← Quay lại trang sách

Chương XX

Sáu Cam cõng ba-lô, chống gậy ngắn bằng trúc già, đi nhúc nhắc trên sân rộng của Trạm thu dung, tay trái co duỗi đều đều theo một góc hẹp. Kể ra tập đi ngoài vườn xoài cổ thụ thì mát đầu êm chân hơn, nhưng Cam cố ý biểu diễn cho các thầy thuốc biết anh đủ sức ra viện.

Trong nhà, các sòng tu-lơ-khơ dàn ra khắp nơi, ồn nhức óc, khiến các tiên ông cờ tướng từng lúc phải gào lên: “Bớt bớt cái loa chớ!”. Bộ đội sau đình chiến đánh tu-lơ-khơ mọi nơi mọi lúc. Dân làng chê thẳng: “Chưa bao giờ thấy quân mình ham đánh bạc tới vậy”. Chê rồi lại xóa lỗi: “Thì cũng để anh em giải trí cho khuây, nằm gác tay nghĩ riết rồi sanh nghĩ bậy”. Về sau “phong trào cơ bích” được uốn nắn lại, giảm dần để nhường thì giờ cho lao động giúp dân và tập văn nghệ. Riêng những nơi đón thương bệnh binh như trạm này thì cho chơi thả cửa, chỉ buộc ngừng vào giờ thể dục trị liệu, nghỉ, ăn, làm thuốc.

Các đơn vị từ những nơi xa xôi hiểm hóc nhất đều chở, khiêng, dìu tất cả thương bệnh binh của mình về, dù đồng bào năn nỉ xin giữ lại nuôi cho lành rồi đi sau. Vài đơn vị xuống tàu đầu tiên thiếu kinh nghiệm, giấu giếm theo thương bệnh binh vì sợ anh em tủi thân, oán trách: “Băng rừng rúc núi về đây còn được, huống chi có tàu đưa xe đón, bước thêm mấy bước tới đất xã hội chủ nghĩa rồi nghĩ sau!”. Chẳng ngờ chặng đường biển trung bình ba mươi sáu tiếng ra Cửa Hội lại cam go đến thế. Thương bệnh binh gặp sóng to gió lớn đã nôn mửa, ngất, vết thương bật máu, bệnh nặng thêm, một người chết trên tàu. Có thể dìu nhau leo cầu thang xếp từ thuyền hay tàu há mõm lên boong tàu lớn, nhưng đôi người đã phải dùng cần cẩu nâng đặt chật vật xuống xà-lan đang chồm chúi giữa sóng Cửa Hội.

Trạm thu dung được đặt gấp rút trong khu vực ba trăm ngày, mé trên cảng Qui Nhơn chừng năm sáu cây, sát bên một làng may mắn không bị Tây đốt trong chiến dịch Át-lăng vì nằm nơi khuất nẻo. Các đơn vị ta xếp hàng tiến từng quãng xuống cảng, dừng đâu giúp dân đó: dựng nhà, làm trường, đắp đường, đào kênh, thi nhau để kỷ niệm lại trước khi tập kết. Đến đây, anh em xúm vào giúp trạm thu dung của quân y liên khu. Cũng chẳng mất đi đâu: cuối ba trăm ngày, mọi thứ của Trạm sẽ được tặng lại dân làng để làm trường học.

Trung đoàn đã xuống tàu cùng đại đoàn mới lập. Ban chỉ huy đến thăm Cam, giao lại cả xấp hồ sơ cá nhân bởi ngại ra Bắc có thể bị điều động lung tung, nhất là cán bộ trung đội trưởng trở lên. Hồ sơ có thêm hai bản sao công văn: đề nghị đề bạt, đề nghị huân chương. “Cậu đỡ rồi, cầm hết cho chắc, nắm đằng chuôi đi. Ra ngoải, rán xin cho được về 108 nghen, hễ gặp trục trặc gì thì biên thơ hay đánh điện, tụi mình sẽ làm công văn kêu đích danh cậu...”

Trung đoàn còn tặng Cam một đồng hồ Ni-klex cũ nhưng còn tốt. Một đồng chí tham mưu cùng đi rỉ tai cho biết nó từ đâu ra. Trong một đợt kiểm tra bất ngờ, anh em tìm thấy trong ba-lô của một đại đội phó hậu cần hơn hai chục đồng hồ, một mớ nhẫn và lập-lắc vàng có khắc tên, chừng mười ngàn đồng Đông Dương. Cậu này nắm bộ phận thu dọn chiến trường trong chiến dịch vừa rồi, về vét chiến lợi phẩm nhét túi trong khi thương binh nằm rên mất máu. Chưa bán vì đem cả đống tín phiếu ra Bắc cũng vô dụng. Nay đang giam đợi giải ra ở tù, lính đòi xử thật nặng làm gương.

Năm Chò đến sau, tươi roi rói, chưa mở miệng đã móc thư ra khoe. Mấy anh ở xưởng Cao Thắng II băng núi mới đến Bình Định. Họ nán lại Linh Lâm chôn kỳ hết số súng hư đạn thối không chở đi được, đã gặp anh Năm ở Gò Găng. Một cái nháy mắt dành cho người tin cậy: “Là đồ hư thối nhưng đã sửa rồi. Tụi nó đang giết dân mình kia... Thiệt thà là cha đứa dại!”. Không ít đơn vị và địa phương đã quá thật thà, nơm nớp sợ “vi phạm” đến từng câu nói!

Họ đưa thư mới nhất của chị Năm Bưởi. Chị báo rằng một trung đội lính Diệm đã lên chợ Huề Bình tuyên truyền vài ngày rồi rút, trong đó thằng Bảy Bòng đeo lon hạ sĩ dẫn đường nhưng chưa chỉ điểm bắt ai. Chị gạch dưới một câu bí hiểm: Báo tin anh mừng là có rồi, em đang rán giữ. Cam quá dốt nên phải hỏi, anh Năm rạng rỡ khoe chị Bưởi đã có thai. Việc gia đình chưa thêm gì mới.

Địch vẫn gờm xứ núi Linh Lâm, chưa dám vào cái ổ “Việt Minh rặt” ấy. E rằng khi dám vào, chúng sẽ phá dữ hơn vùng xuôi.

Tiếng gọi khàn khàn dội tới chỗ Cam:

- Thằng Cam nghỉ đi. Mày làm bung da non lại hành tao thêm cực!

- Cháu đạt một cây số rồi đó bác.

- Cây! Cây xoài hay cây tre? Tao ngó chừng mày miết, mắt kém chớ chưa đui!

Ông quân y trưởng tóc bạc này tên là Cừng, lính lén gọi là Gừng để chê cụ cay nghiệt. Cụ không giận: “Gừng càng già càng cay, càng nên thuốc, kêu vậy cũng hay”. Cụ là y sĩ Đông Dương lớp xưa, có bốn con đi bộ đội, anh trẻ nhất hăm mốt tuổi hi sinh mấy tháng trước đình chiến. Từ đó cụ thấy chiến sĩ trẻ “giống thằng út tao” ngày càng nhiều. Đố ai buộc được cụ kêu anh em bằng đồng chí, hễ không mày tao thì ắt là bác cháu. Cụ thương bộ đội hết lòng, mổ thương binh suốt ngày đêm đến ngã ngất, vừa mở mắt đã hỏi: “Còn sót thằng chó con nào không?”.

Cam vâng lời cụ Gừng, đi vào nơi yên tĩnh là phòng sách báo. Cụ quân y trưởng bước theo, nhấc thử cái ba-lô rỗng, bật “xì” một tiếng:

- Qua mắt ai chớ đừng hòng phỉnh tao, Cam! Chưa đi là chưa đi!

Cụ thích đến đây khi rảnh. Ngồi nhiều ở phòng sách báo thường là cán bộ ba mươi tuổi trở lên, ham đọc và viết thư hơn đánh bài đánh cờ. Cam bị cụ ép làm chủ bút bích báo vì tình cờ cụ moi ra thằng đặc công này đã học chuyên khoa văn học ở miền Bắc. Bù lại những giờ Cam gò lưng tô màu chép bài, cụ cho Cam đi chơi tùy ý, không phải theo qui định nghiêm ngặt là đi đâu phải từng tổ ba người, đề phòng điệp gây sự hay nhớ nhà bất tử.

Trong phòng đang có mươi cán bộ trung, đại đội. Họ ngừng đọc và viết để đợi cụ Gừng kể nỗi lòng sâu kín mà họ đã nghe hàng chục lần.

- Tao ngó thằng Cam mà rầu. Tống cổ tụi bay, tao rảnh nợ chớ được ăn giải ăn giỗ gì. Đi trước đi sau tụi bay cũng tập kết chớ ai dám bỏ lại. Bay coi tao như thằng gác tù, tao ức lắm. Coi đó, dân mình đang thiếu ăn mặc, thuốc men, mà nuôi tụi bay như nuôi gà thiến tế đình. Thứ gì ngon dân đem tới, quà gì quý Cụ Hồ gởi vô theo tàu, trên dồn hết cho tụi bay mau lành mau mập... Ban tập kết tới đây nói đứt lưỡi chuyện sóng gió ngoài biển, thêm chuyện không đủ xe cộ chở tụi hay đi khỏi Cửa Hội, thêm cái lạnh nhức xương ngoài đó... Coi bộ nếm lạnh mới có mình thằng Cam, chớ lũ trẻ khờ câm. Cam, mày nói cái lạnh ngoài đó coi. Phải mặc tới thứ áo bông dày có tay, phủ bụng, đắp mền bông nặng tới năm sáu ký, đầu đội mũ bông bịt tai, chân đi giày có tất, hai tay xỏ vô găng như chực đánh bốc-xơ, tức là quyền Ăng-lê đó. Đêm nằm phải hốt rơm trải cả gang tay dưới lưng không thì run hết đêm. Cứ hỏi thằng Cam với anh em ngoài Bắc vô thử tao bày đặt hay không. Đó là chưa kể khi tụi bay theo đơn vị lên núi cao, xứ Thổ xứ Thái, đất phủ tuyết với nước đóng băng, bay chịu không thấu lăn đùng ra làm tội anh em. Phải biết thương đồng đội với chớ!

Thương binh liếc nhau tủm tỉm. Ngồi quanh cụ Gừng là những cán bộ hàng ngày phải giảng cho chiến sĩ những điều na ná nhu thế, nhưng đến nay lâm sự chính họ đang lo ngay ngáy, lo bị tách khỏi đơn vị cũ. Trong những năm đánh nhau có rất nhiều chế độ chính sách phải tạm gác, tạm hoãn, tạm ghi để đấy, nay đến lúc giải quyết thì họ có thể bị bật đi xa tít tắp, ra khỏi quân đội không chừng...

- Về đơn vị vận tải K.83 hả? Giải thể rồi, mỗi người một nơi, sổ sách nộp liên khu hết. Quân rút, vận cho ai nữa?... về tiểu đoàn độc lập 59? Nhập vô E.803 rồi. Để coi.. 803 đủ cán bộ đại đội, vừa đề bạt vừa bổ sung, không nhận thêm. Chẳng lẽ để đơn vị thiếu chỉ huy, đợi các đồng chí về? Mà ra viện có còn sức nắm đơn vị không hay phải chuyển qua công tác nhẹ, hay phải ra khỏi quân đội? Tiểu đoàn 76 Nam Tây Nguyên? Xuống tàu tháng trước, ra Bắc chưa biết xếp ở đâu, ghép vô sư nào, cứ ra rói hỏi thêm...

Đó mới là một liên khu, và cũng chỉ vài tháng sau lệnh ngừng bắn. Nghe đâu ra Bắc còn xốc xới mạnh hơn nữa, tất nhiên thôi, miền Bắc rộng mênh mông thế, và cán bộ không thể đưa xuống làm đội viên để lắp đâu cũng được. Sáu Cam chỉ có hai việc chưa xét là đề bạt, khen thưởng, chứ lắm đồng chí khác có hàng lô mối dây ràng rịt vào đơn vị cũ: sắp kết nạp Đảng, sửa soạn cưới một cô văn công hay y tá, tiền chưa truy lĩnh, cả đồng hồ và nhẫn đồng đội giữ hộ khi bị thương cũng chưa kịp nhận lại! Rủi ro mà đơn vị đóng sát Thượng Lào, mình bị điều về Quảng Bình thì sầu đời quá, mới qua chiến tranh ác liệt đâu có sẵn tàu xe cho người thân đi tìm nhau ngay!

Chẳng ai đem kể tồng tồng những chuyện ấy với cụ quân y trưởng gần sáu mươi tuổi. Cụ bước xuống Cửa Hội, chỉ cần ới một tiếng qua điện thoại là từ ông tư lệnh liên khu trở xuống, ai ở gần nhất phải vội đánh xe tới rước.

- Mới tháng trước đây thôi, gặp hồi trở lạnh, tao kể cho sắp nhỏ mấy năm tao học trường Thuốc Hà Nội phải khổ vì lạnh ra sao. Mấy thằng vắt mũi chưa sạch, lên lớp cho tao vầy đây: “Bác khác, tụi cháu khác. Bác học làm quan đốc-tờ, bác là học sinh tiểu tư sản, nhà giàu đứt tay ăn mày đổ ruột. Tụi cháu nông dân mặc áo lính, từ nhỏ đã chai sạn rồi, chịu cực dễ hơn bác”. Nghe mà điên đầu! Tao vừa học vừa kèm trẻ kiếm ăn, khi túng quá phải rửa nứa hay đẩy xe bò ngoài bến sông Hồng tới khuya, nó lại nói tao tiểu tư sản sướng quá hư thân!

Một mũi nhọn nào đó chích nhẹ trong ngực Cam. Một kỉ niệm không vui.

Đầu năm nay, trước khi mở chiến dịch Bắc Tây Nguyên. Cam dự một lớp chỉnh huấn ngắn ngày dành cho cán bộ trung đại đội. Cam đưa ra ba thắc mắc:

- Đội phát động giảm tô quy cho cha là cường hào gian ác, xong đi biến, rõ ràng quy sai. Nay Cam phải khai thế nào về thành phần gia đình?

- Các văn kiện đều viết rằng sau ba năm làm nghề khác thì thay đổi thành phần bản thân. Tại sao mãi đến nay anh Năm Chò vẫn phải để trong lý lịch là “binh sĩ đế quốc” mà không đổi ra “quân nhân cách mạng”?

- Tại sao đã là học sinh thì cứ phải thêm “tiểu tư sản” kèm theo?

Lãnh đạo chỉnh huấn là một cán bộ dân chính mới đưa vào quân đội, chuyên mở lớp về phát động nông dân. Anh đến họp tổ và trả lời riêng thắc mắc của Cam vì thấy chưa đáng đưa ra nói trước cả lớp.

Trường hợp Năm Chò sẽ hỏi lại cấp trên. Đội phát động đã quy, dù đồng ý hay không, Cam vẫn phải ghi đúng như thế về thành phần gia đình, nếu cần thì viết ý kiến mình ở phần tự khai trong ruột lý lịch. Tiểu tư sản học sinh là đúng, vì đi học càng lâu thì con người càng quen lối sống tiểu tư sản, nhiễm sâu tư tưởng tình cảm tiểu tư sản qua sách vở, bài giảng...

Cam định ngậm miệng nghe thôi, nhưng cái máu “Quảng Nam hay cãi” hừng hực bốc nhanh:

- Theo ý đồng chí, hễ tôi cứ ở mướn giữ ngựa nhà quan phủ thì là cố nông, về cày ruộng rẽ với cha mẹ thì được xếp bần nông. Bậy cái là tôi được Chánh phủ nuôi cho học hết Trung học bình dân, bộ đội khu Tư cấp sanh hoạt phí cho học tiếp chuyên khoa, vậy là tôi biến thành tiểu tư sản. Từ đó suy ra đi học là sai, là dại, dù tôi học nhà trường kháng chiến, phải chưa? Học càng ít, tinh thần cách mạng càng cao, phải chưa? Trường ta là nơi đào tạo từ công nông ra tiểu tư sản đồng loạt, phải chưa?

Đồng chí kia rõ là chỉ quen nói chứ không quen nghe, đỏ bừng mặt. Anh em đều biết đồng chí mới thoát mù chữ, nhắc nhau ghi thắc mắc nộp lên phải viết chữ to và rõ, càng ngắn càng tốt, và chớ nên cười khi ông ấy viết trên bảng những chữ lạ: tổ quất, dan sơn, dăm tô dăm tứt. Mà ông ấy lại ưa tự tay viết bảng đen “để học viên vừa nghe vừa coi cho nhớ lâu”. Phó chính ủy trung đoàn làm phó cho ông ấy phải bỏ nhỏ với cán bộ của mình: “Dụng nhơn như dụng mộc, trong phát động phải dùng những người như ảnh mới kiên quyết làm tới tới”.

Cam không nghĩ mình sẽ lay chuyển được tảng đá trước mặt, nhưng cũng không chờ đợi cặp mắt trừng trừng với cái giọng trấn áp ấy:

- Đó, chỉ bấy nhiêu câu là đủ thấy đồng chí Cam lộ rõ bản chất tiểu tư sản! Nói vậy còn nhẹ, thiệt ra phải truy kích tới cùng để thấy tư tưởng địa chủ đang phản ứng giai cấp. Cuộc cách mạng ruộng đất long trời lở đất vậy, toàn dân hò reo hưởng ứng, một mình đồng chí lo vạch lá tìm sâu là sao? Ngay trong bộ đội ta, các đồng chí thuộc gia đình địa chủ đều hứa hẹn cắt đứt quan hệ với gia đình, mấy đồng chí hứa hôn với con địa chủ cũng dứt khoát thẳng tay. Đồng chí khoe hồi nhỏ ở mướn, ăn cơm vay cày ruộng rẽ, tôi chưa biết đúng sai. Bây giờ khác rồi. Trong lúc bộ đội đổ máu, nông dân một nắng hai sương làm ra cơm gạo, đồng chí ngồi năm này qua năm khác trên ghế nhà trường lật từng trang sách, vậy có công bằng không? Ăn bám Chánh phủ để đi học miết vậy, không biết xấu hổ à?

- Tôi không việc gì xấu hổ. Tôi đi Nam tiến đánh giặc từ mười ba tuổi, nay đang chỉ huy bộc phá. Đồng chí đã đổ giọt máu nào cho Tổ quốc chưa, hay là chỉ bám chắc hậu phương, đợi cờ đến tay để ngoi lên làm ông lớn? Tôi cũng căm thù địa chủ đến xương tủy, nhưng tôi không chống địa chủ bằng lưỡi mà bằng tính mạng của mình! Hừ, hết bản chất tiểu tư sản tới tư tưởng địa chủ, phản ứng giai cấp, lưỡi không xương...

Cam vừa nói vừa biết mình đang quá lời, nhưng không kìm lại được. Tổ trưởng hối hả cắt, can đôi bên, còn xuýt xoa gỡ tội cho cậu tổ viên trẻ:

- Anh thông cảm cho, tụi tôi lính chiến ăn nói thô kệch...

- Học tới tú tài thì thô kệch cái thớ gì!

Đồng chí lãnh đạo chộp cái làn dẹt bằng cói đan theo kiểu cặp da, nhấc cái nón lá Gò Găng móc trên phên úp lên đầu, vùng vằng ra về. Ông ấy mặc quân phục xi-ta nhưng thích có những thứ của nông dân kèm theo người, tỏ ra mình giữ được gốc gác. Cả tổ cán bộ cùng bàn quanh vụ đấu khẩu, trừ vài người dè dặt còn hầu hết thấy Cam nói đúng. Cam chờ đợi mình bị cảnh cáo về thái độ, hay nhẹ hơn là một chầu mổ xẻ trước cả lớp. Không gì xảy ra. Người tổng kết cuối khóa lại là anh phó chính ủy, ông cán thường tự xưng là “nông dân thuần túy” kia đã đi giảng bài nơi khác. Phó chính ủy chỉ dành vài câu cho một số đồng chí thiếu bình tĩnh trong khi tranh luận, gây ra hiểu lầm đáng tiếc. Ít lâu sau Cam mới được rỉ tai cho biết: ông kia đề nghị đuổi Cam ra khỏi Đảng và cách chức xuống đội viên. Bị trung đoàn ủy chống bằng phiếu kín, ông nổi cáu bỏ đi tuy chưa hết khóa.

Đến đấy Cam thốt giật mình. Một cái gì như phản ứng ngược buộc Cam phải nghĩ: mình từ nông dân mà ra, tại sao bị một ông cán bộ nông dân cho roi vọt nặng tay đến thế? Mình có biến chất, nhiễm sâu tư tưởng tiểu tư sản hay địa chủ như ông ta đập chăng? Hay mình mắc bệnh hoài nghi, cái gì cũng lật xem mặt phải mặt trái, đòi mắt thấy tay sờ mới chịu thừa nhận, khác với đồng chí đồng đội có lòng tin đơn giản hơn? Nói cho cùng, lòng tin đơn giản trong cách mạng là đúng hay sai? Cam chưa tự trả lời được những câu hỏi rối rắm ấy. Gạt bỏ chúng đi cũng chẳng được, chúng cứ luồn lách lúc nhúc như đỉa ruộng tháng Năm. “Chà, lời xưa bảo đa thư thì loạn tâm. Mình học lem nhem, chưa đa thư mà đã đa tư thế này, quả là mua dây buộc mình!”.

... Cụ Gừng gặp lúc rảnh việc, nán lại kể chuyện hơi lâu, kéo từng khói ngắn từ cái ống vố to tướng nhồi thuốc rê. “Cái píp này bằng tuổi thằng Hai tao, thằng tiểu đoàn phó đó”. Anh em ban đầu chỉ nghe vì lễ phép, dần dà bị cuốn theo những kỷ niệm của cụ về đời sống Hà Nội và các thành thị trong những năm hai mươi, ba mươi, với nhiều chuyện lạ hết sức.

Tiếng vó ngựa lọc cọc kèm tiếng cán roi kê vào nan hoa thay chuông nổi to dần. Ít ai để ý. Tiếp phẩm của trạm thường thuê xe ngựa chở gạo củi về, gần đây họ đâm ra ngại gánh. Nhưng lần này thêm tiếng rì rì của ô-tô chạy chậm theo sau, báo rằng thương binh nặng sắp đến. Người trong các nhà đều túa ra sân.

Hai chiếc xe ngựa chở thương binh vừa và nhẹ. Từng người được đỡ xuống, dìu vào chỗ nghỉ. Chiếc xe Uy-Iix của Mỹ cỡ nhỏ, được sửa bên trong để xếp gọn bốn cáng trọng thương, chở ba người nằm in lìm phủ chăn. Một cô y tá nhảy xuống, moi túi dết lấy giấy tờ, được cụ Gừng đứng chìa tay đợi sẵn.

Cô này trông khá lạ mắt. Đầu tóc kẹp không mũ, mặc một bộ quân phục đàn ông còn cứng nước hồ nhưng đã nhàu, quá dài nên phải gấp nhiều nếp ở tay áo ống quần. Chân cô lại đi một đôi giày rừng của quân ngụy, đế cao-su dày nặng in vết răng chó trên đất mềm. Cái túi dết bên sườn, khâu chữ thập đỏ, làm bằng thử vải dày màu chàm dệt rất nhiều sợi chỉ vàng chỉ bạc và chạy nhiều sọc đỏ.

Trong khi y tá khiêng ba cáng thương vào phòng cấp cứu, cô lúng túng hỏi cụ Gừng:

- Dạ thưa bác... cháu xin gặp đồng chí quân y trưởng... cháu tới lần đầu chưa biết...

- Là tao đây, khỏi tìm đâu xa. Ờ mà tao quên bọc cái kính lão theo, mày nói miệng cho mau. Bao nhiêu, phân loại gì, đơn vị?

- Dạ, ba trọng thương, chín trung thương, không có khinh thương. Còn thêm tám trung thương ở sân bay, xe đi đón lượt nữa. Bộ đội tình nguyện Hạ Lào - Đông Bắc Miên.

- Ủa, tụi bay khiêng thương về tới đây?

- Dạ không, số bị nhẹ đi bộ theo đơn vị, số nặng hay trúng chân, khiêng đường trường không nổi, ta phải đấu dữ lắm tụi Pháp mới cho một chuyến khường bin... à, tàu bay... chở anh em từ Pạc-xê về Quy Nhơn. Giằng co miết nó mới chịu nhận số hai chục thương binh với hai y tế, bấy nhiêu thôi.

- Cố tổ thằng Tây! Tao chữa lành tù binh của nó tới số ngàn, mấy kỳ trao trả còn vét đủ thứ xe cộ đưa tới cảng. Đứa nào đứa nấy đỏ au, đứa chưa lành cũng chụp tay tao mà hôn hít, khóc, cảm ơn cứu mạng!

Anh y sĩ trực ra sân, giúi cái kính lão vào tay cụ Gừng, nói gọn:

- Báo cáo, không ai biến chứng. Đang cho hồi sức, một tiếp xê-rom.

Cụ đeo kính, lật nhanh các giấy giới thiệu, bật kêu:

- Mày nói hai chục, ở đâu thêm năm đứa khinh thương nữa: Nhận thêm gián điệp hả? Hay mày để rớt trên tàu bay?

- Hì hì... thưa bác, có tờ giấy dưới cùng... Anh em đó lánh né theo đơn vị, tới đợt kiểm tra chót ở cảng mới lộ, quân y giữ lại bắt đi sau. Cũng là tha-hẳn a-xả xơ-mắc... dạ, là lính Hạ Lào hết thảy, họ ghép vô đoàn cháu về thu dung cho tiện.

Từ nãy Cam đã thấy cô y tá này rất quen và chưa nhớ ra gặp ở đâu. Đứng sau nghe lỏm câu chuyện, Cam thốt lẩm bẩm: “Hoàng Lan, đúng Lan rồi!”. Anh Chanh có kể lướt qua vụ đính hôn của Lan ở Lào, Cam cười dài. Thời buổi này người ta cưới tập thể cả chục đôi một lần, lại đi bày cái trò cũ rích! Đợi cụ Gừng cầm xấp bệnh án đi vào nơi cấp cứu, Cam bước tới:

- Chào Hoàng Lan! Đã quên hẳn chưa?

Lan mở to mắt nhìn anh bộ đội cao chừng thước bảy, râu quai nón bọc nửa mặt, ngập ngừng:

- Đồng chí... dạ, anh là... xin lỗi, tôi chưa kịp nghĩ...

- Lấy chồng nhớ mặt chồng thôi, bạn cũ quên ráo. Tản cư Sông Vệ, hai nhà bị chung một trái bom...

- Ui trời, anh Sáu Cam! Thay đổi dữ ác vậy, hoại, mắt thánh mới nhìn ra!

Cam xốc ba-lô của Lan đưa vào phòng khách, cố giấu bước chân tập tễnh. Lan chạy đi thăm thương binh và bàn giao một lúc lâu, khi quay lại Cam đã kịp bày trên bàn một ấm tích nước chè, hai cái cốc gọt bằng vỏ dừa nâu bóng, một lạng kẹo thèo lèo mua ở căng-tin, loại kẹo tổng hợp bốc mỗi thứ một nhúm.

Cô gái trước mặt Cam càng nhìn thấy hiện thêm những nét hồi nhỏ ở Sông Vệ. Có lẽ vì cô giống bà mẹ chết bom với cặp mắt to và đăm chiêu, với khuôn mặt tròn, má tròn, cằm tròn, miệng cũng tròn, tất cả dường như bị đặt lầm chỗ trên cái cổ ba ngấn và thân hình thon dẻo, cao dong dỏng. Ở rừng núi lâu mà không bị nước da xanh sạm với môi thâm, hẳn y tá biết tự chống sốt rét. Vừa từ Lào vù thẳng về nước, Hoàng Lan còn nói chen tiếng Lào như lính tình nguyện quen nói với nhau.

- Anh Cam sang ghê ta! Mà anh không giống hồi trước chút xíu, giờ như Tây lê-dương ngó lạ hoắc... Hôm đám cưới, Lan tiếc hoài không có anh Cả Chanh thay mặt nhà gái, chỉ có mấy chị em bệnh xá. Anh biết anh Tám Thống không? Hụ chắc bò? Không à? Tại anh Tám đó. Mới nghe ta rục rịch tập kết là ảnh đòi cưới liền tay, một hai phải cưới. Thôi, cho nó xong trớt đi... Thiệt tội nghiệp lính Hạ Lào. I-tôn ại noọng thẹ! Chỉ có số đơn vị ở gần biên giới mình kịp kéo về liên khu Năm thôi, qua thị xã Công-tum, đồn Mang Đen mình diệt, đổ dốc xuống Sơn Hà, tới Quảng Ngãi. Các mặt trận xa rút về không kịp, Pha-lăng chặn hết đường, phải hành quân băng xéo qua Trung Lào ra thẳng Quảng Bình. Anh Cam nghĩ coi, mùa mưa này mà lặn lội rừng núi, sông suối! Nhiều anh sang Lào từ Bốn mươi chín, Năm mươi, nhiều chị Việt kiều ở Thái-lan qua, ở Pạc-xê hay Thà-khẹc, bây giờ phải chịu pây tậu hôm thang phu[1] tận miền Bắc luôn, mất về thăm quê, mất gặp cha mẹ vợ con, lại đi xa gấp đôi, thương lắm anh ơi! Anh Thống lại ở lại tìm mồ mả liệt sĩ, Lan ở lại giúp chữa thương binh cho đủ sức kéo bộ đường trườn, mắc kẹt cả hai. Bây giờ anh Thống theo đơn vị Châm-pa-xắc ra Quảng Bình. Ảnh tự an ủi là ở liên khu chẳng còn ai, nhà ảnh chết ráo y như Lan vậy, còn số họ hàng thì hai năm sau gặp lại cũng được. Lan sửa soạn đi bộ với ảnh, mà trúng dịp chuyển thương mới theo khường bin. Với lại... bí mật, anh Sáu đừng cười nghen.. Lan thấy mình hơi khác khác... phải lo liệu...

- Lan khác lắm chớ! Qua từng ấy năm nhứt định là khác rồi!

- Ông khờ lắm ông tướng ơi! Để sau rồi hiểu... Tức cười, thằng Tây làm Ủy ban liên hợp với ta ở Pạc-xê nói tiếng Việt róc róc mà lại dốt tiếng Lào, nó khoe cha nó mở đồn điền ở Quảng Nam, nó gởi lời hỏi thăm ông Phan Chanh là hàng xóm cũ, ông Năm Chò là người rình giết hụt nó nhiều lần. Tới vụ tàu bay chở thương thì nó lắc đầu miết như người kinh phong: thiếu tàu bay, tàu cũ lắm mà còn bị các ông bắn hư, không an toàn, chở thương lỡ rớt chết chùm thì các ông kiện rùm beng ai chịu nổi, nói nghe tức ói. Anh Thỉnh chính ủy đấu lý suốt không được, phải dọa đóng quân tại chỗ không đi đâu hết, thêm Ủy ban quốc tế khuyên vô, nó mới chịu. Vậy chớ khi lên tàu bay Lan cũng sợ, lỡ bay qua chỗ vắng nó hất anh em mình xuống thì nguy. Anh Thỉnh cười, nói chờ điện của ta từ Quy Nhơn đánh qua ảnh mới nhúc nhích... Trong giấy của y tế Hạ Lào ghi chuyển Lan cho quân y liên khu, xếp ở đây hay cho đi trước tùy lòng.

Cụ Gừng đến mé sau từ nãy, nói ồm ồm:

- Mày mang lính bệnh lính què tới thì mày ở đây lo cho tụi nó, chớ bỏ cho ai? Còn thằng Cam nữa, râu xồm mà dại, nó nói khác khác là nó mang bầu, bấy nhiêu không đoán ra! Tao coi bản sao giấy đi đường của Pháp, thấy ký dưới là thằng thiếu tá Pi-e La-phác-sơ, tao dự trao trả thương binh Pháp ở Quy Nhơn mấy lần, không gặp thằng này. Chắc nó họ hàng gì đó với lão Lê-ông La-phác-sơ, thằng chủ đồn điền bợm ghiền mở đồn điền, vậy nó là con lão Lê-ông đích thị? Lão Lê-ông nói tiếng Việt cũng rành lắm, ăn được cả thịt chó chấm mắm ruốc!

Cam bật cười to:

- Cùng một chuyện mà cháu ba lần bị mắng là ngu, dại, khờ!

- Chuyện gì?

- Chuyện đàn bà chửa! Anh Năm Chò một lần, cô Lan một lần, tới bác là lần thứ ba. Các bà cứ như đố mẹo: có rồi, khác khác...

Lan đỏ mặt, cười rũ. Đợi cụ Gừng đi khỏi, Lan mới thì thào:

- Con gái mới lấy chồng hay giấu chuyện đó, xấu hổ chết. Chẳng hiểu tại sao Lan đem kể thẳng với anh... Chắc tại hồi xưa hai nhà như một, bây giờ thì... thì Lan không còn ai nữa... hết trơn...

Đợt thương binh thứ hai chưa đến. Hoàng Lan lẳng lặng sang phòng hồi sức xem lại ba trọng thương, giữa những cặp mắt tò mò nhìn theo kiểu ăn mặc lạ mắt của cô.

Các sòng tu-lơ-khơ đã vãn nhiều, đỡ ồn. Anh em cũ xúm vào số trung thương và khinh thương mới đến, hỏi đủ chuyện hành quân trên trời dưới đất. Ban đồng ca của trạm bắt đầu ôn hài hát mới cho đêm liên hoan quân dân sắp tới:

... Hai năm nữa con sẽ về

Hai năm nữa con sẽ về

Xóm làng mừng vui đón con, hoa tươi trên đầu súng...

Cam khập khiễng đi vào chỗ góc dành cho nhóm bích báo, soạn các thứ mực xanh, tím, hòa mấy viên ki-na-crin vàng và lấy lọ thuốc đỏ sát trùng ra, vẽ tiếp những hoa bướm với bồ câu hòa bình trên tờ giấy to. Cam mỉm cười tự nhủ: “Hãy bớt nghĩ ngợi bao đồng đi cho dễ sống, Cam ơi!”.

Chọn được một chỗ ngồi sát be tàu, có thể nhìn thấy rõ hướng tây và không vướng ai cả, Cam đặt cái ghế xếp tự làm và ngồi lì đấy đợi giờ kéo neo.

Chiều nay đẹp tuyệt. Vào cuối tháng mười một dương lịch này, vùng nam đèo Hải Vân đã hết mùa mưa lũ nhưng chưa bị nhiều gió bấc, nền trời trong veo dâng rất cao, không khí êm mát rười rượi. Mặt biển chỉ gợn sóng lưỡi búa nhỏ, nghe bảo tàu ra khỏi vịnh mới gặp sóng lừng, say sóng hay không đợi ra khơi mới biết.

Hôm trước, cụ Gừng đã dễ dãi cho chủ bút bích báo theo mình xuống Qui Nhơn để sắm mấy thứ cho câu lạc hộ của Trạm. Ở suốt ba trăm ngày đâu có thể tạm bợ. Nhờ giấy của cụ, Cam được vào vùng cấm sát bến cảng, xem cảnh tàu lớn dùng cần cẩu nhấc những khẩu đại bác chiến lợi phẩm, tiếp đó là mấy con voi vận tải. Một số cán bộ đơn vị tưởng Cam là người của cảng, đứng phân bua rất dài rằng đó là những chàng voi có huân chương, khôn như người và hơn người nữa, biết tụ núp máy bay, tự bỏ lá ngụy trang cho mình, biết cứu hàng trên lưng khi trúng bom đạn, biết góp sức luyện voi non mới vực thành voi thuần. Ngựa hay trâu còn bán được cho dân để thu hồi tín phiếu, giống voi thì bán cho ai? Lùa thả vào núi chúng không chịu đi, mà có đi cũng sẽ bị lính địch lùng hắn chết lấy ngà... Chắc hẳn anh đã cãi nhiều phen nên luôn lý lẽ rất hùng hồn, trôi chảy, trong khi các nài voi và bộ đội choàng lót dưới bụng voi những tấm lưới đan bằng sợi dây dừa to buộc ghe bầu, chằng níu rất chắc. Voi đứng im cho làm, cứ thế bước xuống xà-lan như thú rừng mắc lưới. Cam mượn cái ống dòm, xem cảnh cẩu voi lên tàu: chúng bơi bơi bốn chân, chổng vòi lên, há mồm, chắc là rống khẽ nôn không vọng tới bờ, trong khi quản tượng đứng trên lưng chúng, tay níu thừng, dẫm chân hết lời dỗ dành.

Chiếc tàu Ba-lan Ki-lin-xki sơn màu sữa không vào gần bãi được, phải chuyển tải bằng tàu há mồm của Pháp với xà-lan, thuyền buồm của ta. Mỗi lần cụ Gừng gửi đi “một gói sắp nhỏ”, tức vài chục thương binh ra viện, các thày thuốc lại dặn đứt lưỡi về các qui định xuống tàu lên bến, các hộ lý và đội phụ nữ trong làng đến giúp Trạm lại tíu tít giúp anh em sửa soạn. Ba-lô buộc chắc và trơn tru, không vướng các mấu móc. Thức ăn khô phải đủ cho hai ngày đêm, trên tàu chỉ cấp nước sôi hay nước vô trùng. Tất nhiên thương binh không thể nhai gạo rang như lính chiến, phải có bánh tét, bánh nổ, một chồng bánh tráng gạo để nhúng nước ăn với tôm thịt kho mặn nhồi ống. Mỗi người một thứ vỏ hộp hay túi chịu nước để nôn, ai hay say sóng phải dán cả chồng túi bằng lưỡi rựa nóng rạch trên ni-lông đi mưa. Cả giấy đi ngoài cũng phải chọn thứ giấy dễ rã trong nước, thứ giấy rơm nội mỏng là tốt nhất. Phải tăng liều thuốc phòng sốt rét, ai cũng mang trong máu cả mớ kí sinh trùng đang rình khi mệt trên biển là quật tiếp luôn cho đứ đừ. Cụ Gừng tất tưởi chạy kiểm tra, la rầy, nhắc mỗi ngày chục lần: “Tụi bay ăn chưa no, lo chưa tới...”.

Vẫn chưa hết. Còn qui định không được hoan hô hay tỏ ra vui thích quá đáng khi tàu há mồm của Pháp ghé vào bãi đón quân ta, cần hoan hô vang dội khi vào sát cầu phao và thang xếp của tàu lớn Ba-lan. Nếu trúng chuyến tàu thuê của Na-uy thì cứ lẳng lặng mà lên, họ lạnh như tiền thì ta cứ tỉnh bơ như hành khách mua vé.

Chiếc Ki-lin-xki trông xa tưởng to vừa thôi, khi lên mới thấy là cả một thành phố nổi. Thủy thù dàn trên cầu phao, đỡ từng người mất thăng bằng, dìu người yếu hay cõng nặng lên cầu thang xếp lắc lư. Những đồng chí phe ta, sao mới gặp đã muốn ôm ghì đến thế!

Thương binh được phép lên boong thượng hóng gió, trong khi người khỏe phải xuống thẳng sàn hai, sàn ba, nhận chỗ nằm trên những giường ba bốn tầng chưa hết mùi thơm nồng của gỗ thông mới đóng để biến chiếc tàu chở hàng này thành tàu chở quân. Điện sáng rực, quạt chạy trong khi những ống thông gió hình ống vố chưa lùa không khí xuống vì tàu đứng im. Bộ đội chơi gì thì chơi nhưng chịu khó khom lưng vì giường tầng đóng thấp, và chỉ lên boong thượng vào những giờ cho phép. Cứ thế các chuyến tàu há mồm trút người từng đợt vào bụng tàu lớn chứa mãi không đầy.

Cam ngồi lạng chỗ cũ, nhìn vào đất liền.

Nắng chiều từ phía tây chiếu xuống hiên đã nhồi các màu xanh vào nhau cho ngả dần sang đen. Các lớp phông đang trộn lẫn. Mới ban nãy, Cam còn nhận ra được chân sóng sủi trắng, bãi cát vàng, rặng dừa xanh sẫm, vùng đất bằng hơi nhạt màu hơn, lớp núi gần pha xanh trời, những rặng cao và xa hơn chìm vào nền xanh lơ ở nơi đất trời không còn ranh giới. Cam đã nổ nhiều cân bộc phá và tưới máu ở nơi mịt mù kia, và bây giờ tất cả đang ép sát vào nhau, ghép lại thành bức tường nhà cháy nhô đỉnh long lở và thân phủ muội dày đặc, cả một dãy tường như thế đang đợi bàn tay ta xây lại.

Còi tàu nổi lên ba hồi dài ù ù.. Máy kéo xích neo dưới ghế Cam quay rong róc. Động cơ đã rền dưới sâu từ nãy, giờ bùng to hơn. Con tàu chuyển mình rất êm, chỉ lắc nhẹ, Cam cúi nhìn xuống biển mới thấy mũi tàu bắt đàu rạch sóng cho sủi một dải bọt đang dài thêm dần. Ngửng lên, lại tưởng như tàu đứng im, khẽ đung đưa tại chỗ. Cuộc chia tay xa bờ thật là lặng lẽ, không chút nào giống cảnh xe lửa rời sân ga hay con thuyền tách khỏi bến với rất nhiều người vẫy nhau, gọi nhau, dán mắt vào nhau trong phút cuối. Dọc br tàu lúc này, cả một dãy thương binh và bộ đội đứng ngồi chen chỗ nhìn vào đất liền, không một cử động hay lời nói.

Tự dưng Cam muốn thoát ra khỏi cái dáng hòn vọng phu này, nó kéo dài vì tàu chạy chậm và biển rộng. Cam vén tay áo trái lên, nắn cùi tay và tập co duỗi. Cùi tay trúng mảnh pháo sau khi tháo bột đã hiện rõ bị tật, tập ít lâu sẽ duỗi thẳng được nhưng chỗ khớp vẹo sẽ thành cáng vá, các thầy thuốc hội chẩn cho biết nó còn lại chừng sáu bảy chục phần trăm sức cũ. “Vậy là may đó Cam, khỏi bị tháo khớp hay cưa bỏ”, cụ Gừng bảo thế, Cam thấy phải. Những người thương tật hay tự so sánh với anh em rủi ro hơn, và tất cả đều thấy mình may mắn khi nhớ tới các đồng chí họ đã đưa xuống huyệt... Cam thoáng buồn cười khi nhìn tay áo xi-ta xám mới được phát “để ra Bắc cho chỉnh tề”. Tin báo trước rằng bộ đội sẽ nhận ở Cửa Hội mỗi người một bộ “đại quân” với áo vá vai hai túi bỏ ngoài quần, nhưng đồ xi-ta còn dùng xen kẽ ít lâu nữa. Vẫn những bộ nhuộm xám với nhiều chỗ đậm nhạt khác nhau đo cắt ở nhiều súc vải, vẫn những cúc vỏ dừa lâu nay, nhưng lứa quân trang may sau đình chiến này đã chiếu cố mốt mới của lính, cắt cầu vai và nắp túi to tướng, quần ống bó và nếp lơ-vê cao đến một tấc. Bộ cuối cùng của kháng chiến mà, chiều lòng nhau tí!

Cậu cưa chân ngồi bên Cam gọi khẽ:

- Xuống anh hè. Lạnh rồi.

Con tàu đã ra khỏi vịnh, gió thổi mạnh hơn. Tất cả các đèn điện đầu đuôi cao thấp cùng bật sáng, hai đèn pha quét qua lại trên biển. Cam không muốn nhìn đất quê hương chìm biến vào đêm, đứng lên, xếp ghế cầm tay, ghé vai cho bạn vịn, bước tới giữa boong.

Chỗ đầu cầu thang rất dốc đi xuống sàn dưới có dựng một cửa vòm gỗ hình hộp che mưa nắng. Cam dừng trước cửa, hấp háy đôi mắt chói đèn, từ khoang tàu rộng đầy người thốc lên tiếng cười đùa, màn tuồng và ca bài chòi nghêu ngao, reo cắt phăng teo. Gió lùa qua các ống thông tận đáy đẩy ngược lên cửa mùi nồng nồng của hơi người đông đúc pha lẫn khói thuốc rẻ tiền, cái mùi ấm áp quen mũi ở nơi lính ôm nhau úp thìa ngủ chen chúc mùa rét. Trong Cam bỗng cồn lên, trào lên mãi niềm vui được hòa vào đám trai trẻ nhộn nhịp kia, được hóa thành một tế bào giữa đoàn quân thắng trận đang ra đi.

Chú thích:

[1] Tiếng Lào: đi tập kết đường núi.

Đà Nẵng 11.1987