mở miệng to tao nghe. Ai ăn thịt mày mà run như đứa kinh phong vậy! Nhà mày ở đâu?
- Dạ...em không có nhà.
-Tía má mày đâu? Mày nói giọng Quảng, ở Quảng Nam vô hả?
Cam nín lặng một lát bỗng nói dồn dập:
- Em ở Quảng Nam vô đây ở mướn. Họ nghi em ăn trộm, đánh quá chừng, em phải trốn. Cha mẹ em ở hết ngoài đó, em muốn về ngoải lắm. Anh Năm làm sao cho em về, em lạy anh Năm...
Nó khóc nấc lên, cố nín, lại bật hu hu to hơn. Năm cuống quýt lục trong túi dết, ném ra cát một cái tẩu hút thuốc, ba vỏ đạn, miếng giẻ lau súng nhem nhuốc.
- Không có thứ gì ăn, thôi mày nhấp chút rượu cho khỏe. Không chịu nổi hả? Đi với tao.
Anh đưa nó lên đường nhựa, thẳng tới một gánh cháo tôm cua đặt trên vỉa hè. Bà hàng thoáng thấy thấy bóng áo ka -ki đã vơ đòn gánh chực chạy. Anh khoát tay:
- Khỏi, khỏi. Nhiêu một tô, bà?
Anh moi túi sau lấy ra mấy hào lẻ, những đồng hào bằng sắt mạ kền ra đời trong chiến tranh thay hào bạc thật, ném xuống mẹt.
- Thằng nhỏ hai tô cháo hai cắc, tôi một cắc chả mực. Tương ớt nhiều vô bà.
Anh tu từng hơi trong bi đông, thỉnh thoảng gắp mật miếng chả bỏ vào tô cháo nóng mà Cam húp sì sụp. Mồ hôi vã đầy mặt nó. Thỉnh thoảng nó ngước nhìn lên, cái sướng cái ngon làm sáng cả bộ mặt gầy hóp. Nó thổi, nuốt, thở phì phò bằng mũi.
- Ăn chậm chậm, phỏng miệng đó nhỏ. Tao đói nhiều phen rồi, mà tao không khờ như mày đâu. Phải biết bốc hốt mà nhét vô bụng chớ!
Lát sau, bên gốc dừa thấp, anh tròn mắt khi nghe Cam nói nó ở làng Linh Lâm:
- Ủa, mày con ai ở Linh Lâm? Ông Chua nào? Tư Chua thợ rèn ở Xóm Mới à? Hóa ra mày là em Cả Chanh chớ sao?
Đến lượt Cam sửng sốt khi nghe người lính nói giọng Sè-goòng lạ tai kia kể từng tên một. Nó mừng quá đỗi:
- Anh Năm cũng ở Linh Lâm à? Anh quen cha em, quen anh Cả?
Người lính dốc ngược bình rượu, uống hớp cuối cùng ngồi thần mặt ra hồi lâu. Rồi anh đứng dậy, nói thong thả:
- Ừ, tao ở Linh Lâm, tao quen nhà mày... Để mai kia đã... Hỏi thiệt, mày có muốn làm em nuôi tao không, Cam?
- Dạ muốn, em muốn quá đi anh Năm!
- Tao bớt mỗi ngày một xị rượu, tao nuôi mày. Tao còn sống là mày còn sống. Chiều mai mày đừng ra chỗ phóng dao nữa, đợi tao chỗ Giê-đô... là chỗ cái hồ có vòi nước phun ngược đó. Mai nghe... Chào ồi, cuộc đời chó đẻ! Quá ư chó đẻ!
Anh bỏ đi về cổng trại lính, hai vai lắc như vai gấu. Cam đứng ngẩn nhìn theo, không hiểu gì cả và hơi sờ sợ. Đi một quãng xa nó mới nhớ lời anh Năm hứa nhận nó làm em nuôi, bớt rượu để nuôi nó. Người ta chỉ nuôi trẻ con làm đứa ở chăn trâu hay sai vặt thôi. Ảnh là lính trong đồn, cần gì đứa ở? Chắc là ảnh say. Có người say hung dữ, cũng có người say lại ưa chọc ghẹo, ba lơn cười chơi... Tim nó đập vui chỉ mấy phút, đã thấy nhoi nhói đâu trong người. Nó ứa nước mắt lặng lẽ.
*
* *
Mưa trút từng cơn từ nền mây xám đen như khói tàu dầu bốc cháy. Gió đổi chiều không ngớt, khi thổi phía Phương Mai vào, khi mé Gành Ráng thổi ra. Cái vòi phun vẫn xịt nước lên trời một cách đần độn, nước của nó tạt xuống chỉ làm cho những ai qua lại đầu phố Khải Định cố vòng xa né tránh và chửi lầm bầm.
Thằng Cam ngồi lì trên mép hồ xây xi-măng, phía vòi phun không tưới nước. Có lúc lạnh quá, nó chạy xuống bãi cát, chui vào cái miếu nhỏ dưới gốc cây tra già cho đỡ ướt. Miếu này thờ cá ông voi hay ăn mày chết giờ thiêng, mỗi người nói một phách. Nó không cần biết, chỉ nhớ những chùm trái tra non nó hái ăn khi quá đói, chát đến rát lưỡi khô họng. Ăn xong ngủ luôn trong miếu, chỗ góc tường khuất. Khát nước thì ra uống thứ nước lờ lợ trong hồ.
Chỗ ngã ba này đông người qua lại, lâu nay nó tránh đến ban ngày. Hôm nay thì khác, anh Năm dặn nó đợi ở đây. Núp lâu trong miếu, sợ ảnh tới tìm không thấy, ảnh giận bỏ về. Nó chỉ cởi quần đùi với áo ba lỗ, vắt ráo nước, lại ra ngồi chực hồ. Mỗi bóng người đi tới đều làm nó phập phồng, nhưng tất cả đều đi thẳng, chẳng ai để ý tới cái bóng nhỏ ngồi co ro dưới mưa.
- Tội nghiệp, ướt hết hả em?
Cam chồm dậy. Anh Năm đứng sau lưng nó lúc nào không hay. Anh choàng cái tơi lá, đội nón lá, mặc quần đùi và đi chân trần như dân cày dạo coi ruộng, nửa trên vẫn mặc áo lính và đeo túi dết.
- Coi có chỗ nào khô ráo, ta ghé vô.
Cam nắm tay anh kéo thẳng về phía miếu. Anh bỏ tơi nón, cười khà:
- Cái thằng, coi khờ khờ mà hóa ra thổ công thổ địa! Chẳng uổng công anh Năm nhờ người ta sắm đồ bảnh cho mày.
Cam hoa mắt khi anh xổ trong túi dết ra một cái quần tây vải xanh chỉ hơi bạc màu chỗ đầu gối, tiếp cái áo sơ-mi tím mới vá mấy đường chỉ máy trên cổ tiếp một cái quần đùi vải ta trắng chưa hề giặt. Nhiều, sao nhiều quá...
- Cởi hết ba thứ giẻ rách ra, mặc đồ mới tao coi. Mụ vợ thằng cai Sáu khéo lựa đó, bị cái ăn lời quá sá. Con mẻ kỳ vậy, ai cũng ghét mà ai cũng phải nhờ tay mụ... Ống quần hơi dài, mày xếp lên một nếp, còn lớn nữa mà. Trễ rồi, tao phải về đồn đây. Bữa nay không có gì ăn, cho mày năm cắc. Mai đi hớt cái tóc, tắm rửa sạch sẽ, đón tao chỗ gánh cháo tôm cua đó, tao dẫn tới ở nhà vợ cai Sáu.
Cam đang hớn hở tự ngắm mình từ trên xuống dưới, bỗng lạnh toát cả người. Đầu gối nhủn ra, nó suýt ngồi thụp xuống, cố gượng mới đứng được. Nó lắp bắp:
- Anh.. anh biểu em đi ở mướn...
- Ngu vừa vừa chớ! Tao gởi mày cho mẻ đó, ăn cơm tháng trả tiền đàng hoàng. Nhà mẻ có bốn đứa học trò ở trọ, thêm mày nữa là năm. Tối mày đi học Truyền bá quốc ngữ, ban ngày học ở nhà, chỗ nào không hiểu thì mấy đứa kia chỉ vẽ cho. Tụi đó học trường Coliège (3) Võ Tánh, con nhà nghèo hết, tao gặp thấy hiền khô à. Con mẻ hay đứa nào ăn hiếp mày, coi như rồi đời với tao!
Vợ cai Sáu là thím Lụng, nhà ở sâu trong xóm Bàu, làm nghề buôn rổi cá và nấu cơm tháng cho học trò nghèo. Anh Năm đưa Cam đến với một cái rương nhỏ, gần như rỗng, nhưng bắt buộc phải có để không ra vẻ là đứa trẻ cầu bơ cầu bất. Anh bảo Cam là em con ông cậu ở quê mới được gửi vào, anh nuôi cho ăn học, biết đọc biết viết rồi sẽ vào trường tư. Tiền cơm trả trước một tháng.
Cuộc đổi đời diễn ra quá gấp rút. Cam không kịp nghĩ, không kịp mừng hay lo, chỉ cung cúc chạy theo anh Năm như sợ tụt lại sau và lạc mất ông anh kỳ quái từ trên trời rớt xuống. Qua lời thím Lụng, nó mới biết anh Năm cũng là cai, mề-rô (4) của anh là con số rất dài được gọi tắt là Cát-vanh-tuýt, nghĩa là 88. Thím Lụng ít được ưa bởi hay ăn lãi và nói năng ngoa ngoắt, bù lại nhà cửa cơm nước của thím bao giờ cũng sạch sẽ tinh tươm, bầy con thím khá ngoan. Cam mới đến ở mấy hôm đã được thím khen: nó dậy sớm quét từ nhà đến ngõ, gần tới bữa thì tự ý xuống bếp giúp nấu cơm, bày mâm. Tính nết nó cũng hợp với thím, thím ưa nói nhiều hơn nghe, nó thích nghe nhiều hơn nói.
Chỉ một lần Cam bị hớ nặng. Thím bán xong gánh cá, vừa bước vào nhà đã hỏi ngay:
- Cai Chò tới đây chưa, Cam?
- Dạ, cai Chò là ông nào?
- Ủa, không biết tên anh Năm mày à? Có phải anh em thiệt không, hay là mèo mả gặp gà đồng?
Cam cứng họng, lặng đi một lúc mới nghĩ ra câu trả lời lúng búng:
- Dạ, hồi ở nhà ảnh tên khác...
- Tên gì?
- Dạ, là... là... là Chó ạ.
Cam buột miệng nói ngay cái tên móc nôi của chính nó, đến bảy tám tuổi gì đó mới đổi tên chữ. Và nó vớt luôn:
- Thím đừng kêu tên đó, ảnh giận con chết.
Thím Lụng cười the thé, để rơi cả điếu thuốc Cẩm Lệ quấn sâu kèn dính trên lưỡi:
- Có họa tao điên. Ai khui tên cúng cơm ông Năm Chó nhà mày ra, ổng dám đốt nhà lắm!
Đi học đêm, Cam lách qua những ao vũng của xóm Bàu, những vạt xương rồng và ngũ sắc mọc vạ vật, ra đường Ô-lăng-đan để tránh phải qua xóm chợ, nơi nó đã ăn xin và chịu đói. Nó sợ gặp lại lũ trẻ lang thang đã từng gọi nó là thằng Câm, thằng khùng, bắt nạt nộ khá lâu trước khi anh Năm ra tay che chở. Tới nay, nếu vắng đi cái dáng vóc gấu đen và những con dao bay dễ sợ, chưa chắc mấy đứa kia chịu để cho nó yên thân. Bởi thế nó cố ý đi đường vắng lúc sẩm tối, còn úp cái mũ cối màu cháo lòng xuống che mặt. Qua chỗ nào nghe vẳng cái giọng nhừa nhựa kéo dài mệt mỏi “lạy ông đi qua lạy bà đi lại”, nó vội bước như chạy. Thoát xa rồi, nó mới dừng để thở và rùng mình.
Những lúc ấy, nếu anh Năm hiện ra trước mặt nó, nó sẽ choàng hai tay ôm ghì anh, khóc thật to thật nhiều cho vợi bớt cơn lũ thương yêu và biết ơn.
Chú thích: 1- Tiếng Pháp chuyên dùng; Visiteur: thợ khám xe. Rapport: cáo báo. Dépôt: nhà chứa xe.
2- Tiếng Pháp: Réparateur: thợ sửa chửa
3 -Tiếng Pháp. Coliège: trường trung học
4 - Tiếng Pháp. Numéro: số (quân dịch).