← Quay lại trang sách

Chương 2

Hai Thùy đang tính sổ, cộng các khoản nợ công may, nợ vải, xem có đủ nộp ba ngàn đồng vào “quỹ tố cộng” hay chưa, chắc bà Tư mẹ chồng đi đòi rã chân cũng chỉ thu được một nửa. Nhà hết cả những thứ bán ra tiền. Khách đến may cứ khất lần hồi, tới mùa lúa hay mùa nhập lâm sẽ trả. Không cho nợ thì bàn máy bỏ không, lò rèn ông Tư cũng ế lây, dân làng thường dành một buổi làm hai việc.

Tiếng vó ngựa và chân người đi qua cầu gỗ bắc ngang khe Cốt khiến chị ngừng tay, rướn cổ nhìn xuống cầu. Mười mấy người đang ngược dốc lên phía nhà chị. Chị đút vội cuốn sổ vào ngăn kéo máy may, vơ lấy một cái quần lính rằn ri chưa vá, bất đầu đạp.

- Nè chị kia, đứng dậy, ra góc nhà đợi đó!

Hai thằng lính và một công dân vụ quen mặt nhưng không biết tên vừa ập vào, súng chĩa ngang, mặt hầm hầm như sắp bóp có. Đừng lý sự với bọn này, lý sự cùn vài câu là nện. Chị lặng lẽ đến chỗ chúng chỉ. Tên công dân vụ thò tay rút hai ngăn kéo hai bên máy may, lấy ra cuốn sổ đang cộng dở, hừ hừ trong mũi. Mấy người cưỡi ngựa cũng vừa dừng trước cửa. Thùy liếc nhìn qua, thấy một đứa đeo hai bông mai bạc, trung tá. Một đứa một bông mai vàng, thiếu úy. Một lão có khuôn mặt rất quen nhưng không nhớ gặp ở đâu, chừa ria mép, mặc bộ com-lê xám có thắt nơ đen trên cổ sơ-mi, đội mũ phật tử rộng vành, áo dài rất căng trên bụng phệ. Còn thêm một đứa bị phỉ nhổ nhiều nhất trong xã Linh Giang, nay đổi gọi Tây Giang, là đồng chí Hùng Minh tức Ba Mít, đi đâu cũng tự xưng là “cán bộ Việt Minh từ hồi bí mật, nay ăn năn hối cải trở về với chánh nghĩa quốc gia, được nhứt tề trọng đãi, vừa được trên cử làm đại diện xã mình”. Dân các làng ven sông Linh đều ghê tởm cái đứa trở cờ này.

Tên trung tá ỳ ạch xuống ngựa, bước tới trước tiệm may:

- Gì đó bay?

- Dạ thưa trung tá tỉnh trưởng, mụ này có sổ ghi dân chúng góp tiền gạo nuôi Việt Cộng!

Hai Thùy tức quá, nói to:

- Không phải Việt Cộng! Là ghi nợ may chưa trả...

- Câm họng, ai cho chị mở miệng hả?

- Ông vu oan để giết tôi...

Người mặc com-lê vất cái mũ dạ phật tử trên máy may, rút kính lão đeo lên mắt, lật nhanh các trang ghi bút bi, đưa lại cho Thùy:

- Cháu viết tắt nhiều, bác coi không ra. Đọc bác nghe ít dòng từ trên xuống thử.

Thùy đọc gằn giọng:

- Cái Hĩm, bà Thuần Linh Thương, một bộ áo đầm tám tuổi, vải mười sáu, công mười hai, cộng hăm tám đồng... Thằng Trĩ, ông Ba Xíu, một bộ bà ba, vải không, công mười bốn đồng... Chó Rớt, chị Chín Huê, một bộ con nít xẻ đáy...

Lão kia giơ tay cầm sổ xem lại, bật cười:

- Ông trung tá coi đó, Việt Cộng toàn con nít dưới mười tuổi!

Tên lính vừa gây sự với Thùy xoay người lại, chị thoáng thấy lon chữ Y hạ sĩ trên tay áo trái của hắn:

- Bẩm quan, con còn bắt được một đứa mọi cái núp ở nhà sau. Nhà treo bảng cô lập hạng A mà nó dám vô...

Rất không ngờ, tên trung tá tát bốp vào mặt tên hạ sĩ giữa câu nói, bồi thêm một tát tay trái. Máu mũi bắt đầu rỉ xuống cặp môi thâm đen.

-Tao dạy rát cổ mà tụi bay ngu cứ nhứt định ngu. Bẩm quan, quan lại đâu còn mà bẩm! Mọi cái là thứ gì? Phải kêu là Thượng nữ, nữ Việt Thượng. Hễ đủ hồ sơ Việt Cộng thì phải kêu là nữ Việt Thượng Cộng phỉ. Nhắc lại tao nghe!

Bọn lính đã lôi cô em gái anh Tơ-rin từ nhà trong ra. Cô vùng vằng co kéo, nói hàng tràng tiếng Cà-yoong, chẳng ai hiểu. Cô này khá xinh, nhưng đã cẩn thận bôi nước nghệ cho da vàng khè, vuốt ngược tóc cho xù lên và rắc thêm nhiều tro, mặc bộ áo váy lấm bùn trước khi đến gặp Thùy. Tên trung tá nheo mũi khịt khịt, bước ra ngoài, để tên công dân vụ hỏi cung.

- Nhà này là loại A cô lập, sao mày tới núp trốn?

- Cô lập là cái chi?

- Bảng treo trước nhà, mày còn chối! Ra đây coi!

Đứng trước tấm bảng, cô Tơ-bon cứ lắc đầu:

- Dân tui trên núi, không có cái chữ ni. Không có chữ chi hết. Tui đem đồ tới chị Hai may, tui giữ con cho chị may.

Bọn lính soát cái gùi của To-bon, ném ra mấy thứ đồ rách, một xấp vải nhuộm chàm, mấy bó trầu và vỏ ăn trầu. Không có gì đáng gọi là “tiếp tế Việt Cộng”. Tên trẻ tuổi đeo một bông mai vàng thiếu úy cười gằn:

- Chẳng có gì chấm mút được đâu, thôi cuốn xéo!

Lão mặc com-lê chừa ria mép nói với theo:

- Trình trung tá cứ đi trước, coi địa thế, tôi với ông đại diện đi sau.

Lão ngồi xuống cái ghế bên cạnh máy may, cười khẽ:

- Một ngày lạ thói sai nha, làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền... Cháu Hai chưa nhìn ra Bắc à?

- Dạ... cháu mắc lo con cháu, chẳng mấy khi đi hội họp…

- Ờ, thiệt vậy, cháu một đứa, Năm Bưởi đi tù giao lại hai đứa. Mà sao nhà vắng quá vậy?

- Cha cháu đi học tố cộng đợt hai, giai đoạn hai, chắc bị giữ lại nửa tháng là ít. Con Út Hiền ngày đem cơm cho cha hai lần, ở Huề Bình. Mẹ cháu giữ con cho anh Tư Quýt rèn, chị Ba Song bán tiệm ngoài xóm chợ. Một mình cháu lo việc nhà, may vá kiếm tiền nộp quỹ tố cộng.

- Nộp bao nhiêu?

Thùy liếc thấy Hùng Minh kín đáo xua tay, nhưng cứ giả vờ không thấy. Chị không giấu những việc cả làng đều biết:

- Giai đoạn một, Hội đồng hương chánh hẹn nộp bốn ngàn thì được xuống hạng B, chưa cấp thẻ kiểm tra nhưng được giấy phép đi lại trong xã. Cha cháu bán trâu nộp đủ, mà bảng cô lập cứ y nguyên, không được ra khỏi thôn, các thứ đóng góp, canh gác, làm xâu công ích cho xã cho quận, thứ gì cũng được ưu tiên số một hết. Nghĩa là phải đóng nhiều, làm nhiều, học tố cộng nhiều, mà phải đi trước hàng xóm. Cháu thưa thiệt vậy đó, có ông đại diện đây biết rõ. Bây giờ đang lo chạy tiền không đủ để nộp quỹ tố cộng giai đoạn hai. Năn nỉ miết, hội đồng mới hạ xuống ba ngàn, là chưa kể hơn hai chục khoản đóng góp khác.

- Họ có phát biên lai không?

- Nộp các thứ thuế có biên lai. Quỹ tố cộng thì ông đại diện đây nói không cần, ghi sổ là đủ, coi như tiền chuộc mạng để quốc gia cho sống sót.

Bộ mặt điểm ria mép quay về phía Ba Mít tức Hùng Minh:

- Đúng vậy không, ông đại diện?

- Dạ bẩm cụ, hơi đâu nghe mấy mụ cộng sản nói xàm xàm…

- Tôi hỏi ông: đúng vậy không?

- Dạ thưa, để cháu trình cụ sau. Dân đây theo Cộng đỏ lòm hết, cụ biết rồi đó, họ nghe một thổi lên thành mười, làm mất uy tín cán bộ quốc gia...

- Cho anh ra ngoài. Đi!

Ba Mít trừng mắt dọa Thùy, lẳng lặng ra cửa, bộ mặt rỗ còn tái xanh dưới mái tóc tém đít vịt và chừa gọng kính. Lão com-lê rút thuốc châm hút, dùng bật lửa gì mà xì ngọn dài tới ba phân, Thùy chưa từng thấy. Chợt lão vớ cây gậy mây to uốn cong đầu, bước ra cửa. Quả nhiên Ba Mít đang rình nghe chỗ góc nhà che liếp, không biết rằng liếp tre chưa trát đất để lộ rõ bóng hắn.

- Mày dò xét cả tao nữa hả thằng Mít? Muốn vô xà-lim hả?

Có tiếng gậy vút, kèm tiếng bịch của gậy đánh vào thịt. Ba Mít kêu “úi” một tiếng khẽ, rồi chạy xa. Lão kia quay vào, mặt còn đỏ.

- Cố tổ nó, làm tới tỉnh phó mà nó còn theo rình rập!

- Ổng rình nghe cháu nói gì với bác, để sau rồi trả thù. Phép vua thua lệ làng mà bác.

Lão bật cười:

- Vậy là nhận ra Bắc rồi nghen. Tên gì nói thử coi?

- Dạ, là quan phủ Đỉnh, hồi chín năm Việt Minh là cụ tú đỉnh làm Liên Việt, bác nói tỉnh phó cháu mới sực nhớ...

- Nhớ gì?

- Mấy ông ở xã nói làng mình được nhiều người làm to lắm, như cụ tú theo quốc gia lên tới tỉnh phó.

- Bác so với Cả Chanh thì nước non gì. Hồi thằng Cả lên phó chủ tịch tỉnh, mới ngoài hai mươi tuổi, đâu chừng hăm lăm thôi. Còn bác tới nay gần sáu chục mới tới tỉnh phó, lên voi xuống chó đủ đường... Hỏi thiệt cháu nghen, phe thằng Ba Mít ngoi lên đại diện, có sanh sự với nhà cháu nhiều không?

Thùy đắn đo một tí, rồi cứ đáp thẳng thừng:

- Dạ nhiều lắm, kể không xiết đâu bác. Hồi Việt Minh ổng tới tịch thu nửa gia sản nhà cháu, báo lên trên xếp cha cháu vô cường hào, thêm cái gian ác nữa. Giờ ổng theo quốc gia, lại ghép nhà cháu vô tình nghi can cứu loại A, nộp tiền tới tới mà ổng không chịu rút bảng, còn nói trong lớp tố cộng là cả họ nhà Tư Chua Cả Chanh phải đi ăn mày ổng mới ưng bụng. Cái lập trường của ổng thiệt là sắt đá.

Phủ Đỉnh vân vê điếu thuốc Xa-lem, trầm ngâm:

- Ai nghĩ sao tùy họ, riêng bác nghĩ khác. Nói tình thiệt với cháu, bác chỉ thắc mắc cái vụ quỹ tổng động viên với đợt giảm tô hồi Việt Minh, chớ thâm tâm bác quý trọng người kháng chiến lắm. Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, nhà này phải kể nhứt thằng Cả chồng cháu, nhì ông Tư Chua, ba tới con Năm Bưởi-gai ngạnh cùng mình mà ở tù gần hai năm nay, rồi tới cháu vừa may vá vừa cày cấy nuôi cả nhà... Bác không nói lấy lòng đâu cháu, đừng cãi. Bác theo quốc gia, thiệt đó, mà cứ ước sao phía quốc gia được những người như nhà cháu mới trụ vững được.

- Bác làm ông to, chớ cháu nói vậy thì đi tù tức thời!

- Chỗ thân tình bác mới nói thiệt. Hễ cháu gặp chồng thì cứ kể đúng y lời bác, để Cả Chanh nó hiểu bụng dạ...

- Anh Chanh đi tập kết, làm sao cháu gặp được!

- Giỡn chi vậy Hai! Có mật báo rành rành là cháu vô chỗ Xê-ca Đơ cũ gặp chồng tháng sáu năm Năm sáu. Tới tháng Mười Cả Chanh bị dân vệ Tiên Phước bắt giam hai ngày, được một dân vệ nửa đêm cắt dây cho trốn thoát, công an tỉnh yết thị rồi…

Giọng Thùy lạnh như nước đá:

- Vậy đó, bác ghép tội cháu còn nặng hơn ông đại diện nữa. Ổng mới truy cái tội kháng chiến cũ, không chịu ký giấy ly hôn, còn bác gài vô tội liên lạc, tiếp tế cộng sản trên núi. Dễ thôi bác à. Cứ biểu mấy ông khai thác đánh cho nhừ tử, thịt lộn xương xương lộn thịt, thì mấy chục giấy cháu cũng ký.

Ông tỉnh phó Ung Viết Đỉnh lúc này luống cuống thật sự. Ông dặng hắng vài lần, châm điếu Xa-lem, rít vài hơi mới mở miệng:

- Cháu cay đắng trăm bề, gì cũng nghi ngờ là phải. Là bác nhắn tin vậy để Cả Chanh với ông Tư biết trước mà giữ thân, chớ bác nói tin mật với cháu ích gì, cứ để cho quận với xã họ làm, phần bác nhắm mắt bịt tai là xong. Thằng Chung đâu rồi?

- Dạ, nó ngủ mê lắm. Hồi nãy bắt con nhỏ Thượng tới may đồ, nộ nạt rầm rầm mà nó không thức dậy.

Phủ Đỉnh bước vào buồng trong, vén màn, giật mình khi thấy đứa bé trai lên chín nằm ngáy phì phò bên hai đứa gái nhỏ. Mặt thằng Chung đúng là bộ mặt của ba nó-Hai Khánh-thu nhỏ lại và còn đẹp hơn, hồng hào phốp pháp hơn. Hai Khánh nhờ lão nói khó với cả nhà ông tư, đặc biệt là với Năm Bưởi và Hai Thùy, mẹ đẻ và mẹ nuôi thằng Chung, cho nhận bé Chung về nuôi. Mấy lá thư thống thiết gửi cho Bưởi và Thùy đều không được hồi âm. Bên ngoài, Thùy đã đạp máy may lạch cạch, sửa bộ áo quần rằn ri của tên lính nào đó, chắc hẳn không công. Quỹ tố cộng thúc sau lưng, ba ngàn đồng, trong khi lão ký một cái giấy bá láp nào đó là được lễ tạ năm chục ngàn tới vài trăm ngàn. Một cảm giác gì vừa nóng vừa lạnh bỗng trào lên ngực lão. Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu, gieo gió gặt bão, cuộc đổi đời hồi Việt Minh đã dạy lão chớ coi thường lũ dân đen mà khốn có ngày. Lão quyết định ngay: thu xếp cho Năm Bưởi ra tù, nhà ông Tư Chua xuống loại B khỏi bị cô lập. Riêng vụ trả thằng Chung về cho Hai Khánh thì sau đó sẽ hay.

Lão quay ra chỗ Thùy đang may, vồn vã:

- Đừng hiểu lầm bác nghen. Sắp tới bác cho tháo bảng cô lập, miễn nộp quỹ tố cộng, tìm cách đưa Năm Bưởi ra tù. Nói suông chẳng ích gì, cháu cứ đợi năm bảy ngày coi bác tình thiệt hay đãi đưa lấy lòng. Cháu cứ nói lại trong nhà lời bác nhắn. Tạm biệt cháu.

Lão cầm cây ba-toong bước ra, vừa gặp nhóm sĩ quan và lính quay lại. Lên ngựa xong, lão hỏi tên trung tá:

- Ông quyết định ra sao?

- Ờ, cắm bốt mé Nam đường 56, kiểm soát cả đường sông đường bộ. Dời mấy làng Thượng xuống dọc bờ sông, cho đám giáo dân di cư kèm chắc. Ý cụ hay đó. Cơ mà lập thêm bốt giữ mé sườn đồn điền của cụ thì khó đấy. Bảo an hết quân rồi. Tổng đoàn dân vệ chỉ được một trung thiếu, phải lo giữ chung quanh chợ Huề Bình. Hay là cụ bỏ ra ít nhiều, nuôi bọn Thanh niên xung kích hay diệt cộng gì đấy, mua cho chúng nó vài khẩu cà-là-gỉ với chục lựu đạn, trả mỗi tháng ba trăm một đứa, nó gác cho cụ ngủ yên. Việt Cộng theo đường lối hòa bình mà, vất hết súng đạn, có súng cũng không dám bắn, cụ chả phải lo.

- Lo chớ, là lo bọn Thanh niên ấy trộm cắp như quỷ sứ!

- Hà hà, có thế. Cũng phải cho nó kiếm tí chất tươi chứ. Cơm trưa ở đâu, ông đại diện?

Ba Mít chạy bộ sấn lên trước, hổn hển:

- Trình trung tá, em đặt ở tiệm khá nhứt xóm Chợ, toàn thứ lạ miệng như trăn, rắn, gà rừng, heo rừng, rượu nếp thứ chánh hiệu.

- Biết điều đấy. Đi thôi.

Ba Mít chạy bộ trước đoàn ngựa, bọn lính chạy bộ theo sau, qua cầu khe Cốt về hướng xóm Chợ.

Mươi phút sau, Thùy khép phên liếp, gài cây ngáng, đi vào lò rèn ông Tư dựng cách nhà ở mươi thước, dưới bóng những cây dầu lai cổ thụ. Cô Tơ-bon đang ngồi dựa cột, ngủ gật, choàng tỉnh dậy, nhoẻn cười:

- Đi hết chưa chị?

- Hết. Hồi nãy em sợ không?

- Sợ con khỉ gì. Em giả dại, giả dốt thôi.

Cô gái mười sáu tuổi này đã học hết lớp bốn tiểu học hồi Kháng chiến, nói tiếng Kinh sõi hơn cả ông anh Tơ-rin đang là huyện ủy viên Tây Quảng, nhưng đóng kịch ậm ờ ú ớ rất tài. Xuống làng Kinh dễ bị lính Diệm chọc ghẹo, cô tự làm xấu và bẩn hết cỡ, ít bị quấy phá.

Cô đưa cho Thùy nửa mảnh đá cuội dẹt và tròn. Thùy ra góc vườn, nhặt vào nửa mảnh đá khác. Hai mảnh ráp vào nhau vừa khít. Tơ-bon cũng xem kỹ, đúng là một tấm cuội dẹt đập vỡ đôi. Cô đến chỗ đống lá khô góc nhà, nhặt lên hai lá mít khô dán lưng vào nhau, thư nằm gọn ở giữa. Giao liên hay mang thư tối mật theo kiểu này, bị địch chộp bắt hay bắn chết tươi cũng kịp vất thư vào bụi rậm hay cỏ rừng, địch chỉ lục soát trong áo quần đồ đạc.

Thùy vào buồng, gài cửa, đọc vội mấy dòng của chồng:

“Tối nay, từ 11 giờ trở đi, em đến gặp anh tại chỗ cũ được không? Đi theo người đưa thư. Hễ được, em phơi trên dây trước nhà một bộ áo quần cỡ thằng Chung mầu sẫm”. Tắc.

Tắc là tên mới của anh Chanh, cũng là thứ quả chua như Thanh Trà, Quất, Sấu. Lâu lâu anh lại thay bí danh một lần.

Cả người Thùy chợt nóng chợt lạnh từng cơn. Chị không kịp tính lại giờ nào bọn Bảo an hay Dân vệ bắt đầu đi gác đi tuần, giờ nào giới nghiêm, giờ nào bọn chúng ập vào đòi ăn khuya, ít nhất cũng phải một nồi cháo gà hay cháo cá. Đêm qua chúng quậy phá đến hai giờ sáng, lũ trẻ sáng nay ngủ say vì thế, đêm nay sẽ ra sao? Chị rối ruột quá, đành chậc lưỡi: chồng về bên kia sông Linh, còn so đo gì nữa. Lão phủ Đỉnh chỉ được mật báo chị gặp chồng một lần, thật ra những bốn lần kia. Lỡ có thai với chồng thì tụi nó đánh chết, khai ra mình lang chạ thì lời nói mắc cứng trong họng. Thuốc ngừa thai hết sạch. Chị cầm mảnh thư chồng trong bàn tay run rẩy, bật khóc thút thít: “Khổ thân em quá anh ơi... Tụi nó tra em hai lần, em cắn răng không khai, không ký ly hôn anh, nhưng mà cả nhà chỉ một mình em may vá tới bại chân mờ mắt, nuôi ba đứa nhỏ, nuôi cha, thăm nuôi em Bưởi ở tù Hội An, tiếp tế cho anh, em đi tù thì cả nhà chết đói hết... Anh thương em, anh đừng bát em làm bổn phận người vợ... cho em xin nghen anh… Sống chết em cũng tới với anh...

Chị đứng thừ hồi lâu, đọc lại thư chồng, đưa giấy vào miệng nhai chầm chậm, nuốt biến. Chị hối hả bước ra chỗ cô Tơ-bon đang chờ.

- Đêm nay chị đi với em. Tụi nó tới coi sổ gia đình, chị để Út Thanh Yên nó đối đáp. Có điều em ở nhà cô lập, dễ sanh chuyện...

- Thiếu gì chỗ. Chị cứ may bộ vải chàm của em đi, em tới ngủ mấy nhà thương lái, tới khuya em đón chị.

Thùy chạy qua lại mấy nhà quen kiếm tiền, mua hàng. Quỹ tố cộng tới sát bên hông, các ổng còn dọa phạt nộp trễ, nhờ bác (anh, chị) cho xin mấy món đồ may đã lâu mấy tháng. Là gặp hồi bí rị mới phải hỏi tiền công, tiền vải, chớ tôi chẳng phải đứa quên tình nghĩa bà con…

Hầu hết các bà và các chị em biết cảnh “gia đình cô lập” ra sao, và rất nể bà con ông Tư Chua và Cả Chanh. Họ xoay xở mọi cách để trả tiền vải tiền may cho Thùy. Có bà lẳng lặng vào buồng xúc tới hai ang gạo, mười sáu ki-lô, bắt con phải tự gánh tới nhà chị Hai, tuy nợ may chỉ đáng ba ki-lô. “Trả nợ cho chị một phần, trả nợ người khác một phần, chị đừng nói nhiều”. Chỉ khó khi Thùy đến nhà vợ chồng Tư Quýt và Ba Song. Quýt là em ruột Cả Chanh đấy, chỉ vuốt bộ râu ba chòm, cười khẩy:

- Chị nàng dâu trưởng mà riết róng với em út ghê thiệt. Thằng này sanh sau đẻ muộn, mà cả chục năm nay làm nuôi cả mấy vị cán bộ thượng cấp, cả ông gì, anh Chanh, cô Năm. Chị Hai đòi nợ, mời chị đòi các vị kia trước cho tôi nhờ.

Chị Ba Song đế thêm ngay:

- Mà có gì đâu, mấy cái đồ con nít ranh, tưởng chị làm giùm, không thì tui đem vô xóm Chợ, tùy lòng chị đó.

Nhà chị Ba Song đang giàu tấy lên. Sau đình chiến, cha chị xuôi đò dọc tới tận Hội An, Đà Nẵng, chở theo mấy tấn quế khô mua vét rẻ như củi mắc kẹt trong chiến tranh, chở về những chục kiện hàng ngoại một vốn bốn lời. Chị Song mở ngay một tiệm buôn chỗ ngã tư đường 56 gặp sông Linh, ban đầu chỉ tranh tre nứa, hai năm sau xây gạch ngói đàng hoàng. Chị giao cho Tư Quýt với bà me chồng nuôi hai đứa nhỏ hơn, đem hai đứa lớn theo chị tập bán hàng và trông nhà. Từ đó chị ngày càng hồng hào mỡ màng ra, càng coi khinh lão chồng thợ rèn ế khách, lánh xa nhà chồng dây dính với cộng sản. Làng xóm xì xào những vụ chị bê bối với bọn sĩ quan Diệm, với đám tề trẻ, chị vênh mặt lờ tịt, và Tư Quýt không dám mở miệng hỏi lần nào.

Bà Tư vẫn ở chỗ vườn cũ, cố giữ khư khư mảnh vườn và cái nhà tranh cũ nát cho thằng Cả. Ông Tư, sau khi biết rõ Cả Chanh ở lại nằm vùng chứ không tập kết, đã dời lò rèn của mình về ở với Hai Thùy và Năm Bưởi, lò của ông vẫn đông khách gấp bốn năm lần lò Tư Quýt. Gần đây Năm Bưởi đi tù Hội An, ông phải học tố cộng trung bình mỗi tháng hơn chục ngày; lò rèn thường để lạnh, trăm khoản đóng góp chi tiêu chỉ dựa vào máy may của Thùy. Bữa cơm đem cho ông ở nhà lao xã Tây Giang còn khá, cơm nhà chỉ có một hột gạo cõng một khúc sắn, ăn với bát canh láo nháo vơ bòn quanh nhà. Có hôm trung sĩ Bảy Bòng về thăm nhà với bộ mặt đẫm rượu đỏ gắt, trông vào mâm cơm chợt tỉnh rượu, thấp giọng:

- Bấy lâu không về, ông già khó tánh làm em ra người dưng, đâu ngờ chị Hai khổ cực quá vậy... Nói thiệt, cả làng này phục anh chị, thương anh chị, em cũng vậy. Thôi chị cầm đỡ chút ít của em, đừng gạt đi mà em tủi thân. Sắp tới cấp trên tính đưa em về xã này làm cảnh sát trưởng hay phó gì đó, rồi em liệu đàng tháo gỡ cho cả nhà...

Hắn nhét một xấp giấy bạc dưới gối con Bình, bỏ đi gấp không để Thùy kịp trả. Chuyện ấy cách đây hai tháng, Bảy Bòng chưa trở lại. Sáng nay lão phủ Đỉnh tỉnh phó lại thốt những lời ơn phước với Thùy. Chớ tin mà mắc lùa. Qua hai lần bị bắt, Thùy đã quen với đứa trước nói như lột lá bánh chưng, bước qua buồng khác bị đạp ngã dúi và quất roi ba cạnh nát người.

Đến chiều, Thùy đã kiếm đủ những thứ cần mang cho chồng: hai ký muối, nhựa đi mưa, thuốc sốt rét clô-rô-kin mua lậu, ba hộp vị tinh Hồng Công, một bộ quai dép cao-su, hai thước đúp vi-ni-lông màu xanh lá làm võng cùng mười thước dây dù mua lậu... Mỗi lần gặp chồng, Thùy soạn bao lưng anh thấy thiếu những thứ đã tiếp tế đợt trước, anh lại cười: cho rồi, anh em thiếu quá... Thùy nóng mũi, định kể cho anh nghe bao nỗi cơ cực trong nhà, chỉ sau vài phút lại xấu hổ: so bì sao được với các đồng chí quanh năm đói lạnh, leo núi ngủ rừng.

Thùy lại ngồi vào may gấp, sau khi dấp nước một bộ áo quần sạch của thằng Chung đem treo trước nhà.

*

Bên kia sông Linh, khi mặt trời sắp lặn và chim cỏ từng đàn bay ngược sông về vùng núi Ngọc Linh, một ông lão người Thượng từ trong rừng bước xuống bờ sông.

Cũng như các con sông trái chứng trái nết trên vùng núi, sông Linh ưa đổi dòng sau mỗi mùa lũ lụt như cố ý buộc con người phải coi trọng nó. Năm kia, nó xoáy lở đến sát những căn nhà tranh xóm Vạn, trên bờ phải. Nhiều nhà hoảng hồn đã dời vào vườn cách vài chục thước. Năm ngoái, nó tha cho bờ phải, dồn nước sang mé Tây, bờ trái, quét sạch đi một dải đất pha cát, để lại một bãi cuội dài trơn nhãn, với những cây rù rì và cây rau vừng lá xanh tím đứng dầm chân đuổi nước xâm xấp mắt cá. Trẻ con trong làng ra bãi mới lộ ấy với cái rổ xúc tôm và cá đép, nhũng con cá hệt cá đuối thu nhỏ bằng móng tay cái, bám dính vào cuội. Chúng bóc tôm sống và cả cá đép đút mồm nhai rau ráu.

Ông già Thượng không đem rổ, chỉ bật bằng tay. Cái gùi nhỏ của ông đặt bên cạnh cây giáo dài cắm đứng bên mé nước. Tóc hoa râm búi củ hành sau gáy, hai miếng ngà voi tròn to xỏ căng hai dái tai, da cháy nắng, cái khố bạc màu phơi cặp mông lê trên sàn mốc thếch, tất cả cùng lọt vào ống dòm của tên trung tá đứng trên đồi cao nhìn cảnh toàn vùng. Trao ống dòm cho phủ Đỉnh, hắn gật gù:

- Cụ ưng ý nhá? Đồi này đóng bốt là nhất. Đui-xết quét đâu cũng đến, chỗ khuất ta nện moóc-chê... Cộng phỉ muốn đến đồn điền cụ phải qua lưới lửa chúng tôi, chúng tiềm hành thoát thì cũng chết sạch khi qua sông, rút lên núi.. Cụ xem, lùa bọn Thượng xuống bờ sông này có khó lắm không?

Phủ Đỉnh vừa chỉnh xong ống dòm, đang ngắm lão già Thượng chăm chú. Quái lạ, lão này gặp ở đâu mà trông rất quen. Nhiều nét giống Tư Chua. Chòm râu thưa, cái miệng nhai trầu... Nhưng Tư Chua ngồi lò và nhốt vào lớp tố cộng mãi, đâu có đen nhẻm thế, và tóc hớt ca-rê lấy đâu mà búi... Phủ Đỉnh cười khẽ. Thì mình đây chứ ai, từ khi đổi áo gấm mặc com-lê tuýt-xo, cạo râu cằm chừa ria mép con kiến, mỗi tháng một lần nhuộm tóc đen, lũ đàn em cũ cứ ngờ ngợ mãi, rồi khen rối rít:

- Dạ bẩm cụ... dạ thưa bác... cụ trẻ lại tới chục tuổi, ờ, tới hai chục là ít... Cụ cho phép tụi con thưa bẩm bằng gì cho phải phép, cho xứng ý cụ...

- Hà hà, thời này cộng hòa rồi, Bảo Đại rớt rồi, bay cứ nói miệng hay viết giấy là “Trình ông tỉnh phó”, gọn nhứt. Tao thôi làm quan, bay cứ dân chủ như lời cụ Ngô...

Tên trung tá lặp lại câu hỏi. Phủ Đỉnh đáp vội:

- Ờ, bọn Thượng xuống núi định cư là cái chắc. Chắc tụi nó cù cưa, mình nói rã họng cũng giả đui giả điếc. Cứ cho quân lùa xuống hết, ta gài người rình lâu cũng nắm đầu được bọn cộng sản giấu mặt. Nơi chưa lùa được thì chặn không cho muối sắt vải lên, cấm thương lái lên.

- Cụ quên mối lợi quế với các thứ lâm sản à?

- Cắm đồn, buộc phải bán cho chánh phủ hết, giá cả tùy mình đặt ra, hà hà...

- Cụ chúa thật đấy. Mà chiều nay cụ khao lính món gì?

- Đổi món, làm hai dê tái, rượu tiết dê, đã cho hai con uống rượu rồi đánh chạy tơi bời cho vã mồ hôi, hết mùi. Ông thích thêm món gì cứ lệnh cho lũ bếp nhà tôi.

- Gỏi tôm suối bóp sống, dẫn lửa khá lắm đấy cụ.

- Có ngay. Cần cả làng Linh Lâm kéo đi bắt tôm tươi, hầu ngài trung tá!

*

Ông lão Thượng lọt vào ống dòm là Cả Chanh.

Anh xuống bờ sông, thấy ngay bộ áo quần xanh biển của bé Chung treo trên dây phơi. Nhác thấy bọn người ngựa đứng trên đồi đang nhìn quanh, anh phải nấn ná một lát cho chúng khỏi nghi. Nhai được mớ tôm và cá đép sống, dù sao cũng đỡ cơn đói cồn cào. Hai ngày qua, anh chỉ được một khúc sắn luộc với ít măng, chỉ có nõn cây chuối rừng được ăn xả láng, không muối. Đợi mãi chẳng thấy giao liên tới đón, anh không thể đi liều, thoát phục kích cũng dễ xóc chông, đạp bẫy thò của dân Thượng chống thú rừng.

Một trung đội Bảo an cùng mười đứa Thượng du vận đang đóng chắc cứng trong làng Bà-lam, không chỉ lướt qua như mấy lần trước. Chúng nghi làng này là ổ Việt Cộng nằm vùng, mà cũng đúng thế thật. Chưa có lệnh đốt và giết, chúng chỉ tra hỏi vặn vẹo, đi phục kích và tuần tiễu quanh làng, sục các rẫy tìm dấu chân lạ. Bắn chết một Việt Cộng chặt đầu hay cắt tai đem về được thưởng năm ngàn đồng, hơn bốn tháng lương lính, tám tháng lương dân vệ, đâu có ít. Hai tên Bảo an thua bạc rình bắt được một em mười hai tuổi, nhét giẻ vào miệng, vác chạy từ chỗ ven rừng vào đến suối cách một cây số, bắn chết và cắt lấy hai tai, còn trút một mớ gạo bên cái xác để vu em “tiếp tế cộng sản”. Cả làng đang phải ngồi nghe diễn thuyết về chánh nghĩa quốc gia, chỉ có một bà già câm trông thấy em bị bắt cóc. Bà chạy ùa tới nhà làng, kêu ú ớ, chỉ trỏ. Mất hồi lâu dân làng mới hiểu, tỏa ra đi tìm. Tiếp đó là một vụ kiện động trời. Gạo bên xác em là gạo Sài Gòn chở ra, rất khác thứ gạo đỏ lúa rẫy. Đôi tai cũng chỉ bằng một nửa tai người lớn. Tên quận phó bị các đoàn kiện kéo tới làm rầm rầm, phải đi ngựa lên tận làng điều tra, cấm không được “trả đầu”, bồi thường hai chục ngàn, đưa hai tên Bảo an kia về quận vì biết ở nán lại có thể bị đâm chết. Nhưng chúng vẫn không rút quân, tuy dân làng chửi và tẩy chay hết cỡ. Sắp có lệnh dồn dân, cơ sở ta trong văn phòng quận Tây Quảng báo như thế.

Lội ngược một nhánh khe nhỏ, không có trên bản đồ nhưng đủ nước để đun nấu và xóa dấu chân, Chanh về đến cửa “hang nổ”. Hang này nhỏ nhưng sâu và khô ráo, năm xưa anh em quân giới dùng để cất chất nổ, tránh mưa, sấm sét, bom đạn máy bay. Sau ngày tập kết, đồng bào Kinh và Thượng đồn ầm lên là ta gài mìn vô số, dọn chưa hết. Thỉnh choảng trong những đêm vắng lặng, chợt dội lên trong vùng rừng quân giới một tiếng nổ lớn và lẻ loi. “Lại con gì vấp mìn rồi!” Có lần dân Blam khiêng xuống xóm Chợ một heo rừng lòi ruột vì mảnh mìn, bảo nó bị thương lê ra gần đường mới chết. Ai cũng lắc đầu lè lưỡi, chỉ vài người tinh ý thấy vết kẹp sắt bập vào chân nó. Bọn lính và dân vệ bắng nhắng mấy cũng không dám sục vào đấy, đợi công binh về rà mìn đã.

Chanh rút cái gương con vùi dưới lá khô, soi lại mặt, bật cười khi thấy ai đó rất xa lạ trong nương. Anh xổ búi tóc có rắc ít vôi bột cho thành hoa râm, giũ cái chang tóc ghép thêm cho đủ búi. Tới đôi “bông tai”, mỗi bông làm bằng hai miếng ngà voi tròn, mài rất mỏng, lắp vào dái tai bằng một cái kẹp mỏng gắn bên trong, cắt từ một kẹp tóc đàn bà. Bộ râu đen không thể cạo trước khi gặp vợ, nuôi cả năm nó chỉ dài được hơn một tấc. Quấn cái khăn hay tấm khố sạch lên tới cằm, che bớt râu là được, tối trời nhà ngói cũng như nhà tranh!

Anh xuống khe tắm giặt trước khi tối hẳn. Ở xứ núi này, mặt trời lặn sớm nhưng hoàng hôn kéo dài; dưới rừng sẫm màu mà nền trời vẫn sáng. Tới bữa cơm chiều, một vốc măng luộc, một mớ thân chuối rừng xắt mỏng. Cô Tơ-bon lách được ra khỏi làng, nhưng anh Tơ-rin dặn rất nghiêm là hễ mang tài liệu hay thư mật thì cấm mang gạo muối, địch chộp được đồ tiếp tế sẽ khám người rất kỹ, lộ hết.

Trong hang có một tấm sạp tre hai người nằm, phủ một tấm chiếu mỏng đan bằng lá duối dại, mấy cái nồi niêu đất, những thứ thợ rừng hay để sẵn phòng khi mưa lũ không về làng được. Chanh dựng tấm sạp che bớt lửa, đun một nồi nước chè tươi bẻ từ vạt chè của quân giới bỏ hoang, cây không xén cứ mọc thẳng đứng như dương liễu, uống tha hồ, nhưng bụng đói uống chè đậm vào càng xót ruột.

Anh Tơ-rin đang chạy con thoi giữa các làng Thượng sắp bị dồn. Một huyện ủy viên nữa ở hầm dưới kia, nắm cơ sở Kinh. Bí thư huyện ra cánh Bắc Quảng Nam họp với anh Tô Xáng. Chanh nhận thư muộn, ra sau. Một huyện ủy nữa bị địch bắn chết gần quận lỵ, làm lễ chiến thắng to lắm, gọi anh là ủy viên Thường vụ khu ủy để được khen thưởng nhiều. Một nữa rút lên núi cao, ở với anh Tô Xáng, cứ treo võng nằm thở dài sườn sượt: “Trước sau rồi ta chết hết. Không chết vì địch cũng chết bệnh, chết đói”. Thường vụ tỉnh ủy đã quyết định cho anh theo anh Tô Xáng sắp ra Bắc họp với Trung ương, để lại lâu sẽ lây lan qua người khác, cũng có thể anh ta trốn ra đầu thú, khai báo lung tung.

Cơ quan cánh Nam bám đồng bằng chỉ được hơn một năm, mất bốn đồng chí bị giết và bắt, phải bật lên núi, nay đóng trong vùng rừng hẻo lánh thuộc huyện Trà Mi. Cả Chanh nắm cánh này cùng với hai Thường vụ tỉnh ủy, bốn tỉnh ủy viên chia nhau nắm các huyện, trong đó có Tây Quảng. Anh ít ghé về xã quê vì quá quen mặt, dù địch không bắt được thì gia đình cũng dễ bị dinh điền khi kẻ xấu mật báo.

Năm kia anh bị bắt ở Tiên Phước, mới bị tra một trận roi ba cạnh và giam hai ngày. Anh đã cố ý đến chỗ xa đường sắt và quốc lộ Một, núp trong buồng kín, đêm khuya mới đi gặp cơ sở. Cả nhà đều một lòng che giấu, chỉ có một trong số nàng dâu sợ liên quan bỏ về nhà mẹ, rỉ tai ông cha đẻ. Ông này sợ con gái khai vấy cho mình-không khí chung trong làng xóm và trong từng gia đình là vậy, không ai dám tin ai-miễn cưỡng lên báo cho hội đồng xã. Một nhân viên nghe lỏm được, cuối buổi hối hả đạp xe đi báo cho Chanh, qua cổng đã thấy bọn dân vệ đang trói Chanh cùng cả nhà. Dân làng được gọi đến nhận diện, ai cũng bảo không biết anh lái buôn heo này, chỉ mấy đứa xấu lén nói riêng với cảnh sát trưởng: đúng ông Chanh đường sắt rồi đó, hồi Việt Minh mới lên ổng làm phó chủ tịch tỉnh, giờ chắc tối cấp trung ương là ít. Mười mấy năm rồi mà!

Dạo ấy đang giữa mùa lụt. Sông suối dâng thành những thác bùn, đò phà ngừng chở, cầu tre gỗ trôi gần hết, sót lại một cầu gỗ ô-tô qua được, tối hôm Cả Chanh bị bắt nó cũng trôi nốt. Hội đồng xã không cho người xuống quận báo tin được, chỉ trói Chanh nhốt vào trại giam, cho hai tiểu đội dân vệ thay nhau gác. Chúng tra tấn không quá nặng tay, sợ “ông Việt Cộng bự” này trúng chỗ hiểm chết, cỡ ấy phải nộp nguyên vẹn về tận cụ Ngô trong Sài Gòn để cụ dạy và dùng.

Tới đêm thứ hai, tiểu đội gác được ứng trước mỗi đứa năm trăm tiền thưởng, góp mua một con cầy tơ, mươi chai rượu lậu, hí hửng làm một mâm “cờ tây”, khá ngon. Trói thêm cả hai chân người tù thật chắc, khóa cửa bên ngoài, rồi ngả ra đánh chén lu bù. Chanh cố lê đến khe cửa nhìn ra. Khó thoát lắm. Chỉ hơi lạ là các chai rượu cứ như nồi Thạch Sanh, vơi một lát lại đầy. Hai tên không uống chén, ngửa cổ dốc nguyên chai vào họng, mới nhậu nửa giờ đã lảo đảo chạy ra hè, nách vẫn kẹp chai rượu, vào lại tu cạn chai trước khi lăn đùng ra ngủ chảy dãi. Bọn còn lại thi sức trăm phần trăm với nhau. Sau ba tiếng mới mãn cuộc. Tên tiểu đội trưởng cùng hai đứa gác phiên đầu tiên loạng choạng bước tới cửa trại giam, lắc thử ổ khóa, kêu lè nhè:

- Nè, ông Chanh!

Chanh đã lê vào chỗ cũ, nói như người hấp hối:

- Mở trói bớt đi. Đã nhốt người ngay, còn trói cứng tay chân là sao?

- Hơ hơ, mở dây để ông giỡ mái leo ra ngoài, hay là treo cổ tự tử để lên thiên đường cộng sản, đúng không?

Chanh lặng im đợi chúng bỏ đi. Hai tên gác nhấc ra hai ghế đẩu ngồi chặn ngoài cửa, súng tựa vai, lát sau đã ngoẹo cổ ngủ thiếp đi bên cây đèn bão vặn thấp ngọn.

Trốn rất khó. Tường xây gạch, trên không có trần nhưng căng dây kẽm gai ngang dọc như đan lưới dưới mái. Chanh không nghĩ ra mẹo gì, chịu ngồi nép vào góc nhà, ngủ chập chờn.

Khoảng một giờ sáng, tiếng quát bên ngoài đánh thức anh dậy:

- Ai? Đứng lại, giơ tay lên!

- Tao đây, Sơn Đông mãi võ đây! Tụi bay tỉnh ngủ, tao khen đó. Tù còn không?

- Dạ y nguyên. Trình anh Ba coi lại.

Luồng đèn lắp bốn viên pin sáng chói quét qua lỗ hổng bằng trôn bát, rọi đỏ hai mí mắt nhắm của Chanh. Anh vẫn vờ ngủ phì phò.

- Sao nó không nằm ta?

- Dạ, trói hai bàn tay ra trước, hai cùi tay ra sau, trói cả cổ chân với đầu gối nữa, buộc nó phải ngủ ngồi miết rồi cóc phải mở miệng.

Tên cảnh sát trưởng rọi đèn pin đi tiếp dưới mưa nặng hạt. Vài phút sau, có tiếng mở khóa, một tên gác rón rén vào, nhẹ tay khép cửa. Chanh nhận ra vóc dáng cao gầy của tên dốc chai rượu vào mồm ban nãy, nhưng hắn không có vẻ say, khi ghé tai anh cũng không bay mùi rượu:

- Cháu hỏi thiệt, bác có phải bác Cả Chanh không?

- Tra vấn hai ngày rồi, hỏi gì nữa!

- Dạ thôi. Nhưng chắc bác là người phía cách mạng?

- Nếu đúng thì sao?

- Hễ đúng thì tụi cháu dẫn bác đi trốn.

- Không phải cách mạng, tui cũng muốn trốn. Các ông giết lầm hơn bỏ sót, chẳng dại gì chết oan..

Tên dân vệ ghé chỗ lỗ tròn trên cửa: “Cẩn, Cẩn, vô đây”. Tên kia cũng vào, khép cửa. Cả hai rút dao găm sờ soạng cắt dây trói bằng đay, bốn mối tất cả. Chanh gượng đứng dậy, lại ngã ngồi xuống. Tay chân anh ứ máu tê dại. Một dân vệ rót rượu vào cái khăn mặt, thoảng mùi gừng, hối hả nắn bóp dọc chân anh. “Bác nhấp một chút, có gừng, trật đả hoàn, đường đen, cho máu tan mau”. Chừng năm phút sau, Chanh đã đứng dậy đi nhúc nhắc được. Anh uống thêm một ngụm rượu thuốc nữa, rót rượu ra khăn để tự bóp hai tay.

- Mụ xã đâu, Cẩn?

- Đang in dấu dép từ đây xuống bến đò, cả dấu giày răng chó nữa. Tụi mình đi chân không ...

Họ dìu Chanh đi chập chững. Cẩn sốt ruột, ghé tấm lưng to khỏe của mình cõng anh luôn.

- Khôn đó. Chỉ còn dấu chân hai người. Đi mau!

Người cao gầy nhặt ngoài hiên một mớ bao tải rách, thả thành một đống bùm xùm, đắp chiếc chiếu rách lên trên cho giống hình người ngủ nằm co trong góc buồng, bước theo ra và bấm ổ khóa.

Họ đi thẳng một hơi qua những đường bờ ruộng, qua nhiều vườn vắng chủ vì đi di dân, hai tiếng sau mới dừng nghỉ trên gò hoang, chỉ có sim, mua, chà là.

- Thoát rồi đó. Chắc bọn kia ngủ tới khi mặt trời xỏ vô mũi, bọn hội đồng tới đánh thức. Chìa khóa đâu anh Muồng?

- Đây. Hồi móc túi thằng Dành, tao run quá. Hễ nó túm được tay, tao tính trối vái nó, kêu túng tiền định mượn anh vài trăm xài đỡ.

Muồng vung tay định ném chìa khóa xuống vũng lầy, nghĩ sao lại đưa cho Chanh:

- Anh Cả giữ làm kỷ niệm. Em là đảng viên đơn tuyến, thằng Cẩn là em con ông chú, đoàn viên bị khai trừ trước Giơ-neo.

- Vì sao?

- Dạ, tội hủ hóa. Vợ nó là bí thơ chi đoàn cũng khai trừ. Hai đứa nó ưng nhau, hai gia đình cũng bằng lòng, mà nghèo không đủ tiền ăn hỏi cưới xin. Có bầu bốn tháng rồi, phải đi vay nợ cưới gấp. Làng xóm chỉ cười năm bảy ngày, nhưng chi đoàn rất găng, chưa cưới mà chửa là ái tình bất chính, Đoàn mất oai tín, đuổi cả hai... Vợ nó tối nay hốt một mớ giày dép cũ đàng sau trụ sở, của tù bị giết hay lính quăng ra, đi in tới in lui từ bến sông tới nhà lao, coi như cộng sản đi nghe rất đông về cứu bác, bắt gọn hai đứa cháu... Chắc bác còn nửa tin nửa ngờ, thôi cứ lên núi cái đã. Bác cứ để nó cõng cho đỡ dấu chân, bác ốm nhom mà nó mạnh như trâu chọi.

Muồng xốc hai cây súng trường 86-93 dài như sào đuổi vịt, Cẩn lại ghé vai cõng Chanh xuống một con suối, chọn được chỗ lội đến ngực. Họ đi men bờ suối một quãng xa cho đứt dấu chân, bất đầu leo dốc theo đường mòn của thợ rừng.

- Súng nổ trống đánh trong làng rồi đó, mặc sức mà tìm. May tụi nó không có chó bẹc-giê. Hết lụt đưa chó lên thì mưa to cũng tan hết mùi.

Chiều ấy, Chanh dẫn họ đến một làng Thượng gần trạm giao liên, vào làng lấy cơm ra cùng ăn, tối vào ngủ ở trạm. Nếu lộ thì trạm dời rất dễ, còn dân Thượng cho cơm là chuyện thường, thương lái hay người chặt củi đốt than đều xin ăn được.

Vài ngày sau, một cơ sở Thượng được phóng xuống xã, về kể:

- Dưới đó rầm rầm. Hội đồng bắt cả nhà hai anh lính, người làng kiện lung tung, nói không biết các ông giết lén hay cộng sản bắt đi. Họ đòi chỉ cái mả, coi cái xác. Họ biểu mấy cái làng dọc sông thấy ba cái xác nổi lên thì kêu gấp họ tới coi mặt thử, coi bị đâm hay bị bắn. Ui cha là rầm rầm!

... Chanh mở mắt choàng dậy. Mới mười giờ, phải đợi. Mà sao tim mình đập ghê quá, như khi bò đến sát hàng rào chờ giờ G. Anh nhấc cái gùi đan bằng mây đã hun khói ngả nâu đen, gùi hai đáy. Anh đặt nó trên đầu gối, tháo đáy dưới. Một khẩu súng ngắn tuột dọc vào bụng anh, kiểu rất lạ.

Đó là khẩu súng săn ba nòng mà anh đã giấu lại trong đáy hàng này, gói chung với cây súng kỵ binh Nhật mà anh giả vờ đem đi nộp khi tập kết, bôi đẫm mỡ, gói nhiều lớp ni-lông và nhét vào một hốc đá khô ráo. Mùa lũ năm ngoái, ông Tư Chua đã đến hang này với cưa, giũa, khoan, sửa cây súng săn theo ý con. Báng súng được cưa trên chỗ eo, vừa đủ cầm một tay. Ba nòng súng được cưa chỉ còn một gang tay, thép tốt làm gãy răng hai lưỡi cưa Mỹ, cùn tới ba lưỡi khoan. Đêm sau ông quay lại, sửa sang cho thật vừa bụng, còn tán thêm một đầu ruồi cho cây súng tuy nó không cần mấy.

- Cả nè, súng cưa nòng nó giật mạnh lắm, để cha bớt thuốc thêm chì cho con dễ bắn.

Chanh đã kiếm được vài chục đạn súng săn của bọn dân vệ và Thanh niên diệt cộng, kèm theo những cây súng săn bắn phát một được gọi là “súng Mã-lai”. Đạn chì chín viên có, đạn bằng hạt mè có, đủ các thứ có thể bắn chết Việt Cộng hay bắn bị thương để bắt sống. Ông Tư chia hai loại đánh dấu riêng, nhồi thêm cho Chanh một chục đạn trường Anh sau khi sấy thuốc súng và hột nổ, còn vuốt kỹ sáp ong cho khỏi ngấm ẩm. Vừa làm, ông vừa hỏi cà rà về đường lối hòa bình của ta, của cả phe ta.

- Mình nói hòa bình, nó cứ binh hỏa. Mình đấu tranh thì nó đánh trâu. Mình ngừng bắn, nó bắn gấp mười hồi xưa. Vậy là sao hả Cả?

Chanh bị khóa họng, không được phép nói sai nghị quyết Trung ương, chỉ gượng gạo:

- Rán đợi ít lâu nữa cha ơi. Nó vi phạm miết rồi ta mới đánh.

- Tới đó thì đảng viên với kháng chiến cũ chết hết! Mày gần cấp trên hơn tao, phải thưa thiệt với Cụ Hồ nghen. Đài mình cứ nói hoài là cách mạng miền Nam đang đi sâu, đang mở rộng khắp nơi, mà tao cứ thấy lần hồi chết, tù, đầu thú, sám hối tố giác lu bù. Thằng Tư Quýt đi học tố cộng ở xã với tao, cằn nhằn cả ngày: “Ông Chanh theo cộng sản thì ở tù ổng chịu, làm cấp to ổng nhờ, tôi làm rèn nuôi cả nhà sao cứ bắt tôi cái tội liên quan cộng sản? Nay mai cộng sản lật ông Diệm, lên nắm quyền, cũng ông Cả Chanh hưởng chớ đâu tới phần tôi? Dân như khúc gỗ lăn tròn...”. Anh em ruột mà nó kêu than vậy đó. Chẳng giấu gì mày, tao nghĩ hễ mày chết hay đi tuốt ra Bắc thì vợ chồng nó mừng hết lớn. Bớt một phần chia gia tài nè, hết liên quan cộng sản nè, đủ thứ...

Chanh nín lặng, chỉ giữ miệng súng xoèn xoẹt. Anh đã gặp quá nhiều gia đình chia năm xẻ bảy, tố giác lẫn nhau, chỉ đau lòng khi mấy anh chị em trong nhà cũng theo cái đà chung ấy. Cơ sở trong văn phòng quận cho biết hai bản tố giác Năm Bưởi rất nặng là của Tư Quýt và Bảy Bòng. Bảy Bòng biết chị đã từng giấu lựu đạn đi lùng mình khi nhảy về tề, nay muốn trả thù còn có lý. Tư Quýt tố giác em gái để kiếm chác gì? Trút tội liên quan cộng sản, hay cố thu góp gia tài?

Đạn súng săn đã được bớt thuốc, tăng thêm chì vụn.

- Anh!

Chanh giật mình ngửng lên, tay vẫn cầm súng.

Trong ánh lửa bếp chập chờn, anh ngây người nhìn Thùy. Vợ anh đứng bên ngoài tấm liếp che, mặt tái nhợt, run rẩy, miệng cười như mếu. Anh bước ra đón cũng vừa lúc Thùy thả rơi cái bao vác vai, ngồi thụp xuống. Anh dìu Thùy vào hang, che lại liếp, và chợt nhớ phải quấn chiếc khố che râu cằm. Thùy úp mặt trên hai đầu gối anh, bật khóc hu hu.

Cô Tơ-bon vào sau, đặt cái gùi rất nặng xuống theo lối người Thượng: ngồi bệt xuống đất, cởi quai gùi sau. Cô kể vội:

- Chị Hai sợ anh đi một mình, không nổi cõng. Em biểu có gì cứ đem, anh Cả có giao liên cõng giùm, lấy người làng tốt cõng đồ cũng được. Bây giờ em đi gác ngoài kia.

- Tơ-bon, hay em về làng?

- Tụi nó hay phục kích đêm, khó về. Đợi mặt trời lên cao cao, em vác củi vô, nó không nghi. Em ra ngồi núp gần đường, có chi em vô báo. Tới ba giờ, anh ra tróc lưỡi ha tiếng kêu em.

Chanh lục vội trong gùi, ném cho cô bé chiếc võng ni-lông dầu màu xanh lá cây, tấm dồ Thượng để đắp. Đợi cô ra khuất, anh đưa hai tay nâng khuôn mặt đẫm nước mắt của Thùy. Tuổi nhích khỏi ba mươi, trải bấy nhiêu khốn khổ mà Thùy vẫn đẹp, vẫn được coi như hoa khôi của làng Linh Lâm, vẫn thu hồn bọn quan và lính đến tiệm may ngồi tán tỉnh. Trai làng không dám quấy nhiễu vì sợ oai ông Cả Chanh, chỉ có đám từ xa đến dám buông lòi chọc ghẹo.

Thùy bỗng mở to mắt, chồm tới ôm ghì chồng, truyền cho anh những tiếng nấc cố nén trong ngực, nói dồn dập:

- Xôi còn nóng, anh ăn đi... Nghe anh bị bắt, em muốn phát điên quá... cởi áo em coi có chỗ nào bị thương... Sao anh toàn là xương với da, chắc quá đói... Đau bao tử nữa không anh... Thuốc sốt rét hết chưa?

Thùy hỏi đến ríu lưỡi mà không cần trả lời. Rồi chị liếc nhìn ra cửa hang, thong thả cởi áo, phơi bộ ngực trần nở nang, trắng muốt:

- Để dành miết cho anh đó. Muốn coi vết sẹo cũ không?

Chanh ghé môi hôn vết mổ ruột thừa, kỷ niệm một cơn đau chết người hồi Kháng chiến. Làn da đàn bà thơm mát khiến anh choáng váng. Anh quên bẵng lời tự hứa lần này sẽ không đưa tai họa vào bụng vợ, có chửa bảy tám tháng vẫn bị bọn tề đánh cho sẩy thai. Anh chỉ đủ tỉnh táo để hỏi gượng một câu cuối:

- Em có thuốc ngừa... ấy không?

- Có, uống rồi...

Ông Tư giụi cây đuốc sặt cho sáng hơn, gọi Chanh đi vào đáy hang sâu. Ông chọn chỗ vách đá phẳng nhất, bắn liền hai phát vào hai chỗ, lại ngắm một phiến đá xa hơn bắn một phát trường Anh. Ông soi xem dấu đạn, gật gù: phát đầu lắp đạn ria vào nòng có khương tuyến, ra khỏi súng cách sáu thước đã xòe rộng bằng cái nong. Phát nhì lắp chín viên chì, chỉ chụm bằng cái đĩa. Phát thứ ba giật rất mạnh, súng muốn văng khỏi tay, đầu đạn súng trường phá vỡ đá và trượt réo trên vòm hang. Lại phải bớt thuốc trong những đạn trường Anh, thêm mã tử.

Ông Tư vừa làm vừa hỏi cà rà:

- Cán bộ huyện cấm đeo súng, dao găm cũng cấm, sao mày làm khác hả con?

- Con đi rừng núi tứ xứ, gặp con beo trăn gấu, phải giữ thân chớ!

- Phải. Giả dụ gặp bọn dân vệ hay dân canh, mày bắn không?

- Cũng tùy từng khi...

Về sau, Chanh đưa anh Tô Xáng xem khẩu súng dưới đáy gùi. Anh Xáng tần ngần hồi lâu mới thấp giọng:

- Phó bí thư tỉnh ủy nổ súng, anh em mình nổ theo hết...

- Ừ, chà... một thằng dân canh quật ngang chân một gậy, đem phó bí thư về lãnh vài chục ngàn tiền thưởng, sướng quá đi chớ... Hay là cái mạng tôi rẻ hơn một vết thương trên mình bọn chống cộng?

- Thì ý tao là mình theo đường lối hòa bình... phải gương mẫu...

- Phải. Một phát súng có thể gây ra đại chiến thế giới thứ ba, tôi nghe hoài hoài. Còn Mỹ-Diệm bắn một triệu phát thì chẳng sao hết. Anh cứ việc khai trừ tôi, tôi về ở với dân Thượng cũng được.

Chanh sừng sộ hẳn trong khi anh Xáng ôm đầu. Lát sau hai người thỏa thuận: Chanh cứ giữ súng nhưng đừng cho ai biết, chỉ bắn khi bị vây bắt, và phải nói đúng nghị quyết đấu tranh chính trị của Đảng.

- Tôi không bướng đâu, anh Xáng. Anh coi lại thử Đảng bộ tỉnh mình lớp chết, lớp đi tù Côn Sơn, lớp ra đầu thú, sót lại bao nhiêu đồng chí? Anh không áy náy gì sao?

Tô Xáng lặng im. Cả tỉnh có một máy thu phát bằng mật mã liên lạc với Trung ương, anh đã đưa xem các bức điện báo động đánh ra Hà Nội, nhưng chưa hề nhận được một câu trả lời nào cho phép dùng võ khí để tự vệ. Anh đánh vật với chính mình trong những đêm thao thức, nhất là khi đọc báo cáo các huyện gửi về, hay khi Thường vụ tỉnh ủy phải ra nghị quyết cấm nạn dịch tự sát trong đảng viên.

- Phải giữ gìn gì không em... Thùy ơi!

- Tự do đi anh... vợ gặp chồng còn giữ quái gì...

Cả hai chìm hẳn vào cơn mê loạn, trong khi bếp lửa lụi dần và tắt ngọn.