- 26 -
Dưới trận mưa pháo thường lệ lúc sáu giờ sáng, đại đội Ba Dĩnh ăn xong nửa vắt cơm sáng, đang đun nước nhân lúc sương mù chưa tan hết, trút đầy các ống tre và bi-đông. Đột ngột có tiếng hú lạ tai dội to giữa những loạt ình oàng, biến thành tiếng rống, tiếng rắc rắc như cây to trốc gốc, đấm mạnh xuống đất nghe bịch như chày nện. Vài giây sau nền đất dưới hầm thốc ngược lên, hất người đang ngồi nhào nghiêng ngửa.
Cậu trinh sát đứng gác ngoài chiến hào chạy xổ vào hầm:
- Nó bắn thứ đạn gì to quá chừng, anh Dĩnh!
Dĩnh chạy ra hào, vừa kịp trông thấy quả đạn khổng lồ khác bay tới trong tiếng xé vải y hệt bom rơi xuống đầu. Nó đâm chúi vào đất, khoan xoáy soàn soạt rất sâu dưới ngực những người nằm sấp sát đáy hào, nổ thành tiếng ục xa lắc. Nó gây động đất. Hai bờ hào rùng rùng lở xuống. Những thân phi lao xếp làm trần hầm nẩy bật lên, hất văng lớp đất phủ. Nền hầm nẻ toác như ruộng mùa đại hạn.
Ba Dĩnh thét vào tai Chanh nằm bên:
- Thiết giáp hạm bắn đó. Đại bác cỡ bốn trăm ly nổ chậm.
Sáng hôm sau anh Hồng Long đến kiểm tra, sau khi chiếc tàu khổng lồ kèm hai chiếc nhỏ hơn kéo tới ngoài khơi Nha Trang, xoay những nòng pháo lớn vào phía bờ. Lũ tàu lâu nay bắn phá ta chỉ còn là lũ còng gió chạy quanh ba con cua biển. Anh cho biết chiếc lớn nhất là thiết giáp hạm Ri-li-ơ, hai chiếc nhỏ hơn là tuần dương hạm, chúng đến Nha Trang giúp sức phá vây, đại bác cỡ to nhất có thể đến bốn trăm ly đường kính, quả đạn to như trái bom. Chắc chắn địch sắp đổ bộ phía bắc Nha Trang.
- Các cậu đánh tiêu hao được bao nhiêu hay bấy nhiêu, nhưng không được thí mạng. Đừng đưa khẩu hiệu quyết tử. Bị chọc thủng phòng tuyến chỗ nào thì ném trung đội dự bị ra lấp lỗ hổng. Lấp không được thì cho cả đại đội lui về phòng tuyến hai. Phải cố giữ lực lượng, cấm nóng mũi đánh ẩu, nhớ chưa, cấm liều mạng!
Dĩnh ngập ngừng:
- Xin anh cho lệnh viết...
- Đúng. Mình viết sẵn đây. Không cự nổi thì cho phép lùi.
Bây giờ, các cỡ pháo biển to nhất, dội đạn ào ào xuống các hầm hào từ Cù Lao tới Đồng Đế. Những cột đất và khói phụt lên như bộ râu lộn ngược, mảnh đạn rít réo kín trời và chạm nhau chan chát.
Rầm rầm rầm. Ùng. Víu. Rẹẹẹt, ục. Vùùù. Oàng....
Không còn nhận ra tiếng gì nữa. Hào lở. Hầm sụp. Người bị chôn vừa bới đất ngoi đầu, chợt bị thúc dưới bụng văng lên nằm ngửa trên miệng hố, lại bị hất lộn mấy vòng, chỉ còn ôm đầu bịt tai thoi thóp. Máy bay chúi ném bon cũng không dữ dội như trận pháo này.
Dĩnh và Chanh luồn theo con hào đã bị khoét và lấp nhiều đoạn, chạy ra ụ súng đại liên Hốt-kít trên mỏm cao nhìn xuống sóng biển. Hầm không trúng đạn lớn, còn nguyên, cây đại liên phủ chăn sẵn sàng bắn, hai súng phóng lựu V.B. đều sạch sẽ.
Bốn chiếc tàu đổ bộ từ ngoài khơi đang chầm chậm tiến vào dưới làn pháo của tàu mẹ, mỗi chiếc kéo theo một đuôi bọt trắng ngắn ngủn và rộng bản. Trọng liên 12 ly 7 trên cầu cao quét vào bờ từng loạt ngắn thăm dò. Đầu đạn chạm nổ choang choác, lóe những chuỗi chấm lửa đỏ trên các ghềnh đá. Dĩnh nói to vào tai cậu tiểu đội trưởng:
- Nó khích cho mình bắn trả, lộ hỏa điểm, pháo lớn nó hủy diệt đó. Đợi tàu nó hạ cầu, lính đổ xuống bãi hãy bắn... Ủa, đứa nào chơi cái trò này? Đứa nào, nói!
Bên cạnh chỗ ghế ngồi lắp trên chân sau của khẩu Hốt-kít có một sợi xích và một vòng khóa giữ chân người bắn, đã tháo bỏ từ lâu, nay bỗng thấy lắp lại y như hồi mới tước súng của Bảo an binh. Bị Dĩnh quát và nhìn xói vào mắt, tám người trong hầm quay mặt đi. Tiểu đội trưởng hất cằm về phía cậu bắn đại liên đang rướn cổ nhìn qua lỗ châu mai, tảng lờ không nghe. Thì ra cậu ta định tự xích chân vào súng khi lâm trận.
- Tháo ra lập tức! Bộ đội cách mạng chớ không phải lính phát-xít, lính đánh thuê lê dương! Mày sợ quá bỏ chạy đã có đứa khác bắn thay... Đồ.... đồ ngu!
Rất nhanh, tiểu đội trưởng dùng tuốc-nơ-vít tháo sợi xích ra. Dĩnh túm lấy, bước ra cửa hầm, vung tay ném mạnh cả xích lẫn vòng xuống phía biển. Nó nẩy trên tảng đá lớn, rơi tiếp xuống đống đá chồng chất, từ từ tụt xuống một kẽ ghềnh sát mé nước. Dĩnh vẫn đứng quay lưng vào hầm, nói ngắt quãng:
- Rán mà giết giặc... được bao nhiêu tốt bấy nhiêu... hễ nó tràn lên đông quá thì đại liên rút trước.... lựu đạn cản hậu... tao dặn tới rát cổ rồi đó...
Anh bỏ đi, nhấc chân nặng nề như lội ruộng lầy, đến chỗ khuất mới co cánh tay áo rách lên lau nước mắt.
Tiếng súng nhỏ bỗng rộ lên như chà ốc trong rổ. Dĩnh đứng sững, dỏng tai. Không phải bọn dưới biển bắn lên, các tàu đổ bộ đang còn chờu vờn ngoài xa. Súng nổ túi bụi trong xóm Cù Lao như ai vừa châm ngòi hàng chục tràng pháo lắp chen nhiều pháo tống. Nghe kỹ có thể nhận ra tiếng đại liên, tiểu liêu, lựu đạn. Cũng không phải chi đội Quảng Ngãi đánh chặn địch tràn qua sông Cái, thường nghe dội xa và nhỏ hơn.
Dĩnh trợn mắt, thét:
- Nó chiếm khu nhà dòng rồi! Đúng chỗ dó! Mẹ cố tổ... Sanh đâu? Cho trung Ba đánh vô khu nhà dòng, mau!
Từ trong các căn hầm bị đào bới, trung đội dự bị tuôn ra, khắp thân lấm lem. Sanh quệt máu mũi chảy trào xuống miệng, hô lanh lảnh:
- Chạy dưới hào, tất cả chạy dưới hào... tiếp viện trung Một., theo tôôôi...
Pháo biển vẫn bắn dữ nhưng chuyển làn xa hơn, đạn nổ dọc quốc lộ. Một quãng hào bị sạt hoàn toàn, bộ đội ùn trước đống đất và cây lởm chởm. Hai đội viên ở mé sau vọt lên mặt đất, chạy qua bãi đất trống. Nhiều người nữa nhấp nhổm vọt theo. Cậu chạy trước nhảy được xuống khúc hào còn lành. Cậu chạy thứ hai vác một thùng nặng, chậm chân hơn, lảo đảo thả rơi cái thùng sắt trên vai, quỵ xuống lăn ngửa ra đất, máu loang nhanh trên ngực và bụng. Luồng đạn đại liên từ chỗ cao bắn xuống vẫn xói đất tông tốc chung quanh cái xác mấy giây nữa trước khi đổi hướng. Ngót tám chục cặp mắt đều thấy họng súng phụt khói qua cửa sổ cao nhất của ngôi nhà dòng đồ sộ nhô vượt trên các ngọn phi lao. Cả một dãy cửa sổ cùng xối đạn các cỡ xuốug chiến hào của ta.
Trung đội Một đóng gần khu nhà dòng hoàn toàn không trúng pháo biển, nhưng lại đột ngột bị bắn lướt sườn và chọc lưng. Anh em nép vào các thành hào khuất, kê nòng súng chếch lên, bắn trả từng phát chật vật vào những bóng lấp ló sau các cửa sổ, áo lính ka-ki chen lẫn áo chùng đen tu sĩ.
Dĩnh vừa tới, hét, như sấm:
- Sanh, Sanh, cứ bắn tỉa, cho lắp lê đợi lệnh xung phong. Moóc-chê với phóng lựu theo tao, tới đây mau!
Chanh vành tay lên miệng hét lại lệnh của Dĩnh, rồi chạy lom khom đến chỗ khẩu đội cối 60 đang loay hoay đặt súng. Đó là con hào giao thông đào khuất trong rừng phi lao thấp theo hướng đông-tây, cấp dưỡng thường theo nó gánh cơm nấu trong xóm xuống cho bộ đội rải ven biển. Anh em trong khẩu đội hối hả cuốc sẵn một khúc bờ hào, trong khi đạn súng máy bay qua đầu chiu chiu rắc rắc, lựu đạn tay trong nhà ném ra nổ tung khói và đất cách họ khá xa.
Thấy Chanh đến bên, Dĩnh nói hổn hển:
- Anh thấy hết rồi đó, làm chứng giùm nghen. Mai sau tôi có bị kiện là bắn vô chỗ thờ cúng, phá đạo...
- Tào lao. Tụi đó là quỷ sứ chớ tu hành gì!
Dĩnh lật mũ sắt, kéo vạt áo sơ-mi lau cái đầu trọc bóng đầy mồ hôi trộn đất bột, đội mũ. Khẩu đội trưởng chỉnh súng xong, hai cậu cầm đạn đang dạng chân sẵn hai bên.
- Báo cáo anh cho bắn?
- Phóng lựu cũng thổi luôn nghen. Bắn thong thả, coi kỹ, có lệnh mới được bắn dồn dập... Phụt đi!
Pách! Bục bục bục!
Bốn phóng lựu V.B. cùng bắn theo súng cối, chỉ phát ba tiếng nghẹt thở. Ba quả lựu đạn phóng bay ra, thấy rõ chúng xoay lộn ngay trước mắt. Một rơi giữa đường, một đập vào tường rớt như đất cục, một chạm ra mái rơi xuống và nổ ngay trước một cửa sổ có nòng đại liên đang xịt khói trắng, quả này ăn tiền nhất. Trái đạn cối 60 vọt lên cao tít, đánh xuống chậm hơn, làm vỡ toác một mảng mái ngói ngả nâu.
- Sửa tầm mau, bắn tiếp!
Loạt đạn cầu vồng thứ hai trúng đích hơn. Bộ đội reo hò râm ran trong đường hào. Các mũi lê cọ cát sáng loáng nhô tua tủa trên bờ đất, chờ xung phong.
- Bắn dồn dập! Sanh, Sanh, đứng yên đó, đợi hiệu tu huýt của tao!
Bốn pháo thủ nối tiếp nhau thả đạn vào nòng súng cối, né đầu đúng động tác thành một điệu múa nhấp nhô nghiêng đầu nhún gối. Đạn 60 ly từng cặp đánh tung mái ngói, phá tầng trên cùng đặt đầy súng của ngôi nhà tu. Một tên mặc áo chùng đen bị hất văng qua cửa sổ, cây tiểu liên rơi trước thân người vung vẩy tay chân. Những luồng khói trắng phun chếch xuống đất tắt dần.
Chanh chợt thấy trên tháp chuông thò ra hai cây cờ ba sắc xanh trắng đỏ của Pháp. Một cờ phất ba lần, rồi hai cờ phất ba lần, cứ thế nối tiếp mãi. Anh đập vào vai Dĩnh:
- Coi chỗ lầu chuông, Dĩnh! Tụi nó đánh tíu hiệu S.O.S ra tàu biển!
- Là hiệu cờ gì?
- Kêu cấp cứu. Đó, tích tích tích, te te te, tích tích tích. Quân ngoài biển nhào vô bây giờ.
Dĩnh nghiến răng ken két, chạy tới chỗ một cây trung liên Bờ-ren bắc sẵn trên bờ hào nhưng chưa bắn, xô cậu xạ thủ sang bên, ngắm rất kỹ, xổ luôn nửa băng vào tên phất cờ. Bóng đen đang rướn ra ngoài thả rơi hai cây cờ, gục xuống vắt thân trên bậc cửa sổ. Một tên mé sau thụp xuống, lôi cái xác tụt vào trong tháp. Dĩnh buông thả súng, cười gằn:
- Thêm một thằng nữa được phong làm ông thánh tử vì đạo!
Anh đưa cái còi nhôm đúc lên miệng, thổi một hồi dài. Lập tức tiếng tù và của Sanh dội lên rất vang: hút hooo, hút hooo. Nhiều chuỗi bộ đội cùng một lần nhào thông thốc vào các cửa trước và sau, tuôn lên các buồng sát mái. Địch đã chạy hết, bỏ lại rải rác những cái xác mặc áo chùng, áo dài đen xẻ tà, có hai tên mặc đủ bộ tây-di[1] của lính Pháp nhưng không gắn lon.
Chanh lượm một súng trường Mát cắm sẵn lưỡi lê, cùng sục sạo với anh em, bắt được một tên chui dưới gầm giường. Một cố đạo người Âu rậm râu sâu mắt. Bên trong áo chùng và chuỗi hạt đáng giá to tướng hắn mặc bộ ka-ki loang lổ da beo và đi ủng nhà binh. Hắn quỳ gối van xin lia lịa bằng tiếng Pháp, hỏi bằng tiếng Việt hắn lắc đầu không hiểu. Chanh tức điên, lên đạn đánh rắc, chĩa súng vào ngực hắn quát:
- Mày giả bộ nữa, tao bắn chết!
- Lạy ông đừng bắn, con xin nói, con nói...
Giọng hắn rất sõi, lời lẽ đúng và rõ nghĩa. Chanh đoán không sai, têu này đã ở nước ta lâu năm.
- Pháp định cho đổ bộ ở đâu, lúc nào?
- Lạy ông tha cho con, con bị đức cha ép buộc...
Đoàng! Nòng súng phụt lửa bên vai khiến hắn hoảng hồn nhào nghiêng. Chanh lại lên đạn:
- Mày hết đóng kịch chưa?
- Lạy ông, con hết... Đổ bộ lên đây, chiếm đóng các sở xê-mi-ne này, tức là các trường dòng, bọc lên đường lớn. Nhưng mà họ lên chậm quá chúng con khai chiến trước, chúng con dại dột...
- Bao nhiêu quân đổ bộ?
- Dạ, một ba-tay-ông Nhựt Bổn chừng bốn trăm lính, một công-pa-nhi lính Pháp và lính Phi châu chừng một trăm.
- Còn những mũi tấn công nào nữa?
- Con nghe nói còn một mũi qua sông Cái, một mũi đổ bộ ở Hòn Khói, không cho quân Việt Minh... quân Việt Nam ở Ninh Hòa vô cứu vớt.
Trong khi cậu trinh sát trói ké hai tay hắn ra sau lưng, hắn cuống cuồng kêu to:
- Lạy ông, con xin làm tù binh, tù chiến tranh...
- Mày là thầy tu tự ý làm giặc, không phải tù binh!
- Dạ con là ca-pi-ten, tức là quan ba trong quân đội. Họ mới gắn lon tháng trước. Xin ông để con sống... về sau hai bên trao đổi tù quân sự...
Chanh bỏ đi xuống vội, vẫn nghe câu cuối của hắn. Đang lúc hoảng hốt mà hắn còn lý sự được thế, ắt là hắn đang suy ngẫm mọi đàng từ lâu rồi. Chẳng hiểu vì sao anh thấy mặt hắn quen quen.
Một lần nữa, các cỡ súng nhỏ lại rộ lên mé bờ biển, lần này chen thêm tiếng máy tàu thủy xinh xinh và tiếng rè rè của chiếc máy bay hai tầng quần đai dẳng trên trận địa. Pháo biển chỉ còn bắn thưa thớt và chếnh về hướng Bắc.
Trung đội Một đẩy lùi được quân đổ bộ dễ dàng không ngờ.
Bốn chiếc tàu đáy bằng rập rình cách chân sóng chừng nửa cây số, do dự rất lâu, trong khi chiếc chiến hạm cực kỳ lớn nổ máy chạy chầm chậm lên phía Hòn Khói. Từ các tầu bắc ống nhòm nhìn lên, địch thấy rõ quân ta đánh chiếm khu nhà dòng, bẻ được mũi dao chọc ngang sườn. Có thể tiếng súng cối cũng khiến chúng ngần ngại: tàu đổ bộ trống hốc như cái hộp bánh mở nắp rất dễ bị đạn cối phá toác đáy, chìm nghỉm.
Rốt cuộc, hai chiếc tàu cùng tách lên trước, tiến vào bờ. Trọng liên và các trung liên đặt lên cầu cao xổ đạn như vòi rồng vào những nơi có ụ súng. Cối 81 và 60 đặt trong lòng tàu tung dạn túi bụi lên mặt đất, phần lớn bay nổ sau lưng bộ đội.
Khẩu đội đại liên Hốt-kít đặt trong hầm làm hỏng một trận ngon ăn. Thấy địch lố nhố trên cầu tàu trước họng súng mình chừng hơn trăm thước, cậu xạ thủ ngứa tay xiết cò luôn hai loạt dài khi chưa có lệnh bắn. Tổ đại liên trên tầng cao nhà dòng, đã xoay nòng cây đại liên Rây-ben mới thu, tưởng bạn mình được lệnh cũng xối đạn chếch xuống. Súng cối 60 chưa ngắm kỹ cũng thổi luôn ba quả rơi chủm chủm xuống biển. Hai chiếc tàu vội rồ máy chạy ra xa, không hạ tấm bửng cho lính đổ bộ.
Sanh chạy nhào tới hầm đại liên, thấy khẩu đội trương đang túm áo cậu xạ thủ; day day và xô ngã nhào vào góc hầm. Sanh đã giơ tay định tát bồi, cố ghìm lại được, thở phào:
- Tây dại, mình chẳng khôn, thôi thì huề... Tháo súng chuyển qua hầm dự bị, mau, nó dông pháo vô đây tức thì cho coi!
Chiếc máy bay quan sát ngoi lên cao theo đường trôn ốc. Các tàu chiến đậu ngoài khơi bắt đầu rục rịch, những nòng súng to ngọ nguậy. Pháo 105 trong thành phố Nha Trang bắn trước vài quả đạn khói thăm dò.
Trận mưa pháo thứ hai trong ngày không chen những quả đạn hàng tấn của chiếc Ri-sơ-li-ơ, nhưng kéo dài và được máy bay chỉ điểm trúng đích hơn. Tổ đại liên Rây-ben bị một quả pháo thúc vào tầng dưới ngã lăn lộn nhưng không trúng mảnh phải tháo súng vác chạy xuống mặt đất. Trong những chiến hào sạt lở, bộ đội dùng xẻng cuốc và mũ sắt sâu thêm các hố núp, đùn đất lên trên, gợi hình những lỗ còng trên bãi biển.
Trung đội Ba trở về vị trí dự bị, khiêng theo một đồng chí hi sinh và ba bị thương sẽ chuyển về tuyến sau. Dĩnh và Chanh rẽ sang hầm đại bộ đội trong làng Đồng Đế, dắt theo tên quan ba kiêm cố đạo cứ luôn miệng nhắc mình là sĩ quan.
Căn hầm rộng đã được trung đội Hai giúp anh em thư ký, liên lạc, cấp dưỡng sửa dọn lại. Bước qua cửa hầm. Chanh kêu “ồ” một tiếng vui thích.
Hai Khánh và Ta-kê-đa đang ngồi đấy, đứng vọt dậy và cười tươi. Chanh chụp hai vai Khánh, lay mạnh:
- Hoan hô địch vận ra trận. Gớm, chờ mấy cha đỏ con mắt!
Ba Dĩnh đứng nghiêm chào một người khác trong góc hầm, nói to:
- Báo cáo chỉ huy phó, bộ đội đang chống đổ bộ!
Chanh quay lại, trố mắt nhìn đồng chí được gọi là chỉ huy phó, có cái trán gồ cao đặc biệt:
- Chiểu đó hả? Đúng Tư Chiểu “cá gỗ” không?
- Chớ ai nữa! Mày quên tao hả Chanh? Thằng tệ quá!
Đôi bạn tù cũ ôm ghì nhau. Hồi ở ngục Kon Tum, sau một đợt đấu tranh, hai người bị giam chung một xà-lim suốt ba tháng, về sau Tư Chiểu vượt ngục trước Chanh nửa năm, hoạt động ở Quảng Ngãi. Chanh chỉ nghe tin bấy nhiêu.
- Chiểu nè, mày làm chỉ huy phó của đơn vị nào?
- Lát tao nói. Mày xếp việc cho tổ địch vận cái đã. Tù binh ở Hòn Khói khai có quân Pháp với Nhựt tấn công vô đây, tao để cô Bích Thủy với tay gì người Đức ở lại, đưa hai anh này vô giúp mày. Cho mượn cái ô-bạc-lơ, coi như ưu tiên hết cỡ rồi đó!
Ba Dĩnh và Chanh bàn với tổ địch vận đặt máy phóng thanh ở xóm Cù Lao chõ ra biển, kêu gọi quân Nhật phản chiến là chính, gọi lính Âu Phi chống lệnh chỉ huy nữa. Mười phút sau, một trinh sát dẫn Hai Khánh, Ta-kê-đa và đồng chí vệ binh mang máy phóng thanh đi đến chỗ trung đội Một. Tên sĩ quan thầy tu được nhốt trong hầm của trinh sát chờ lấy cung thêm.
Nhân lúc đứng với nhau trước cửa hầm, Dĩnh cho Chanh biết Tư Chiểu chính là đồng chí La Giang, một trong hai chỉ huy phó Mặt trận, phụ trách công tác chính trị. Chanh bật cười, lại cau mày băn khoăn khi Dĩnh nhắc rằng chính anh La Giang đã ký lệnh gọi Năm Chò về Mặt trận bộ tức khắc, một việc mà tất cả đại đội đều thấy là oan ức.
Khi trong hầm đại đội chỉ còn lại ba người, Tư Chiểu mới thấp giọng:
- Chanh nè, tao nghe tay Khánh nói có anh Phan Chanh tới, mừng ghê lắm, té ra mừng hụt. Trung ương thúc miết phải thành lập các Đảng bộ trong quân đội, phải kết nạp đảng viên mới, tiến tới đặt chế độ chánh trị viên từ đại đội trở lên, công việc to bằng núi mà đảng viên mới có một nhúm. Mày bỏ ngành xe lửa, chuyển qua quân đội được không Chanh?
- Khó lắm. Tao làm quân giới vài tháng rồi cũng bị đưa qua hỏa xa, không trốn được.
- Đó mày coi, Đại đội Ba Dĩnh được bốn đảng viên. Đại đội Quảng Nam Hai mày dẫn vô, hơn bốn trăm con người được bảy đảng viên. Chỉ có cách tập hợp gấp thành chi bộ, lựa anh em tốt kết nạp tại đơn vị, Đảng ủy Mặt trận duyệt luôn. Mày nghe chuyện các sư đoàn Cộng hòa vệ binh ở Nam Bộ chưa? Rồi hả? Đệ nhứt Sư đoàn còn đỡ đỡ. Tụi đệ nhị, đệ tam, đệ tứ sư đoàn thiệt là tai hại, lớp đầu hàng, lớp tan rã, lớp biến thành thổ phỉ, chạy tới đâu bắt ráo cả chủ tịch, dân quân, giết người cướp của quá ta. Té ra mình dại, giao súng cho bọn lưu manh để nó quay lại phá mình!
Chanh nóng nảy hỏi độp luôn:
- Mày lo như vậy mới cách chức thằng Năm Chò ở đại đội này, phải không?
Rất nhiều nếp nhăn hiện rõ trên trán gồ của Tư Chiểu khi anh đáp, giọng Nam pha Hà Tĩnh trầm và buồn:
- Tao biết anh em hiểu lầm chuyện này, Ba Dĩnh đây cũng lạnh mặt với tao... Tao chưa đến nỗi biến thành ông quan cách mạng đâu Chanh à. Tao kêu Năm Chò về để giảng giải cho nó nghe phải quấy, đừng để lính làm bậy. Dè đâu tao bị kéo đi gấp để dàn xếp cho một chi đội đang rối, thằng Năm Chò gặp tham mưu trưởng với tay Lý Đằng tham mưu phó, gây lộn với nhau rầm rầm. Tham mưu trưởng nổi khùng ký quyết định hạ tầng nhứt cấp, trả Năm Chò về hậu phương. Nó biến đâu mất tiêu, tìm không ra...
Ba Dĩnh vuốt cái đầu trọc, ngồi xếp bằng lại nghiêm chỉnh, nói như đọc một tờ giấy căng trước mắt:
- Báo cáo đồng chí chỉ huy phó Mặt trận, toàn thể đại đội chúng tôi đều phản đối thái độ của ông Lý Đằng đối với quyền đại đội trưởng Nguyễn Văn Chò. Chúng tôi đề nghị Ban chỉ huy Mặt trận phục hồi chức vụ cũ cho đồng chí Nguyễn Văn Chò.
- Mày nghe đó Chanh. Bây giờ lập chánh quyền rồi, có quân đội rồi, đám đảng viên cộng sản sống sót với nhau như vậy! Chẳng biết mươi năm nữa tụi mình gặp nhau thì “thưa ngài” hay là “bẩm quan”?
- Báo cáo đồng chí, trong quân đội ta có những người như ông tham mưu phó, xuống vị trí tác chiến vẫn nạt nộ người chào sai động tác. Tôi không muốn bị phạt như Năm Chò.
- Bỏ đi Dĩnh, đừng gây với tao nữa! Anh Hồng Long đồng ý xóa quyết định kỷ luật thằng Năm rồi. Ai biết nó ở đâu thì kêu về giùm, chớ Quảng Nam trả lời không tìm ra nó... Bữa nay mình coi các cha đánh quân đổ bộ, tối nay cánh ta họp số đảng viên thành lập chi bộ luôn đi, được không Dĩnh?
- Báo cáo, được.
Giọng Dĩnh đã bớt lạnh nhưng vẫn chính quy, không bắt bẻ vào đâu được. Kinh nghiệm này do Năm Chò truyền lại.
Chú nhỏ liên lạc đã tiếp thêm hai bi-đông nước chè tươi trong khi họ vặn lý nhau. Cả ba cùng uống vội. Pháo biển chuyển làn, đạn nổ sau làng Đồng Đế. Chiếc máy bay về Nha Trang lấy xăng đã quay trở lại, quần vòng hẹp trên xóm Cù Lao. Tiếng loa phóng thanh chạy pin bắt đầu dội ra khơi, đón đầu lũ tàu đổ bộ lúc này chưa nổ súng. Ba người trong hầm cùng lắng nghe những tràng tiếng Nhật lạ tai, không dấu đanh và gấp như chuỗi bi sắt tuôn đều vào thùng thiếc. Ta-kê-đa nói tiếng Nhật mươi phút, tiếp Hai Khánh nói tiếng Pháp ngắn hơn, rồi loa tắt.
Dĩnh dẫn đầu, đưa cả nhóm theo đường hào sang xóm Cù Lao. Loa địch vận vang lên từng lúc, lại ngừng. Anh em sợ hết pin.
Lần đổ bộ thứ hai cũng mở đầu bằng những vòi rồng đạn nhỏ phun tới lên bờ. Suốt chiều dài non một cây số, đất bị xăm mứt gừng. Mảnh đá vỡ và đạn trượt nẩy bay vù vù như ong vỡ tổ trên đầu. Bộ đội nín lặng trong các hầm, không bắn trả. Lệnh truyền đi rất nghiêm: chỉ được nổ súng sau khi những tốp lính địch đầu tiên đặt chân xuống bãi, mồm tàu đang mở. Lúc ấy bắn xả vào bọn trên tàu là chính, còn số mắc kẹt trên bãi sẽ xung phong diệt sau, cố bắt tù binh và lấy được súng.
Thế nhưng một lần nữa ta lại đánh hụt. Cả bốn chiếc tàu cùng hạ bững, bắc cầu, nhưng quân trên tàu cứ nằm bẹp trên bậc cửa, xổ đạn lên bờ mà không tràn xuống đất. Qua các lỗ châu mai, bộ đội thấy rõ bọn Nhật mặc quân phục màu đất sét vàng sẫm, mũ sắt úp trên những mũ vải ba rèm. Từ dưới thấp bắn chếch lên cao, chúng chẳng gây hại được gì nhưng cứ làm như trút đạn cho nhẹ lưng. Sau mười lăm phút, bốn chiếc tàu lại kéo bững lên kin kít, rồ máy chạy ra khơi.
Không ai hiểu địch giở trò gì. Chúng thăm dò ta, hay là dương đông kích tây để đánh thọc một mũi nào khác?
Trong hầm chỉ huy của trung Một, Ta-kê-đa đang nói và cười ồn ào, mặt đỏ bừng. Khánh dịch cho La Giang nghe:
- Cái này Ta-kê-đa tự ý làm, không bàn trước... Anh ta kêu gọi lính Nhật phản chiến xong rồi, lại nói thêm ở khu vực này có một ren-lai, như ta gọi là chi đội, gồm mấy ngàn quân Nhật tình nguyện theo Việt Minh đánh bọn quỷ da trắng, súng to nhỏ đủ hết. Anh ta còn thêm: đầu hàng quỷ trắng đã là nhục, chịu sự chỉ huy của lũ tàn binh Pháp mới ở nhà tù chui ra là nhục gấp mười, đem thân bách chiến đi làm bia thịt cho chúng nó cướp nước Việt Nam là nhục gấp trăm, người võ sĩ đạo thà mổ bụng tự sát chứ không chịu nhục như thế... Báo cáo anh, nói thế là đúng hay sai?
Chung quanh bật cười. Ta-kê-đa cười to hơn cả, khoan khoái xoa cái cằm đã đâm râu tua tủa như bàn chải răng. La Giang bắt tay anh, nhờ Khánh dịch lời hoan nghênh, chỉ nhắc khéo rằng lần sau đừng đem cái chi đội quân Nhật ra dọa nữa, cứ nói quân đội Việt Nam đánh giỏi và gan góc lắm, người Nhật phải cảm phục, thế là vừa. Còn lối gọi quỷ trắng quỷ đen thì sẽ uốn nắn sau, Khánh biết thế mà chớ nói vội.
Ta-kê-đa xoa cằm gật gù, bảo rằng anh chẳng hiểu gì mấy về xây-ji tức là chính trị, hứa sau này sẽ nhờ cô Bích Thủy giảng thêm cho. Sắp tới, quân Nhật phất cờ trắng chạy sang xin hàng ta chắc sẽ có nhiều, mong rằng các vị quân quan cho lính biết trước để đừng bắn chết họ.
- Nan-tô-mô-na, kô tô mô han-đan nga đê-ki-u-ru!
Về sau, Bích Thủy mới cho biết đó là câu đầu lưỡi của Ta-kê-đa: “Không hề gì, hiểu sao cũng được, cứ làm đã!”
Bốn đảng viên của đại đội Quảng Nam Một họp đại hội chi bộ rất nhanh và bí mật, trong hầm của ban chỉ huy. Anh La Giang thay mặt Đảng ủy Mặt trận Nam Trung Bộ của Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố lý do, sau đó mới treo lá cờ búa liềm nhỏ xíu rút trong túi áo ra, gài lên vách hầm. Đại hội ngồi xếp bằng, co tay phải lên chào cờ. Sau phút mặc niệm, anh lại xếp cờ nhét vào túi, chỉ để lại bức ảnh của Hồ Chủ Tịch cắt trong báo đã dán trên vách từ trước. Đảng đã ra thông cáo tự động giải tán, không nên để người ngoài trông thấy cảnh này.
Hai phút để giới thiệu thành phần đại hội. Cả Chanh được coi là khách đặc biệt. Năm phút để đọc nghị quyết của Đảng ủy Mặt trận cho thành lập chi bộ đại đội. Mười phút để bỏ phiếu kín ban bí thư, Chanh viết hộ cho một đồng chí mù chữ, cậu Sanh mời dự bị cũng rút một tờ và viết bầu cho Dĩnh. Anh La Giang khôn khéo cầm riêng lá phiếu của Sanh và nó là rất coi trọng các ý kiến đề đạt với Đảng ủy. Trong ba phiếu Dĩnh được hai, mảnh giấy viết bút chì nguệch ngoạc của anh ta lại ghi tên cậu Sanh dự bị, không dùng được. La Giang và Chanh kiểm phiếu, trịnh trọng báo tin đồng chí Lê Dĩnh trúng cử bí thư với trăm phần trăm số phiếu hợp lệ. Dĩnh ngớ ra, chỉ gãi tai mà không cãi, thật ra anh chỉ biết rất lơ mơ về điều lệ.
Đến phần phát triển Đảng, mất hơn ba tiếng ròng. Cậu Sanh đề nghị kết nạp tất cả đại đội vào Đảng cùng một lần cho gọn. Cậu lý sự rất hăng:
- Xin thưa thượng cấp, thằng nào mất tinh thần đã rớt dọc đường hết rồi, còn lại anh em đều là hột gạo trên sàng cả. Người này vô Đảng người kia ở ngoài, anh em chẳng vui vẻ gì. Nghe nói bên Nga hễ cầm súng đánh giặc là coi như Hồng quân nhứt loạt, ở đây ta cũng lập đơn vị Hồng quân, đảng viên trăm phần trăm, được quá đi chớ!
Dĩnh dè dặt hơn, chỉ bàn kết nạp một nửa số quân. Đồng chí tiểu đội trưởng nấu ăn, được ghi trong danh sách với các chức vụ quá dài là trưởng ban hỏa đầu quân kiêm vận chuyển quân lương của đại đội, đi lạc đề và phàn nàn rất lâu về đám lính trẻ nhất hay xuống lục lọi nhà bếp, cạy cháy ăn, báo sai quân số để lĩnh tăng phần cơm, chén vèo các túi gạo rang làm lương khô chiến đấu. Đồng chí thử tự thú thật là chỉ biết giết giặc cứu nước, chẳng hiểu Đảng, Việt Minh và Chính phủ khác nhau chỗ nào, sao không nhập chung lại cho gọn.
Sau năm sáu lần giảng giải, La Giang mới lọc được một danh sách mười hai người xứng đáng nhất, bốn chục người hạng nhì. Chi bộ cũng biểu quyết phải tăng cường huấn luyện chính trị cho bộ đội, số đảng viên gương mẫu học trước. Buông tay xuống, bốn đồng chí lại ngẩn ra nhìn nhau: cùng dốt cả, lấy ai huấn luyện cho ai? La Giang tránh không nhìn Chanh, ngỏ lời chúc mừng chi bộ và đại đội gặp may mắn hiếm có là được đồng chí Thanh Trà tới viếng thăm, chắc hẳn đồng chí sẽ bớt chút thì giờ quý báu để giảng chính trị cho đảng viên và bộ đội, đề nghị hoan hô. Anh em vỗ tay khe khẽ trong khi Chanh nín lặng.
Tan họp, đôi bạn tù cũ ra cửa hầm hít thở một lúc. La Giang ngập ngừng:
- Thế kẹt quá tao phải níu lưng mày, đừng giận nghe Chanh.
- Đành vậy, tao cũng thương anh em lắm. Ở lại vài ngày, khi xáp mặt ông Quý xứ ủy phải giơ mặt chịu chưởi. Mày biết tánh ổng rồi đó.
- Sớm mai tao về mặt trận bộ, điện luôn cho ổng là mày vô đây bị mắc kẹt chiến sự...
- Chết, đừng nghen Tư, ổng cấm tao tới gần chỗ đánh giặc. Mày báo tin tao ở Mặt trận bộ, lên cơn đau dạ dày, vài ba ngày nữa mới ra được… Lớp đào tạo chính trị viên của mày tới đâu rồi?
- Hai tháng nữa xong. Hơn một nửa mới biết đánh vần, học khó ghê gớm. Nhiều anh em còn nghĩ cứ đánh giỏi, gan góc thì nói gì bộ đội cũng nghe, chẳng cần chữ nghĩa. Tao đưa mày ra làm gương, nằm xà-lim mà tự học không phí một phút, thợ xe lửa mà cầm tờ báo tiếng Tây dịch cho anh em nghe rong róc, thay mặt tù cãi lý với giám binh, quản ngục. Mấy cha le lưỡi hết!
Chanh đấm bạn một quả khá đau:
- Để dành hơi dỗ dành người khác, đừng cho tao đi tàu bay giấy!... Quên chưa hỏi, thằng cha Lý Đằng tài ba cỡ nào mà Mặt trân coi bộ o bế nó quá vậy?
- Nó lạ lắm mày ơi. Tao hỏi tại sao nó hay đánh chưởi bộ đội, nó xổ mấy dây tiếng ta lộn với tiếng tàu. Nào là muốn thắng đế quốc thì kỷ luật sắt phải dữ hơn đế quốc. Nào là quan không hắc thì lính không sợ, lính không sợ thì lệnh không nghiêm, làm sao bắt lính phải phó thang đạo hỏa[2] được. Nào là quân nhân thường thái tam phẫn nộ[3], các anh xuề xòa làm hư lính... Anh Hồng Long cũng phải lắc đầu, nói nó làm chỉ huy Quốc dân đảng lâu quá rồi, khó sửa lắm. Bây giờ ảnh xếp cho nó mở lớp huấn luyện cán bộ tham mưu. Nó soạn bài tới khuya, giảng kỹ lắm mày à, tao tới nghe vài buổi thấy nó thiệt là trình độ cứng, anh em hỏi nhiều câu khó đắng nó cũng trả lời xuôi ro. Tụi tao nhất trí đừng để nó xuống đơn vị nữa, cho làm huấn luyện thôi..
- Nó cho phép tao thăm bộ đội hăm bốn tiếng, cấm gặp đơn vị khác...
- Tao hỏi rồi. Nó nói không nên để các quan chức dân sự đem chánh trị vô tuyên truyền trong quân đội!
Cả hai cùng bật cười.
Vừa dạo dưới chiến hào vừa nói chuyện rì rầm họ đến cửa hầm đội trinh sát. Bên trong, đồng chí cán bộ quân báo từ mặt trận Ban Mê Thuật mới về, mặt vàng như nghệ vì sốt rét và ki-na-rin, đang kết thúc cuộc lấy cung tên quan ba cố đạo bằng tiếng Pháp kéo dài bốn tiếng. La Giang sẽ đưa hắn đi ngay trong đêm nay.
Nhìn bộ râu rậm rì điểm bạc của tên tù, Chanh đưa tay lên bóp trán. Anh nhớ lại một khuôn mặt rất quen đã trông thấy hồi nhỏ ở làng quê Linh Lâm. Tên chủ đồn điền la-phác-sơ cao kều đeo súng săn ngồi trên ngựa, thằng con trai tên Pi-e đặt ngang cây trường Đức trên hai đùi, lão Huần quản lý lóc cóc thúc ngựa theo sau... Lột cái áo chùng đen ra, trông hắn khác hắn lúc bị bắt trong nhà dòng. Bộ mặt trừng trợn năm xưa cũng khác nhiều so với những nét khúm núm kinh hoàng trước mắt anh, nhưng không sao lầm được.
Chanh đánh luôn một đòn chặn họng:
- Chào ông Lê-ông La-phác-sơ! Ông vẫn chưa nhận ra người phu đồn điền ở Linh Lâm hay sao?
Tên quan ba bật run. Ngọn đèn dầu dừa lù mù vẫn đủ cho thấy mặt hắn nhợt đi. Miệng hắn há nhưng không thốt ra tiếng.
- Cậu Pi-e con ông đóng lon quan mấy rồi? Cô Gia-nét lấy chồng chưa? Ông còn hút thuốc phiện nữa không?
- …
- Tôi biết tiếng Pháp, nhưng khi ở Linh Lâm nghe ông nói tiếng Việt Nam rành rọt lắm, tôi dùng tiếng mẹ đẻ cho tiện. Cha tôi là ông thợ rèn Tư Chua đã bán cho ông rất nhiều đồ sắt, ông nhớ không? Tôi được tin ba cha con ông bị quân Nhựt bắt dồn vô Nha Trang, tưởng ông thu xếp về Pháp rồi chớ. Ông còn nhảy vô cuộc chiến tranh này làm gì, ông La-phác-sơ?
Tên chủ đồn điền úp mặt xuống hai bàn tay đặt ngửa trên gối, rít lên:
- Thưa ông, tôi chỉ khai không đúng cái tên họ tôi, những sự khác tôi khai đúng hết cả, xin các ông lượng thứ cho cái lỗi nho nhỏ của tôi. Mon Dieu, mon Dieu, pourquoi cette rencontre, pourquoi?[4]
Chanh hiểu câu nói buột miệng của tên Pháp. Anh nắn cằm, trả lời bằng tiếng Việt rất thong thả:
- Ấy là vì chúng ta đã sống chung trong một làng Việt Nam. Chúng ta là những người cùng làng kia mà!
Quân viễn chinh Pháp ùn ùn kéo sang Đông Dương.
Anh và Mỹ trao cho Pháp ngày càng nhiều tàu chiến, máy bay, xe trận, súng lớn nhỏ, những thứ vô cùng quý báu trong chiến tranh thế giới bỗng chốc trở nên cồng kềnh thừa mứa, còn gộp thêm vào nhiều dãy núi chiến cụ thu được của Đức Ý Nhật đầu hàng. Chỉ còn một chỗ dùng cho những triệu tấn thép và chất nổ ấy: đánh chiếm lại các thuộc địa nổi loạn đòi tách khỏi mẫu quốc, như Việt Nam đang đầu têu.
Ở mặt trận Nam Đông Dương, Pháp sửa gấp các bến cảng sân bay, đồn lính và võ khí đến Nha Trang, Buôn Mê Thuột, Đà Lạt, định hốt gọn đất đai tới Đà Nẵng. Phần phía bắc vĩ tuyến 16 sẽ bàn tính với Tưởng Giới Thạch để thu hồi sau, chỗ ngũ cường với nhau có thể chia môi lợi phải chăng cho lão con trời, cản đường Pháp lúc này chỉ còn những toán dân cày nghe theo ông Hồ Chí Minh nổi dậy với giáo mác nhiều hơn súng, bị đánh rã hàng chục lần vẫn tìm nhau gom nhóm như bèo tan lại hợp, chống cự lì lợm đến mức khó hiểu. Thế nhưng sức người có hạn, tối tân và cuồng tín như quân Đức hay Nhật đều bị đè bẹp, huống chi bọn nhà quê kia mới trườn ra khỏi đế giầy đinh của quan cai trị Pháp Nhật và ngọn roi mây của vua quan bản xứ!
Bộ tư lệnh C.E.F.E.O[5] đã cân nhắc mọi bề như vậy trước khi hạ lệnh tổng tấn công.
Cả Chanh ở lại một tuần với đại đội Quảng Nam Một. Anh mở lớp cho chi bộ, cảm tình Đảng, nói chuyện được mươi cuộc với chiến sĩ. Dưới nhà dòng có tầng hầm xây vòm cuốn rất chắc và rộng, mỗi đêm một trung đội kéo về đấy nghe chính trị và hỏi đáp sôi nổi đến khuya. Khi La Giang quay lại làm lễ kết nạp cho mười hai đảng viên mới thì Chanh đã khản tiếng, hụt hơi.
Đại đội Quảng Nam Hai được giao phòng ngự từ Đồng Đế ra tới Đèo Rọ Tượng, anh em cùng tỉnh được thăm nhau từ bốn giờ chiều trở đi. Luồng tiếp tế rót vào dồn dập cho Nha Trang, cho các đơn vị đang cầm cự từ Nam Nha Trang đến Phan Thiết. Khi đem ra thử, những quả lựu đạn nội hóa nổ được chừng hai phần ba, đạn ĐAM lượm vỏ nhồi lại nổ được ba phần tư. Thế là khá. Anh em du kích Nam Bộ giết giặc bằng gậy tầm vông và mã tấu dao găm thì sao!
Chanh trở về với ngành hỏa xa được mươi hôm thì cuộc hành binh lớn của Pháp mở màn.
Cùng một lần, quân Pháp đổ bộ nhiều nơi phía nam Đèo Cả, từ Ban Mê Thuột xuống Ninh Hòa một cánh lớn, phối hợp thêm những mũi từ Đà Lạt chọc xuống Phan Rang từ Nha Trang tuồn ra theo quốc lộ Một. Lần này địch dùng máy bay và thiết giáp nhiều gấp bội.
Các tuyến quân ta dàn mỏng bị phá thủng liên tiếp. Bộ đội vừa đánh vừa lùi từng bậc thang. Hai đơn vị Quảng Nam quần lộn ẩu với địch suốt ba ngày. Đại đội trưởng Dĩnh nhét trong túi tờ lệnh rút lui viết sẵn nhưng giấu biệt không đưa ra. Đến đêm thứ ba, anh Hồng Long đích thân đến buộc phải rút.
Phòng tuyến mới được lập ở mạn bắc thị trấn Ninh Hòa, bộ đội đào chiến hào dưới pháo tàu biển và bom máy bay nổ ngày đêm không ngớt tiếng. Nhưng địch tràn tới Ninh Hòa cũng đã sứt mẻ rất nhiều, kiệt sức, đành tạm gác phần đánh chiếm từ tỉnh Phú Yên trở ra hối hả xây đồn cố thủ.
Chuyến xe lửa cuối cùng núp trong hầm Ba-bon-nô dài một ngàn hai trăm thước lặng lẽ rời Đèo Cả lúc sẩm tối, không bật đèn huýt còi. Hai đầu máy kéo và đẩy những toa chở đầy nghẹt đồng bào tản cư, người và gánh gồng bám cả hai bên và chất trên nóc. Sau nó vài giờ sẽ tiếp một chiếc cam-nhông-ray chở phân đội công binh, rút tới đâu sẽ nổ mìn phá hầm, cầu, cống tới đó. Dân quân đã nhận lệnh tháo dỡ đường ray và tà-vẹt đem rèn mã tấu hoặc vùi thật xa đường để sau dùng dần. Cả Chanh ngồi bên cửa sổ một toa chở thương binh, vòng tay đỡ đại đội phó Sanh trúng đạn vỡ xương vai, cả hai cùng đau đáu nhìn về phía biển. Chữ ký đầu tiên của Chanh khi quay lại nghề xe lửa, éo le làm sao, là tiếp ký vào mệnh lệnh phá đường sắt của Ban chỉ huy Mặt trận.
Trong toa xe anh em ngồi và nằm chen chúc, bốc mùi nồng của i-ốt, mùi tanh của máu ngấm vải, mùi hôi của áo quần lâu không giặt, nhưng vắng tiếng rên và tiếng gọi y tá. Mọi người cố rướn xem những gì họ đã hiến thân để giữ và phải tạm rời bỏ trong buổi hoàng hôn này.
Chú thích:
[1] Tiếng Pháp. Tenue treillis: chiến phục.
[2] Nhảy vào canh, lẫn vào lửa
[3] Thái độ bình thường của nhà binh, ba phần tư là gắt gỏng.
[4] Tiếng Pháp. Chúa cơi, sao lại có cuộc gặp gỡ này, tại sao?
[5] Tiếng Pháp. Corps Expéditionnatre Francais en Extreme-Oment: đạo quân viễn chinh Pháp ở Viễn Đông.
Hết tập một