← Quay lại trang sách

- 25 -

Thế là xong.

Trong căn hầm của đại đội bộ đội chật ních đến ngạt thở, chỉ còn lại Ba Dĩnh với đồng chí quân nhu. Dĩnh vơ cái áo móc ở vách hầm lau mồ hôi chảy thành dòng trên mặt, ngồi bệt xuống tấm ván thùng vất bên cửa, kêu “ối” và nhỏm dậy ngay khi bị cái đinh xóc chéo vào mông, may mới cào sướt da. Cậu quân nhu bước ra khỏi hầm, đứng trong hào giao thông cầm mũ quạt phành phạch, lại chạy nhào vào khi quả đạn pháo lớn hú dài trên đầu, nổ rung đất mé sau hầm chừng năm chục thước. Tàu biển đã mở đầu đợt pháo chiều khoảng hai ba trăm quả. Đằng nào đại đội cũng đã nhận đủ tất cả số đạn, lựu đạn, áo quần từ hậu phương đưa tới, kèm mỗi người một gói quà tết nhỏ trong có một khăn mặt, một gói kẹo bánh, một bao thuốc hút quấn tay, một lá thư của em học sinh nào đó chia theo may rủi.

Lau xong cái đầu cắt trọc bóng như thầy tu, Dĩnh chợt nhớ, hỏi:

- Cả Chanh đi đâu rồi ta?

- Nằm co con tôm kia chớ đâu!

Dĩnh quay lại, thấy Chanh nằm ngủ trong chỗ hàm ếch khoét lõm vào đáy hầm, chỗ duy nhất không bị dẫm đạp khi anh em chen nhau lĩnh các thứ. Dĩnh chép miệng, ngả tấm ván dựng vào vách xuống đất, trải tấm chiếu rách lên trên, đặt cái túi dết làm gối, lom khom bước tới lay Chanh, hét vào tai anh cho át tiếng đạn pháo mỗi lúc một ầm ỹ trên mặt đất:

- Anh Chanh, ra đây ngủ cho thẳng lưng!

Bị lay gọi, Chanh chỉ nói lúng búng trong miệng như ngậm cháo, lại ngáy tiếp. Dĩnh lắc đầu bảo cậu quân nhu cùng đi với Chanh:

- Thôi mày sẵn giường đó, ngủ đi một lát. Ca-nông bắn kệ cha nó, hầm này chịu nổi.

Anh mặc áo, thắt nịt súng, đội mũ sắt, cúi thấp trong đường hào, đi xem đồ tiếp tế đã đến tay từng chiến sĩ hay chưa.

Đoàn xe lửa Nam tiến phải dừng ở phía Bắc Đèo Cả và trở ra ngay trong đêm. Đại đội Quảng Nam Hai gánh theo các kiện hàng dành cho đại đội Một của Dĩnh, vượt Đèo Cả ban đêm, đi gấp vào mặt trận Nha Trang. Ban ngày họ nhờ dân quân dẫn đi luồn qua các xóm rậm cây, các đồi gò, tránh máy bay địch ném bom và bắn dọc quốc lộ Một. Gần tới Ninh Hòa, họ được một trạm gác chỉ cho vào cụm rừng rậm cách quốc lộ chừng năm cây số, đợi lệnh.

Cả Chanh chìa tờ giấy giới thiệu thứ hai của mình ra, anh xin gặp Ban chỉ huy Mặt trận với danh nghĩa phó chủ tịch Quảng Nam. Sau một buổi chờ đợi, hai cán bộ của Mặt trận đi ngựa đến gặp Chanh.

Một người to béo để râu mép xuống tới khóe miệng, mặc ka ki Ăng lê trơn láng và đeo ống dòm trước ngực, ngồi trên ngựa hất hàm hỏi Chanh bằng cái giọng lơ lớ của Hoa kiều:

- Đồng chí có phải là quân nhân không? Chức vụ gì?

Chanh đoán đồng chí này người Thổ từ Việt Bắc vào. Anh lúng túng đứng nghiêm nhưng không chào quân sự:

- Báo cáo đổng chí, tôi được Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam cử vào thăm bộ đội, đề nghị cho gặp các đồng chí chỉ huy Mặt trận, sau đó xin gặp đại đội Nam tiến của Quảng Nam.

Người kia nhìn Chanh từ đầu đến chân, lại hất hàm:

- Cho xem giấy.

Ông ta đọc chậm chạp như người mới học chữ, trao tờ giấy cho người thứ hai. Anh này đọc lướt nhanh, vội leo xuống ngựa, đến bắt tay Chanh và trả giấy. Ông to béo nói đĩnh đạc:

- Ban chỉ huy đi thị sát tiền duyên cả. Đồng chí đã gặp tôi là Lý Đằng, tham mưu phó Mặt trận, thế là nguyện vọng thứ nhất giải quyết xong. Đồng chí được phép đi thăm đại đội Quảng Nam nhưng không được đến các đơn vị khác, không được ở lại trận địa quá hai mươi bốn giờ. Trước khi đi, đồng chí phổ biến cho đại đội trưởng đại đội Hai đến báo cáo với tôi tình hình đơn vị về mọi phương diện và nhận nhiệm vụ mới. Rõ chưa?

Thấy Chanh đứng tần ngần như sắp kêu nài, ông ta quay ngựa giật cương đi luôn. Người thứ hai chỉ kịp nói vội một câu hẹn gặp lại, giơ tay lên mũ chào Chanh và phóng theo ông Lý Đằng.

Chanh cùng mấy anh em đứng gần đấy không ngạc nhiên mấy trước kiểu đón tiếp lạ lùng này. Họ đã gặp một phân đội trưởng thuộc đại đội Ba Ba Dĩnh, bị thương ở vai phải lui về điều trị mé ngoài. Đèo Cả, đi nhờ xe ngựa của dân, khi đụng đầu đơn vị đồng hương đã đùng đùng quay mặt trận. Cậu vừa đi vừa kể tỉ mỉ cho Chanh và các cán bộ đại đội nghe đủ thứ chuyện, trong đó có vụ va chạm với ông tham mưu phó Lý Đằng nửa ta nửa tàu, nổi tiếng hách dịch và ưa đánh lính. Chanh ngớ ra khi biết đợt tiếp tế thứ nhất cách đây hơn một tháng chỉ đến tay đại đội Ba Dĩnh rất ít: ba người được một bộ áo quần, mỗi người được sáu viên đạn. Tham mưu trưởng Mặt trận bận việc tác chiếc, giao mọi sự cơm áo gạo tiền cho ông Lý Đằng, ông này ra lệnh cho quân nhu Mặt trận thu hết những gì từ hậu phương đưa đến để chia đều. Về lý thì không sai, nhưng trâu chậm uống nước đục là điều khó tránh. Quân nhu hối hả phát nhanh vì lo máy bay đánh cháy kho, lo địch đổ bộ, còn đại đội Ba Dĩnh hồi ấy giữ mặt bắc thị xã Phan Thiết lại quá xa, khi về lãnh tiếp tế thì chẳng còn mấy nỗi.

Chanh cùng anh em quyết định rất nhanh: phải đi đường tắt mới đưa được các thứ đến đại đội Một, lúc này đang đóng ở mạn bắc Nha Trang, từ xóm Cù Lao tới làng Đồng Đế ven biển. Phải bí mật thuê xe ngựa chở hàng đi đêm qua đèo Rọ Tượng và đèo Rù Rì - đang còn nhiều xe ngựa vào gần Nha Trang chở đồng bào tản cư ra đến cầu mối xe lửa bên ngoài Đèo Cả - cho người báo trước để Ba Dĩnh nhận hàng và trả ngay dưới chiến hào, không qua quân nhu Mặt trận.

Sau đêm thứ tư thức trắng, sau khi chính mắt thấy các thùng đạn và kiện quân trang tuôn theo đường hào về tận mỗi tiểu đội, Chanh ngủ lăn ra lúc nào không biết. Pháo tàu biển bắn rung đất, vách hầm trần hầm đã lát ván và phên tre vẫn rưới đất bột lên khắp người, Chanh cứ nằm nghiêng ngáy giòn. Anh em kéo tới thăm đứng khom lưng nhìn Chanh một tí, để lại một lá thư gửi về nhà, lại thì thào rón rén bước ra, nhường chỗ cho người khác chui vào căn hầm.

Trời đã tối hẳn. Pháo biển ngớt bắn, chỉ còn mấy khẩu cối của quân bộ bị vây trong thành phố nhả đạn uỳnh uỳnh ra chung quanh, thỉnh thoảng chen một quả đạn đèn xòe đuốc lắc lư trên nền mây sẫm và thấp. Rất nhiều đốm lửa nhỏ lập lòe trong các chiến hào chạy ngoằn ngoèo ven biển: đại đội Một đang hưởng chất khói từ quê hương gửi vào, với bao đạn đầy bên hông và áo quần mới trên mình, tán chuyện râm ran về những lá thư hậu phương rất chi là tình cảm.

Một cậu đi qua hầm đại đội, thò đầu vào nói oang oang:

- Cứ như ri, đánh Tây mười năm cũng được anh Chanh à!

Chỉ có tiếng ngáy phì phò vọng ra trả lời. Sáng hôm sau, nền mây tãi trắng đục rây xuống những hạt mưa phùn li ti. Ở mặt trận, đó là thời tiết lý tưởng: mưa nhẹ như sương không làm ướt lính mà che mắt được máy bay địch, pháo bắn cũng kém trúng đích.

Đại đội khao Chanh và cậu cùng đi một chầu cháo tôm cua tuyệt ngon, ăn vào đến đâu tỉnh người đến đấy, còn hẹn sẽ mời một chầu sò huyết Thủy Triều, bắt ở cái đầm rộng mé nam Nha Trang. Quyền đại đội phó Sanh là cây văn nghệ, cao hứng rung đùi đọc mấy câu mới thuộc:

Yến sào Hòn Nội,

Vịt lộn Ninh Hòa

Tôm Hùm Bình Ba

Nai khô Diên Khánh

Cá tràu Võ Cạnh

Sò huyết Thủy Triều

Đời anh cay đắng đã nhiều

Từ nay ngọt sớm ngon chiều cùng em

Chung quanh ồn ồn lên:

- Thằng này tính phản phụ nữ Quảng Nam rồi!

- Mới ăn kẹo hút thuốc của nẫu hôm qua đó...

- Ta về ta tắm ao ta thôi!

Sanh về vênh mặt cãi:

- Mấy cha mất chánh trị! Việt Nam là nước thống nhất, sao còn phân biệt Quảng Nam với Khánh Hòa? Huống chi con gái trong này không hút thuốc, hơi thở thơm lừng, hàm răng trắng như ngọc. Tiếng đồn con gái Nha Trang, nụ cười đặt giá ngàn vàng cũng mua!

- Nha Trang bị chiếm, sao mày thấy? Dóc tổ!

- Mày dốt vô vàn. Nên nhớ các cô đẹp nhứt bao giờ cũng lo tản cư trước thiên hạ, chỉ còn bà già trên sáu mươi mới dám ngó mặt tụi lê dương!

Câu nói vui bỗng xóc nhói vào tim tất cả mọi người. Họ cười gượng và lặng im. Họ đã phải chôn quá nhiều xác các cô mơn mởn bị hiếp xong còn bị rạch bụng, xác trẻ em bị lưỡi lê xuyên suốt ngực hay cháy thui rụng hết chân tay chỉ còn lại như củ khoai quá lửa.

Cán bộ đại đội và các trung đội, phân đội phải hết sức vất vả mới giữ được nguyên đơn vị khi rút lui từ Phan Thiết về Nha Trang. Có những tiểu đội họp lại biểu quyết không lùi một bước nào nữa. Một phân đội giơ tay đòi cách chức phân đội trưởng vì tội bỏ đất bỏ dân. Lẻ tẻ có vài ba anh em trao lại cây súng không đạn, xin góp mấy quả lựu đạn, bỏ bộ đội đi theo du kích, dọa nếu bị bắt giữ sẽ nổ lựu đạn tự tử. Một cậu trinh sát mới mười chín tuổi kiếm đâu được quả đầu đạn 105 ly sửa thành mìn, lao vào dưới một chiếc xe thiết giáp, giật ngòi và cùng tan xác với xe địch. Một anh xấp xỉ ba mươi, loại lớn tuổi trong đại đội, ngày thường hiền lành như cục đất, bỗng rình nhảy lên một chiếc xe Gíp đi lẻ, mới chém một tên đã bị bắn chết ngay.

Dĩnh và Sanh chia nhau đến từng tiểu đội, cố xoa dịu những chiến sĩ uất hận đến phát cuồng. Dĩnh phải nhắc hàng trăm lần: bỏ thương binh lại là tội lớn, để giặc lấy mất súng là tội lớn, muốn gì cũng chỉ về Nha Trang mới giải quyết được. Rút cuộc, hai trăm sáu mươi con người còn lại đã khiêng gánh dìu dắt nhau về đến đây, trấn giữ dải bờ biển mé đông-bắc của thành phố, bị pháo biển bắn nhiều nhưng chưa chọi nhau với quân bộ. Những người căm phẫn ồn ào nhất đã dịu bớt, thương binh được chuyển đi hết, súng lớn nhỏ còn nguyên. Với đợt tiếp tế và thư quà hậu phương này nữa, tiếng cười đùa trở lại khắp các hầm hào.

- Báo cáo, có công văn gửi Ban chỉ huy đại đội!

Cậu liên lạc viên của Mặt trận cố đứng thẳng người trong hầm để chào đúng động tác, bị Sanh túm cánh tay kéo ngồi xệp xuống:

- Khỏi đi mày. Về nói ông xếnh xáng đặt ra động tác ngồi chào, cho tụi tao tập trước khi ổng xuống đơn vị.

Ba Dĩnh xé phong bì, rút ra tờ giấy mỏng, kêu:

- Nữa! Giấy tờ không đánh dấu, ba đứa dốt như tao chịu chết. Đọc đi Sanh!

Mặt trận bộ kiếm được hai máy chữ thì một cái không có dấu tiếng Việt, phải vừa đọc vừa đoán, thường dùng để đánh các tài liệu quan trọng. Sanh học tới bằng ri-me[1] hồi còn Tây, là người sẵn chữ nhất trong đại đội, cầm giấy đọc to:

- Thông báo về cuộc đổ bộ của quân địch vào Qui Nhơn...

Mọi người giật mình, nín thở. Sanh đọc ngắc ngứ, từng lúc dừng lại lẩm nhẩm.

- Đại bác hải quân bắn vào Mui Tan và Phường Mại trúng vào khu nhà tranh lá...

Chanh chen vào, giọng rất khản:

- Mũi Tấn và Phương Mai, sát biển đó.

Trầy trật một hồi, rồi anh em thở phào nhẹ nhõm. Các cánh đổ bộ hầu hết bị đánh bật xuống tàu. Riêng một cánh thọc vào thành phố chiếm được nhà ngân hàng đã bị ta vây đánh dữ, dùng đại bác 75 bắn vào, địch chịu đầu hàng. Có lệnh trên cho Qui Nhơn tản cư và phá hoại triệt để, rất gấp.

- Cần nhận rõ rằng những thắng lợi của quân đội ta trên mặt trận Nam Bộ và Nam Trung Bộ, từ Nha Trang trỏ vào, đã góp phần kềm giữ địch quân không cho chúng đổ bộ lên Qui Nhơn, Hội An, Đà Nắng với lực lượng hùng hậu như chúng dự định trước đây. Hỡi tất cả cán bộ và chiến sĩ! Hãy cầm chắc tay súng, phòng ngự vững chắc hơn nữa, tấn công dũng mãnh hơn nữa...

Đợt pháo buổi sáng lúc này đã ngớt hú rít qua đầu. Trong khi Sanh cho liên lạc đi gọi các trung đội đến nghe tin mới, Ba Dĩnh dẫn Chanh đi theo đường hào, thăm từng tiểu đội “cho anh em ngó thấy một chút”.

Chanh cười tươi, bắt tay khắp lượt, lắng tai nghe hàng tá ý kiến của anh em nhắn nhủ về hậu phương, cố xua đi cái ý nghĩ day dứt về Thùy và cả nhà ông Hai Rề dưới trận bom Pháp của cuộc đổ bộ vào Qui Nhơn, nổ ra chỉ một đêm sau khi đoàn tàu của Chanh rời ga Diêu Trì.

- Ối thằng Chanh, mày cũng mò vô đây với tụi tao hả?

- Báo cáo đồng chí phó chủ tịch, trung đội đang sửa công sự.

- Anh Cả nè, tụi em lỡ thề chặt một ngón tay đổi một viên đạn ĐAM, bây giờ anh đem cho mỗi đứa sáu chục viên, chặt cái gì đây cho xứng?

- Chẳng biết ông nào là ông nào, ai đánh giặc giỏi là tôi kinh trượng, ai bỏ dân mà chạy là tôi xin miễn chào.

Người nói cuối cùng là một ông lão râu trắng tóc trắng, gánh rau tới ủng hộ bộ đội. Cấp dưỡng chỉ lo được cho anh em mỗi ngày hai vắt cơm với một miếng thịt heo hay thịt bò kho mặn, vài gánh nước uống, bộ đội tự xoay xở nấu canh hay luộc rau bằng bất cứ thứ lá xanh nào ăn được. Ông cụ quảy đòn gánh với đôi quang chồng làm một, dẫn Chanh và Dĩnh đi qua xóm Cù Lao dưới mưa phùn. Cụ chỉ vào khu nhà đồ sộ trên mỏm đất cao trông ra biển:

- Tôi thờ ông bà, ai muốn thờ Chúa mặc kệ họ. Nhà dòng La Xan, nhà dòng Phan-xi-cô, to tướng đó, cha cố chẳng chịu đi đâu hết...

Cụ liếc nhìn hai anh cán bộ đi sau, đổi đòn gánh sang vai trái, nói lấp lửng:

- Tiếng chuông họ kêu khác thường lắm. Đêm hôm, đèn thắp chớp nháy cách sao thiệt khó hiểu. Thầy dòng cứ chạy rảo khắp làng này xóm kia, nói ông cha Bề trên biểu đi mua đồ ăn, đi làm lễ cho con chiên. Có khi họ vô Nha Trang lo việc đạo rồi lại trở ra ở sát bên hông bộ đội mình. Tôi ở đây trên bốn chục năm rồi, giờ mới thấy họ thờ cúng ráo riết tới vậy...

Chanh và Dĩnh nhìn nhau phân vân. Ông cụ nói rất có lý.

Từ gác chuông và các cửa sổ cao nhất của khu nhà dòng có thể trông thấy hầu hết tuyến phòng ngự của đại đội, nếu dùng ống nhòm có thể đếm tách bạch từng loại súng đặt trong các hầm hào. Chanh đã từng học cách gõ truyền tin bằng mã tự[2] giữa các xà-lim trong nhà lao KonTum. Các ông thầy dòng ở đây chắc không lạ gì với nhũng dấu tích te ấy, có thể báo ra tàu biển ngoài khơi những tin tỉ mỉ nhất về bộ đội ta mà chẳng cần máy vô tuyến điện. Họ không chịu tản cư, đi sục khắp nơi, chạy con thoi giữa vùng ta và thành phố bị sáu tiểu đoàn Pháp Nhật chiếm đóng. Ai hỏi tới thì họ gọi tên Chúa, ngửa lên trời bộ mặt thánh thiện, thề thốt rằng họ chỉ lo cứu rỗi phần hồn chứ không màng tới việc đời. Thế nhưng khi đồng bào Sài Gòn giành chính quyền thì những người đầu tiên bắn vào biển người tuần hành lại là các đấng chăn chiên núp sau cửa sổ của nhà các đức cha, cạnh Nhà thờ lớn trên đại lộ Nô-rô-đôm. Tiếp đó, việc cố đạo dẫn Tây đi càn quét bắn giết đã thành lệ thường ở Nam Bộ, quá thường đến nỗi linh mục nào không đi càn mới có của hiếm như con quạ trắng.

Chanh bấm tay Dĩnh, nói khẽ:

- Phải làm thêm công sự giả, đặt súng giả, cho giấu các ổ hỏa lực thiệt. Không thì...

Anh kín đáo chỉ ngón tay cái ra sau lưng về phía các nhà dòng. Dĩnh giật nhanh, vẻ bồn chồn hiện rõ trên mặt.

Ông cụ dẫn nhóm bộ đội lách sang mé tay phải, băng qua những hàng rào đã trổ sẵn để du kích xuyên ngang xóm. Một tổ du kích gác cạnh đường nhựa nhắc họ lên viếng Tháp Bà theo sườn đồi phía bắc cho khuất, chứ sườn phía nam hay bị cối 81 bắn trúng. Cụ gật đầu, đi chậm lại, giảng cho Chanh biết vì sao trong vô số tháp Chàm rải khắp xứ Trung Bộ, người Kinh chỉ thờ cúng có một khu tháp này thôi. Ấy là vì bà Pô Na-ga ở đây linh thiêng cực kỳ, thường hiển thánh cho người từ xưa tới nay. Khu tháp xây cách đây hơn một ngàn năm mà vẫn đứng vững, hương khói không hề dứt. Người Kinh quen gọi là Bà Chúa Xứ, còn nhà vua thì phong bà làm thượng đẳng thần, danh hiệu là Thiên y A na Thánh mẫu.

Nép vào một góc khuất ở chân tòa tháp nhỏ thờ hai con của bà thánh Chàm, Chanh xem kỹ khu vực cầu xóm Bóng đã giật mìn sập một vày sát bờ bắc, những khu nhà mờ mờ của Nha Trang bên kia sông, trong khi ông cụ cao hứng đọc bài diễn ca rất dài ca tụng công đức của Bà. Anh nghĩ: dù sao nơi này cũng không bị biến thành đài quan sát của bọn gián điệp núp bóng tôn giáo, vậy là may cho cả người lẫn thánh.

Trở xuống đến chân dốc, họ gặp một gia đình tản cư dừng nghỉ bên đường nhựa. Chỉ trong ngày mưa phùn thế này đồng bào mới đi đường lớn mà không ngại máy bay bắn. Chị vợ rút ra bao hương đỏ. Anh chồng moi túi áo tìm bật lửa, đánh rơi xuống đất một sợi dây chuyền có đeo cây thánh giá gắn tượng Chúa chịu nạn. Anh luống cuống nhặt nó bỏ vào túi rất vội, cầm bao hương leo nhanh lên dốc, lách qua cửa hông vào ngôi tháp chính làm cái việc bị sách đạo lên án là “tin vơ thờ quấy”.

Ba Dĩnh khẽ hích vào tay Chanh:

- Thứ chuỗi thánh giá đó, dân ở đây mua nhiều mà giá mắc lắm. Tụi cha cố nói lính Tây nó tin Chúa, gặp người đồng đạo nó không làm hại, bao nhiêu tiền, cũng rán mà sắm, lại còn phải tập kêu Giê-su Mai-ri-a cho quen miệng nữa. Hừ, láo khoét, anh em mình từ Biên Hòa ra đây phải chôn biết bao nhiêu xác đồng bào đeo thập ác trên cổ!

Mặt Chanh chợt bốc nóng, một sợi gân bên thái dương hơi rút đau. Anh nhớ lại những tượng và ảnh Mẹ Ma-ri-a trong căn buồng nhỏ của Thùy. Mấy hôm trước đây, khi liều lĩnh ôm ghì cố gái rất yêu rất nhớ ấy, anh thoáng thấy một sợi dây chuyền mạ kền lấp ló trong cổ áo Thùy.

Dường như dưới những cánh hoa hồng mịn màng thơm ngát đã hiện ra mũi gai đầu tiên.

Chú thích:

[1] Tiếng Pháp. Primaire: bằng tốt nghiệp tiểu học.

[2] Phiên âm tiếng Pháp: tín hiệu morse