Chương 3
Mãi gần mười hai giờ đêm, cả đoàn xe Gip kéo theo một chuỗi xe Hon-đa, Vet-xpa mới ập đến khu nhà sĩ quan được rào riêng trong trại gia binh. Tên quân cảnh đang gật gà trong chòi gác choàng tỉnh dậy. Hắn chộp cây tiểu liên và chiếc đèn pin dài bằng dùi cui cảnh sát, vọt ra cổng, kêu lớn:
- Quá giờ giới nghiêm, không được vô!
Một bàn tay thò ra khỏi chiếc xe Gip dần dần, tát bốp vào mặt hắn:
- Mày đui hả? Soi thử biết mặt đại tá không? Mở!
Luồng sáng đèn pin chiếu đúng bộ mặt sệ mỡ của đại tá sư đoàn trưởng. Hắn rập chân chào kính, hối hả chạy vào mở khóa cổng. Đại tá khoát tay đầy khoan dung:
- Khen mi đó. Ai muốn vô, mi cứ làm rứa cho tao. Việt Cộng giả làm sĩ quan còn phải coi giấy nữa chớ.
Đoàn xe bốn bánh và hai bánh luồn lách qua mấy chỗ rẽ lắt léo nữa mới đến căn nhà được chia cho thiếu tá Ung Viết Khánh, nhận lon lên khỏi cấp đại uý từ sáng hôm qua. Sau khi xem một lượt ba buồng cùng các thứ bếp núc và vệ sinh, đại tá lắc đầu nhiều lần:
- Tồi quá. Tụi nó xếp thiếu tá chưa xôm đâu. Hay là toa vô phi trường ở với moa, xây luôn một vi-la trong đó?
- Trình đại tá, em còn độc thân, ở bấy nhiêu là vừa.
Đại tá bật cười to, làm nẩy bật cả ba lớp cằm, khúc cổ đầy mỡ, cái bụng to vượt mặt:
- Ấy đấy, biết, tớ biết. Có ai thêm bận vì ai, không ai giường rộng chiếu dài dễ xoay... Cậu tha hồ bồ bịch, mươi ngày nửa tháng lại thay một ả mèo mới trong cái tổ quỷ của cậu, chẳng sợ ai đánh ghen hay xịt a-xít vào mặt các nàng được chọn... Chúc cậu may mắn hơn chúng tớ!
Nhóm sĩ quan cười như chợ vỡ. Ngài đại tá gốc Bùi Chu này đã Nam hóa khá nhanh sau khi đứng về phía Ngô tổng thống, cầm quân đánh bọn Bình Xuyên và các giáo phái thân Pháp ở Nam phần đánh tiếp lũ quân ô hợp của Quốc dân đảng ở Nam Ngãi, của Đại Việt ở Trị Thiên. Chỉ trong hơn ba năm, lão nhảy vọt từ đại úy lên đại tá ngon ơ. Phải cái lão ít được học, nhờ đại úy Khánh dạy thêm tiếng Anh ban đêm khá lâu mà chỉ đủ để nói mấy tiếng Anh bồi với các cô chiêu đãi viên trong tiệm rượu.
Đám khách không mời mà đến đã ra đi trong tiếng xe cùng một lần nổ máy rầm rĩ. Thiếu tá Khánh lảo đảo đi vào buồng vệ sinh, nôn ọe suốt mười phút, trở ra lăn kềnh trên giường ngủ. Cuộc khao vinh thăng lên thiếu tá vừa rồi sẽ phải trả giá đắt đây. Mạnh ai nấy gọi, uýt-ki, sâm-banh, vốt-ca Nga, chian-ti Ý, cô-nhắc Pháp, cả rượu đế lậu chánh hiệu Việt Nam, mọi thứ đều có đủ và đều tính giá gấp đôi gấp ba giá chợ Đà Nẵng.
Hai Khánh mặc nguyên bộ lễ phục trắng mang đủ các thứ lon, dây biểu chương lòng thòng, huy chương và huy hiệu, lăn trên giường phủ vải trắng, chỉ vất bất bớt cái mũ lưỡi trai cồm cộm trên đầu, lịm đi rất nhanh trong vô vàn cơn mê xuôi ngược chẳng nhớ nổi sau khi tỉnh dậy.
-.... Trình thiếu tá... mười hai giờ trưa rồi...
- Hừ, cút mẹ mày đi. Tao mệt.
Dường như chỉ một phút sau, thằng lính chó má đã gọi tiếp:
- Trình thiếu tá, đã hai giờ chiều. Có một người đàn bà dẫn một đứa nhỏ tới nói là con đẻ của thiếu tá. Em biểu ngồi chỗ buồng khách, đợi lệnh thiếu tá. Hễ cần thì em đuổi ra.
- Để đó cho tao, ra gác đi... À mà mày coi giấy soát đồ nó chưa?
- Dạ, em làm kỹ hết cỡ. Nó là Phan Thị Bưởi, không có thứ gì bậy bạ. Thằng nhỏ là Phan Chung, mặt nó giống quá...hề hề...
Mươi phút sau, Khánh bước ra phòng khách với bộ mặt bừ bự đờ đẫn của người ra khỏi cơn say, vẫn mặc bộ lễ phục hơi nhàu sau giấc ngủ.
Năm Bưởi ngồi trên ghế bành, trong khi thằng bé Chung chạy loăng quăng xem các tranh khỏa thân cùng các ảnh đào xi-nê hở hang trên tường, cười rinh rích. Bưởi hơi nhỏm dậy, lại ngồi xuống, nói lạnh ngắt:
- Chào anh. Tôi mới ra khỏi tù, về Linh Lâm, thấy cả nhà quá khổ cực. Chị Thùy cho coi lá thơ, thơ thứ mấy chẳng nhớ, anh muốn đòi thằng Chung về cho anh nuôi. Thân tôi bị bắt lên bắt xuống, tra đánh nhừ xương, hai đứa con tròng vô cổ cha mẹ với chị Thùy, còn thêm lâu lâu đi thăm nuôi con Bưởi nữa, mỗi lần đi là một lần lót tay mấy trăm... Tôi mệt rồi, ngán quá rồi. Tôi đem thằng Chung cho anh đó. Chẳng đòi anh trả xu nào đâu, đừng sợ.
Bưởi nấc nhẹ trong họng, cố nén một lúc, lại nói qua hai bàn tay bưng mặt:
- Tôi xin anh, tôi lạy anh trăm lạy... anh đừng để thằng Chung nó hư hỏng, nó mang nợ máu, nó chửi cả ông bà nó... Bấy nhiêu thôi, tôi chắp tay van anh... anh thương nó...
Hai Khánh duỗi hai tay đón đứa con đã bao năm ám ảnh mình. Nhưng nó không sà vào tay anh. Nó đưa một bông lay-ơn vừa rút trong bình hoa cho mẹ, hỏi đột ngột:
- Răng Thùy không đi hả mẹ? Về đi mẹ, về chơi với con Binh, con Lúa. Con cũng phải học để lên lớp chớ mẹ!
Bưởi cười như mếu:
- Con Bình là con chị Thùy, đứa trước chết bom, anh biết rồi. Con Lúa lên ba là con anh Năm Chò với tôi. Thằng Chung, lấy họ Phan của tôi, giờ anh muốn nuôi thì khai sanh lại, tùy ý anh. Chị Thùy cực hết chỗ nói mà tối nào cũng dạy cho nó biết chữ, rồi cho đi học trường làng, hồi xưa kêu là lớp Hai, nay đặt lại là lớp Tư tiểu học...
Hai Khánh nghe kể lơ đãng, chỉ nhìn kỹ bộ mặt hốc hác và xanh bủng của Năm Bưởi sau gần bốn năm tù không án, với tất cả những vết roi hằn chưa lành hẳn, thêm chi chít những nốt đốt của muỗi và rệp xà-lim không kịp tan.
- Cả nhà tôi muốn nhắn anh điều này nữa: anh đừng theo đuổi chị Thùy mà mất thì giờ vô ích!
Khánh cảm thấy mặt mình nóng rực, nói ấp úng:
- Ai đồn lung tung vậy?
- Cả làng Linh Lâm đồn. Anh giấu uổng công, theo đuổi cũng uổng công, làm phiền cả nhà tôi uổng công. Anh dùng quyền phép uổng công. Có tra điện mười lần, cho đi tàu bay tàu lặn tới mấy, chị thà cắn lưỡi chết, treo cổ chết, nhịn đói chết, chớ không chịu ký giấy ly hôn đâu, không, không, không gì hết... Tôi nói vậy để anh đừng tưởng cái lon thiếu tá mới vinh thăng là to lắm. Giấy tờ của thằng Chung đủ hết trong gói đồ tôi đem tới đây. Chị Thùy may đủ cho nó mặc ở tuổi lên chín, lên mười, anh khỏi lo... Nó chạy ra vườn rồi. Tôi đi lén cho nó khỏi khóc lăn lộn...
Giọng Năm Bưởi vỡ ra khi nói mấy tiếng cuối cùng qua cặp môi run rẩy và bộ mặt không chút máu. Bưởi chạy ra cổng như người bị ma đuổi, nhảy vội lên chiếc xích-lô máy chợt đi qua, úp mặt vào bên vai, cả người rung giật trong tiếng nấc. Khánh chỉ ngây người nhìn theo. Vài phút sau, thằng Chung chạy vào phòng khách, lập tức gào lên đòi mẹ, đòi mẹ Thùy (không phải mẹ Xùi) lật mình như điên trên tấm nhựa mô-két trải thay thảm cho dễ cọ rửa:
- Cháu hổng ở với chú… Cháu về với mẹ Thùy, mẹ Bưởi, với em... Chú Khánh bỏ tù mẹ cháu rồi, mẹ cháu bị tù lâu rồi, o Thùy dạy cháu học, chắc cũng bị chú bỏ tù... Chú thiệt là ác, chú bỏ tù hết thảy... Cháu cũng vô tù... Răng chú ưng bỏ tù cả nhà cháu rứa?
- Chung ơi, con ơi, con đừng ghét ba quá vậy đi con!
Có một điều Năm Bưởi không muốn nói với Khánh, là mấy năm ve vãn chị Hai Thùy đã gây rối trong gia đình Bưởi khá nhiều.
Ông Tư đưa lò rèn về Chỗ Hai Thùy. Sau khi ta tập kết và sau vô vàn lớp “cải huấn” trong các chiến dịch trị an, chiến dịch tố cộng đợt một, hai ba, tiếp chiến dịch tố cộng giai đoạn hai nay chưa chấm dứt, nay ông biến thành một ông lão hầu như câm điếc và bắt đầu lẩm cẩm tuy chưa đến tuổi sáu mươi. Lắm lúc ông để mặc cho sắt nung trắng trong lò, ngồi ngây ra máy môi nói gì trong miệng với ai đó chẳng rõ, đến khi người thụt bễ giục to tiếng mới giật mình, thò cây kìm cán dài vào đống than đỏ rực. Chắc tại ông bị tra tấn và chịu đòn quá nhiều nên đầu óc đâm rối. Ông dửng dưng khi người làng nói xa gần về những lần Hai Khánh về thăm thằng con bị bỏ rơi nhưng lại ngồi từng buổi từng ngày bên máy may của Thùy. “Nó ngồi chai đít nó mặc kệ, tao ngồi rèn cũng chai đít thì sao?”.
Ngược lại, bà Tư lồng lên như ngựa chứng. Vốn là cái bóng của chồng, nay bà muốn trút tất cả máu uất lên đầu nàng dâu trưởng. Lại thêm vợ chồng Tư Quýt mỗi ngày mươi lượt rót vào tai bà những lời xúc xiểm. Bà coi như Thùy đã phản chồng-chưa phản hẳn thì về sau cũng trở mặt-bỏ thằng Cả Chanh để theo thằng Khánh. Cứ rao trước, chửi trước đi là vừa. Bà đã giận từ xưa, khi Chanh với Cam mỗi người một gánh đưa cô nàng dâu loạn trí về Linh Lâm: nó để cháu nội bà chết bom, rồi giả điên cho chồng nó phải bỏ nghề bỏ chức mà hầu hạ nó. Suốt chục năm qua, Thùy lành bệnh và đạp máy hùng hục từ gà gáy đến khuya kiếm tiền nuôi sáu miệng ăn, bà chỉ coi là phận làm dâu ắt phải vậy. Từng lúc, khi bà quá lời hoặc quá ồn ào, ông Tư hay Út Thanh Yên phải can, thằng Bảy Bòng trung sĩ ghé qua nhà cũng phát gắt.
Thằng Ba Mít trở cờ theo “quốc gia” cho bà biết cả nhà Hai Thùy theo đạo Thiên chúa. Khi bà hỏi dò, Thùy kể thật ngày xưa Thùy là An-na, ông Hai Rề là Phê-rô, chỉ là chuyện xưa bày nay bắt chước. À, à, à, quá rõ rồi. Hèn gì cả nhà bà bị tù đày, cô lập, cải huấn, nhảy núi, sống nay chết mai, chỉ riêng cái con theo đạo Tây từ bỏ ông bà là yên thân, chỉ bị gọi đi học tố cộng mỗi đợt vài ba tối ở ngay trong làng. Bà quên rằng Thùy lo kiếm ăn đến phờ phạc, trên rẫy ruộng và trên bàn máy, không hề dính tới một chức gì ở thôn xã hồi Kháng chiến, nhưng vẫn bị giam mấy đợt vì tội không chịu ký ly hôn. Đòn tra không nhiều lắm, vì hầu hết những ai có chồng tập kết hay “lên xanh” đều chống cự như chị, đánh cả tháng chưa khắp lượt. Làm cho chị chửa hoang để dứt tình với cộng sản cũng chẳng dễ, chị sẽ la hét vang xóm, và mũi súng của Cả Chanh cùng Bảy Bòng sẽ chĩa tới từ hai phía ngược nhau.
Chẳng cần hỏi ông Tư, như muốn tỏ ra mình hất bỏ cái gánh phu xướng phụ tùy, bà lẳng lặng xuống ngôi chùa gần chợ Huề Bình xin quy y tam bảo, nộp tiền vượt mức để rước về một lá cờ Phật năm màu, một thẻ đi chùa, một tờ phái trong khung gỗ lồng kính, một bộ Nghi thức tụng niệm in chữ to dành cho người cao tuổi, nhân tiện mua một cặp kính lão thay cho cặp cũ nhẹ độ. Lần sau bà sắm thêm một bộ chuông mõ, nộp nguyệt phí và tiền công đức, tốn tất cả một con heo choai chừng hai chục ký.
Những bản kinh tiếng ta bà đọc được, hồi Kháng chiến học Bình dân chưa quên hết. Kinh Hán-Việt khó hơn, bà hiểu rất ít. Đến những kinh bằng tiếng Tây trúc thì bà đếm từng chữ chật vật, tiếng mõ thưa hẳn đi như ngái ngủ:
-... A lị gia bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da...
-... Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà la ny đế, ny ha ra đế, tỳ lê nễ dế, ma ha dà đế, chơn lăng càn đế, ta bà ha....
Bà không sao thuộc được những chơn ngôn với thần chú từ chín phương trời, mười phương phật ban xuống cõi trần. Bà chỉ ghi lòng một điều: theo đạo Chúa thì vứt bỏ ông bà cha mẹ, theo đạo Chùa thì giữ được ông bà cha mẹ. Chánh phủ bây giờ ghép tội những ai không theo đạo nào cả-như ông Tư chồng bà-là chống cái món duy linh gì đó của tổng thống, là theo bọn cộng sản duy vật, theo bọn “vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo thần linh”, trong đó Cả Chanh hay được chúng nêu tên trong các lớp tố cộng. Bà tức tím ruột mà cãi không nổi với đám đầy tớ thằng Diệm.
Thôi đành, để được yên thân, bà phải theo cái đạo nào hiền lành nhất, chứ không chịu nhận cái “thập ác”, như các ông già bà lão thường rỉ tai nhau: phải làm đủ chục điều ác mới được lên thiên đàng. Tính lui tới, bà Tư thấy tiền cúng chùa khá nặng, trong khi chịu rửa tội theo Chúa thì được cấp ngay vài chục ký gạo, tiền khoảng một ngàn, sa vào vụ rắc rối nào thì cha cố xin tha cho, tổng thống Diệm cũng phải quỳ xưng tội với các cha. Đi đạo kiếm gạo mà ăn...
Bà tự hứa sẽ không bốc đồng, tin gì cũng một vừa hai phải thôi. Cũng như cha con ông Hai Rề thờ Chúa chơi chơi vậy.
Buổi chiều cuối hè ấy, mưa đổ rào từng cơn ngắn lại tạnh trên sông Linh, lúc này đang đón nước nguồn từ vùng núi Ngọc Linh nằm chìm trong làn khói núi màu tím nhạt phủ trùm mé Tây-nam làng Linh Lâm. Nước đến trước, mưa đến muộn hơn, cho tới khi hai tháng lũ lụt chín và mười theo lịch âm gây tràn ngập tất cả. Mùa ấy chưa đến.
Một người đàn bà bước xuống khỏi xe đò đậu tại chợ Linh Lâm, thất thểu đi về xóm Mới. Hàng chục người gặp chị dọc đường, chỉ vài ba người nhận ra cô Năm Bưởi chỉ huy du kích từ hồi Việt Minh đang trong bóng tối. Nhưng tất cả đều biết chị ta mới ở tù ra, khi thấy nước da bủng beo và những nốt đỏ hay nâu trên mặt, trên cổ. Vài bà kín đáo giúi tiền vào tay chị. Chị gật đầu cảm ơn, giúi trả. Vẫn với bước đi như ma lạc mồ, chị về chỗ lò rèn ông Tư Chua nằm cạnh tiệm may của Hai Thùy.
Lò ông Tư đã dứt buổi rèn. Ông đang ngồi trên chiếc đòn kê thấp, tiếp chuyện một lính ngụy mặc đồ ka-ki vàng của lính Bảo an. Khi hắn quay lại nhìn chị trân trố, chị mới nhận ra hắn là thằng Bảy Bòng em ruột, tuy nó đổi nước da đen trũi và to béo hơn hẳn trước. Giọng nó vồn vã:
- Tôi làm găng hết cỡ, họ mới chịu thả chị về đó nghen. Tôi dứt khoát không nhận chức cảnh sát trưởng xã Tây Giang, chừng nào chị tôi còn ở tù, nhà tôi treo bảng cô lập hạng A... Họ đưa tôi lên thượng sĩ Bảo an, mới đây thôi, nhà mình khỏi bị quấy rầy, lôi thôi gì cứ để tôi lo hết, đừng ngại...
Cái giọng che chở ấy dường như gây buồn nôn cho Năm Bưởi với ông Tư Chua. Ông Tư ậm ờ trong miệng không rõ tiếng, đúng kiểu “thủ khẩu như bình” trong những đêm quỳ sám hối trước hình Diệm lồng trong gươm súng-từ quỳ nền nhà tới quỳ trên sỏi, trên gai mít, quỳ dang hai tay đỡ hai viên gạch, quỳ theo đèn sáp thắp nối nhau có khi tới bốn đèn, ai lăn ra ngã ngất thì được lôi ra ném vào thùng phuy đầy nước cho tỉnh, chết ngạt thì kêu người nhà tới lãnh xác đem chôn nhưng cấm quần tam tụ ngũ làm đám ma.
Năm Bưởi không ngậm miệng. Ngót bốn năm tù không án và đứa con vừa đem đi trả đã khiến chị muốn nổi khùng, sẵn sàng thí mạng. Chị gằn giọng:
- Cũng cái vụ tôi ra tù, nhà mình xuống loại B, mà lu bù người xưng là công lao mình… Ông phủ Đỉnh nè, ông đại diện xã là Ba Mít nè, ông thiếu tá Hai Khánh nè (chỗ ấy chị buột miệng nói thêm vào), bây giờ tới cậu cũng kể ơn nữa. Nhiều ơn quá, nhà mình trả sao cho xiết?
- Chị muốn dứt hết tình nghĩa à? Cứ giở cái giọng bà Năm Nhím xách giỏ lựu đạn đi tìm thằng Bảy Bòng trốn theo Tây! Đừng cãi, tôi biết hết. Chị không giết được tôi, chắc là tiếc lắm hè. Giờ chị tính sao đây? Tôi làm cảnh sát trưởng xã Tây Giang, nắm quyền sanh sát mấy ngàn dân, thằng Ba Mít sợ tôi bằng sợ cọp, chị muốn giết tôi nữa không? Nói thử?
Đến đấy, ông Tư Chua mới cất tiếng gắt to:
- Thằng Bảy, mấy lâu mới gặp chị mày ra tù, mày gây gổ quá rồi đó. Tao thương ai ghét ai, để dành trong bụng hết, tụi nó ăn gan cắt mật kệ cha cố tổ nó, chị mày cũng vậy thôi. Mày tính rạch bụng tao hay chị Năm mày, cứ làm đây luôn cho thiên hạ thấy!
Ông Tư vén áo, vạch bụng, ngửa đầu ra sau, đưa tay vuốt chòm râu thưa và khìn khịt trong mũi.
Bảy Bòng ngẩn mặt nhìn cha, nhìn chị Bưởi. Cuộc vinh quy bái tổ của hắn khi nhậm chức cảnh sát trưởng coi như nát bét. Hắn nặng nề đứng lên, lắc vai, úp mũ vải lên đầu, vẫn chưa tìm ra câu đáp nào xứng ý. Hắn đã đem tiền về giúp chị Hai Thùy và biết một phần tiền ấy sẽ tuồn sang anh Cả Chanh đang lẩn lút trên núi... Hắn thật tình thương anh Cả và chị Thùy, mà vẫn ghét vợ chồng Tư Quýt với Ba Song, nuôi thù oán với chị Năm Bưởi, và đạo làm con vẫn buộc hắn không được để ông cha vô thần với bà mẹ thờ Phật quá khốn khổ... Nhưng dường như cả nhà hùa nhau tẩy chay hắn, ghê tởm hắn như đứa mắc dịch. Tại sao? Tại sao? Hắn phải làm gì cho cả làng đỡ xa lánh?
Bảy Bòng ra đi một lát, Út Thanh Yên mới đến dòm qua cửa. Nó chạy nhào tới ôm chị Năm, nghẹn lời rất lâu mới thốt được:
- Coi chị như ma chết trôi mới vớt... Thằng Chung chịu ở với ông kia không? Nó đi mới mấy ngày mà em nhớ quá đi chị, bồng nó từ nhỏ tới giờ, thương hết chỗ thương... Thôi chị đừng rầu, nghỉ đi, cắt thuốc bắc uống cho lại người, còn phải nuôi con Lúa nữa chớ... phải đợi anh Năm Chò về, sanh thêm một chùm con với chị...
Bưởi nín lặng, chỉ vuốt tóc em gái. Thanh Yên buông chị, lau mắt vội, cười gượng qua môi run run:
- Chắc chị thấy lạ. Làng mình bây giờ khác lắm chị. Một phần ba mắc học tố cộng với ở tù, một phần ba lo đi xâu công ích với cộng đồng kiến thiết, còn lại một phần ba làm lụng nuôi mấy phần kia. Thứ gì cũng sẵn, chỉ có đồng tiền quá thiếu, thành ra đi thăm nuôi chị ở nhà lao chẳng có gì ra hồn. Chị Ba Song làm giàu tới tới, mà sợ dây dính với cộng sản, đi nhờ ghe nhà chị phải năn nỉ miết... Cực nhứt là chị Hai Thùy...
Sau đêm sống với chồng trong “Hang nổ”, Thùy nơm nớp chờ tai họa cùng hạnh phúc trút xuống đầu mình. Thùy muốn được thêm một đứa con, con trai càng hay, chị Bình nó sẽ trông em. Nhưng bọn nắm quyền kia hung ác quá chừng, hễ không khai ra có chửa với ai thì chúng đánh chết cả mẹ lẫn con.
Nhân dịp nhà được lột bảng cô lập, xuống hạng B, được phép đi lại trong xã, Thùy đến chợ Huề Bình xin toa thuốc ngừa thai. Mấy chị quen thân lại rỉ tai: “Đừng uống thuốc của ổng. Ông theo đạo Cao Đài, hay thứ gì đó, thò một con mắt, ổng cho thuốc “giải thương” tức là dưỡng thai chớ không cho phá, sợ tội sát sanh. Thôi chịu mất tiền, tìm ông khác”.
Sau đó, Thùy vừa mừng vừa đau lòng khi kinh nguyệt lại ra. “Khốn khổ, em muốn có con với anh, mà sợ có con. Sao vợ chồng mình cực nhục tới dữ vậy anh? Bao giờ hai đứa mình mới yên ổn?”
Rất nhiều đêm, Thùy đã ôm ghì con Bình đang ngủ say, trằn trọc nhai cắn cái gối nhồi bông gòn, thầm thì nói chuyện với anh Chanh vắng mặt liên miên sau ngày cưới-luôn luôn chạy theo việc hỏa xa, tiếp đi qua Lào, nay nằm rừng ngủ núi với cái đầu được bọn địch treo giải năm chục ngàn đồng. Chị biết rõ, tụi nó để chị yên làm con tin, làm đầu mối dây khi chồng kiệt sức chịu ra hàng “chánh nghĩa quốc gia”. Quá rõ là anh thà chết không hàng. Nhưng anh có tin những lời bôi xấu của vợ chồng Tư Quýt với cơn lũ nguyền rủa của bà mẹ chồng khắc nghiệt trút vào em không, anh yêu quý nhất của em? Hễ anh tin, em không sống nổi thêm một ngày nữa, em chỉ nhảy xuống thác sông Linh là xong. Mà thiệt tình cũng chẳng xong đâu. Cái bọn ác ý độc miệng sẽ nói: “Chị ta chửa hoang với Hai Khánh, bị ông ta bỏ rơi như Năm Bưởi hồi trước, hết đường lui tới...”. Em năn nỉ anh cho em lên núi rừng với anh, nhưng bị gánh nặng cả nhà anh níu lại. Ai nuôi lũ con nít? Ai phụng dưỡng cha mẹ anh đang mỗi năm một xuống sức? Ai dành dụm từng đồng để sắm áo quần thuốc men gửi xuống nhà tù Hội An cho Năm Bưởi-gửi theo các bà các chị loại B hay C, có người nhà cùng bị giam ở đấy, chứ con đò dọc của nhà chị Ba Song vẫn lên xuống liên miên mà không nhận chuyển quà...
Còn một chút may mắn, là lò rèn ông Tư với bàn máy của Thùy, dù vướng cái bảng cô lập, vẫn còn đủ việc làm. Bọn Ba Mít và tay chân biết dân làng lui tới để rèn và may ở đấy, cũng làm ngơ đi, một phần để vét tiền thuế cứ leo thang lên mãi, phần khác cũng có cái gì đó sờ sợ, nể nể đối với gia đình “cộng sản nòi”, lại ăn ở được lòng dân xưa nay.
Sau đình chiến, công nhân quân giới cùng gia đình họ rút đi hết, lớp đi tập kết, lớp trở về quê làm ăn, bỏ lại nhiều đất khai hoang ở ven sông và trên các gò thấp, có cả ruộng bậc thang tưới bằng nước suối. Đồn điền La-phạt từ lâu đã thành đồi tranh và lau lách, chỉ lấp ló những chòm cây cà-phê và chè tàn lụi. Các chủ cũ chưa mò về được, vì khắp vùng này đang lâm vào “cái nạn Tam quốc” như các cụ ở Linh Lâm thường gọi.
Nhân khi phe thân Mỹ đánh phe thân Pháp ở Sài Gòn, bọn Quốc dân đảng ở Tây Quảng định phỗng tay trên bọn Diệm, dựng lên bộ máy cầm quyền, giống như mấy huyện khác ở Quảng Nam. Mới kiếm được một ít súng hạng bét, chúng đã hối hả ra oai bằng cách “xối máu cộng sản”, trả thù cả những người không dính tới cộng sản hay kháng chiến. Rồi Diệm hất luôn Bảo Đại trong cuộc “trưng cầu dân ý” có mật vụ hốt phiếu bỏ vào thùng, ai làm khác lời dặn “xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ thùng” lập tức bị bắt khi ra khỏi chỗ bầu cử. Quốc dân đảng rầm rộ ra tuyên ngôn “ly khai phe thằng Diệm”, vét gạo tiền của dần để lập chiến khu chống Diệm và chống Cộng, bắt đầu tập đánh du kích.
Quân Diệm kéo lên vùng ven núi, còn bỡ ngỡ nên cố lấy lòng dân, định đánh Quốc dân đảng trước rồi diệt Cộng sau. Cộng sản đã rút đi hầu hết, nhưng vẫn nắm được dân “vùng đỏ” này, phải mất nhiều năm mới tẩy não được. Bọn Việt quốc bị dân căm ghét, tránh như tránh tà, lần hồi kéo nhau ra hàng cả.
Người dân vui mừng không lâu. Nhũng tên ác ôn nhất trong Việt quốc lại được phe Diệm dùng lại, phong chức, có khi thăng chức nữa, mở đầu giai đoạn tố cộng. Chỉ có thay đổi tí chút: huyện thành quận, chủ tịch xã gọi là đại diện, tên xã Linh Giang sửa ra Tây Giang, còn sự hung dữ thì tăng chứ không giảm.
Đến đấy, hai người cùng quê Linh Lâm trở về làng: ông phủ Đỉnh và Hùng Minh tức Ba Mít.
Ông phủ theo Việt quốc từ lâu khôn hơn bọn trẻ rất nhiều, không dính vào vụ ly khai và lập chiến khu, chỉ đi tuột vào Sài Gòn để móc nối với đám quan Nam triều cũ đã rời Pháp để bám Mỹ. Nhờ thần thế và công lao chống cộng, ông ngoi lên quận trưởng, gần đây lên tỉnh phó. Để học theo cụ Ngô, ông cạo bộ râu cụ tú, chỉ chừa tí ria mép gọi là, mặc thay đổi âu phục và quốc phục, nộp lễ mừng rất hậu hĩ cho ông Cố Trầu Ngô Đình Cẩn. Cũng như xưa, ông đi khắp làng chào hỏi niềm nở, nhắc lại mãi: “Thời buổi nào, chế độ nào thì dân vẫn là dân, có chánh phủ nào sống không dân được đâu!”.
Ba Mít được đi tập kết nhưng lén ở lại, sau mấy lần hầu chuyện “ngài quận trưởng”, được ông phủ dùng làm đứa sai vặt trong quận, ông thí cho đồng nào hay đồng nấy, chỉ đủ cho hắn sống cầm hơi. Ông còn bấm riêng Bảy Suyền, kẻ nắm mối liên lạc giữa ông với đám cầm đầu Việt quốc trong các thành phố bị Pháp chiếm, nay được Diệm dùng làm cán bộ tố cộng loại kha khá trong tỉnh:
- Cháu nắm cổ thằng Ba Mít, cho nếm mùi khai thác trong lớp tố cộng loại A để nó biết thân biết phận. Thằng đó như con lươn, ai sài nó cũng bị tuột khỏi tay, nay mai Việt Cộng gây rối hay là quân Bắc Việt đánh vô là nó phản mình tức thì!
Hai Khánh dạo ấy chưa ra ở nhà thuê riêng, cũng chưa nhận vào quân đội Diệm, có mặt khi ông phủ nói thế. Anh thấy phải can ông phủ:
- Ba không tin nó thì tống cổ nó đi, bắt ăn đòn tố cộng làm gì?
Ông phủ đáp ngọt ngào:
- Thằng Mít là con chó, bỏ chủ Việt Minh chạy về với ta. Giống chó quen ăn cứt, dơ thiệt đó, có điều muốn săn thú phải dùng chó, muốn giữ nhà phải dùng chó, muốn dọn con nít ỉa bậy cũng dùng chó. Hễ nó hết bấy nhiêu việc, ta bán cho cửa hàng “cờ tây”, mất gì đâu con? Cứ thử coi nó thiệt lòng theo ta hay là do Việt Cộng gài lại!
Qua một lớp “cải huấn tố cộng loại A” dài hơn tháng, Bảy Suyền trao cho ông phủ một xấp giấy vài chục trang viết tay, cười toét miệng trên khuôn mặt xanh nhợt của kẻ sớm bị bệnh di tinh:
- Thằng mộc tồn khai đây. Bác coi thử nó giấu chút gì không, từ hồi Việt Minh bí mật tới nay.
Phủ Đỉnh đọc cẩn thận bản “phản tỉnh” của Ba Mít, gật gù. Nó khai ráo cạo, cả những điều ông chưa biết, nặng lời thề thốt sẽ chịu xẻo từng miếng thịt “nếu chưa thành khẩn hết mức với chánh nghĩa quốc gia, với chủ nghĩa duy linh nhơn vị của Ngô tổng thống anh minh luôn luôn cải huấn”. Cái bệnh dốt ưa nói chữ vẫn còn, nhưng coi bộ thằng này xài được. Miễn nó ăn cắp vừa phải, ông có thể dùng nó làm quản lý, giữ khu ấp Linh Lâm cho ông, chứ cô Huyền Tâm đau tim và ế chồng chỉ còn là một bà vãi tu tại gia, nửa ngây nửa dại.
Tiếp đó là một đột đổ bộ ồ ạt của dân Bắc di cư.
Họ được xe nhà binh chở lên theo đường 56, được ca-nô ngược dòng Thu Bồn và sông Linh lên, trút vào vùng đất của các gia đình quân giới bỏ lại. Tổng ủy di cư cấp cho họ gạo tiền và những căn nhà khung gỗ lợp tôn làm sẵn, các cha cố và chánh trương, trùm họ đứng ra chia hàng Mỹ viện trợ. Thôn mới Linh Thượng ra đời. Ông phủ Đỉnh chỉ khoanh lấy ba trăm mẫu tây dễ tưới nhất trong đồn điền La-phạt, họ hưởng phần còn lại, vỡ ra trồng khoai sắn, dựng lên xóm Tây của thôn Linh Lâm.
Chắc hẳn họ đã được các đấng chăn chiên và các vị cầm quyền căn dặn nhiều về dân vùng đỏ và Việt quốc, nên khi mới tới mặt ai cũng gườm gườm. Tất cả đều đeo thánh giá, và nói với nhau bằng giọng gì rất lạ, khó hiểu. Mãi về sau dân Linh Lâm mới biết họ đến từ Nghệ An, rời quê khi được tin “Chúa đã vào Nam, Hoa Kỳ sắp bỏ bom nguyên tử ở miền Bắc”. Họ dựng nhiều nhà nguyện với chữ thập thật to trên đỉnh, chuông sớm chuông chiều giật vang động dọc sông Linh. Tiếp nữa, họ nhận kẽm gai về rào quanh khu định cư, và những tốp vệ sĩ bắt đầu gác và đi tuần với súng và lựu đạn. Đã hiện rõ họ là tấm bình phong chống Cộng được dựng lên dưới chân dãy Trường Sơn.
Cuộc sống cứ thế trôi qua. Những kỳ hẹn hiệp thương hay tổng tuyển cử chỉ là dịp để chính quyền mở những đợt tố cộng dữ dội hơn trước. Những người dân cũ và mới lần hồi quen nhau, bớt gờm nhau, bởi dân di cư mất nguồn viện trợ phải kiếm sống ngày càng chật vật, nhiều nhà cuốn gói ra đi. Không ít người xin làm thuê ở đồn điền phủ Đỉnh hay các nhà giàu trong xóm Chợ Linh Lâm, máu hăng chống cộng dường như nguội đi, niềm kiêu hãnh làm “dân nước Chúa” chẳng còn mấy. Nhờ đó, lò rèn ông Tư Chua và bàn máy Hai Thùy đông khách hơn trước. Trong khi chờ lấy đồ may vá, đã có những đồng bào di cư sốt sắng giúp Thùy: “Để tui lôông cho mấy cơn ná trữa cươi để phơi đồ áo”, và Thùy đã hiểu họ muốn làm gì, dịu nhẹ cảm ơn họ. Người khỏe hơn thì kiếm đôi thùng “xuống rào sương nác”, nghe vui vui.
Gia đình ông Tư vượt qua được bốn năm thử thách đầu tiên dưới chế độ mới mà chưa mất mạng nào, nhưng các vết rạn nứt ngay trong nhà đã hiện rõ. Chỉ có một người đủ sức hàn gắn là Cả Chanh, bao giờ anh mới trở về được, nếu sống sót để trở về?