Chương 16
Trận lũ lụt chưa từng nghe truyền miệng hay ghi trong sử sách vào mùa đông năm 1964, ghép thêm cơn bão số 15, đã phá tan hoang các thung lũng có sông suối chảy trong lòng suốt các tỉnh quãng giữa Trung Bộ. Quảng Nam bị nặng nhất, và gây tội nặng nhất là sông Thu Bồn cùng các dòng lớn nhỏ rót nước vào nó.
Con sông Linh đón lũ từ vùng núi Ngọc Linh cao ngất, trở nên hung ác như trâu điên. Trong buổi đầu, nó thông thốc xói đổ từng mảng to đất bờ dựng đứng mé Đông, tức bờ bên phải theo dòng từ Nam lên Bắc của nó. Dân làng Linh Lâm bị một chầu kinh hồn. Nửa đêm, ấp tân sanh xóm Chợ cùng các xóm lẻ, các bót nghĩa quân (tên mới của dân vệ), cả cái đồn bảo an một trung đội đều gánh của đánh trâu chạy ráo, lính lẫn với dân, tới chỗ đất cao bên truông Dơi. Sau khi căng chiếu dựng nong tạm đỡ ướt, số người khỏe mới chạy về làng, cố vớt những ghe to xuồng nhỏ chưa bị đứt dây trôi biến, buộc mây song lôi ngược các khe, tìm vũng lặng mà neo.
Trong đêm đen đầy mưa xối xả, cành gẫy bay trên đầu và nước dâng đến bụng, đến cổ, đại diện xã Ba Mít tức Hùng Minh vẫn đứng trên mi-ra-đo của đồn bảo an, cầm cái loa tôn ra lệnh khóa cồng ấp tân sanh, chặn dòng người chạy thục mạng. Hắn bấm cái đèn pin lắp sáu viên, sáng như đèn pha, nạt từng người hắn biết mặt: “Chạy theo cộng hả? Thấy mặt rồi đó, hừ, mai rồi tính...”. Hắn chỉ hò hét được mươi phút, dọa được năm bảy gia đình sợ hắn nhất, buộc trở vào ấp liều thân với lụt. Chợt từ dưới phụt lên một tràng đạn dài, đạn xuyên chen đạn lửa, xổ vào hắn trước khi hắn kịp nhào sấp dưới những tấm ri thép chống bắn tỉa lắp quanh chỗ gác trên chóp mi-ra-đo. Đèn pin tắt lịm. Dân lại phá cổng ấp chạy tránh lụt.
Tên trở cờ tệ hại nhất, bị khinh và thù nhất ở Linh Lâm đã chết vì ra oai không đúng lúc, bởi loạt đạn Mỹ không rõ ai bắn. Chắc không phải Việt Cộng, họ đang lo cứu lụt, luôn gọi loa đề nghị ngừng bắn để cứu dân. Xác hắn nằm vắt ngang tấm ri trên cao, vợ con hắn bận chạy lụt không nhận xác, khi đến được cũng chỉ hờ hờ đôi tiếng gọi là, dành phần các ả gái nhện dăng khóc bù. Chẳng ai đến cả.
Rồi chuyện lạ mới lại diễn ra. Sông Linh tựa hồ đã chọc võ một mảng núi dựng như đê đập nào đó tít trên thượng nguồn, chợt rẽ ngoặt sang bên trái, bờ Tây. Dòng, lũ quật dữ dội vào các thôn Linh Thượng, Linh Sơn, dãy đồn bót chỗ ngã tư sông Linh gặp đường ôtô 56, các dãy nhà dựng gần mé nước của đồn điền La-phạt.
Làng mới Linh Thượng hầu hết là đồng bào di cư, không quen thung thổ nắng mưa vùng này và thích ở gần nước, gần các nhà nguyện, bị cuốn trôi sạch hơn trăm nóc nhà, chết 214 người mà chỉ tìm lại được 53 cái xác. Một nhánh sông mới, hẹp nhưng xối mạnh như thác, bọc vòng sau làng đã chặn đường chạy lên núi. Đồn bảo an hai trung đội cũng bị nước vây y hệt, gò đất đóng đồn sụt lở, trút cả đồn linh lẫn khu gia binh xuống dòng lũ.
Ít chết người mất của nhất là khu định cư Linh Sơn của các làng Thượng Blam, Blin, sau thêm Bhtô. Họ quá quen với các sông suối trái chứng trái nết của Trường Sơn, nuôi người quanh năm nhưng hại người trong khoảnh khắc. Họ dựng nhà sàn chỗ cao, làm kho thóc bằng trụ chắc ở nơi đất trống không cây nhằm chống chuột và khỉ leo lên, gà rừng sóc bay đáp xuống. Gai nhọn bóc kín cả mái, sàn, bốn vách. Trong khi sông Linh tràn bờ đang thúc vào mé Đông, họ đã lùa hết trâu bò heo gà và cõng tất cả những gì đáng giá lên tít sườn núi, chỉ còn những xác nhà sàn dựng tạm bợ trong khi chờ phá khu dồn. Cả khu chỉ mất mớ nhà sàn ấy, bị sập trôi hai kho lúa đã ăn gần hết, không ai chết. Thế nhưng các già làng kéo xuống xã và quận đòi cứu tế đã khai số chết đuối đến mười lần mười ngón tay (người nói là một bác đã học hết tiểu học hồi chống Pháp, nay giả dại qua ải). Mất trụi hết lúa gạo trâu heo, con nít đói lạnh đổ bệnh lung tung, sắn non bằng ngón tay cũng phải nhổ nấu cháo với lá rừng.
Cửu Áng ở với dân Thượng mấy chục năm, biết thóp cả. Nhưng chùm đạn găm đầy cái xác Ba Mít khiến lão đã khôn càng phải ranh lên gấp bội. Làm ông quyền đại diện, không đổ vạ cho ai được, lão nghe kể mà cứ chà chà, ối trời ơi. Rồi lão tự tay ghi xác nhận lời khai có ghi biên bản, khẩn thiết xin “ủy ban cứu trợ nạn nhơn bão lụt” cấp tốc giúp đỡ, chứ Hội đồng xã Tây Giang nay như rắn không đầu, một đồng chẳng có. Đoàn người Thượng đi hai ngày ròng rã, cõng về một mớ đồ cứu trợ đã bị ăn cắp trắng trợn khi chuyển từ đồng bào các thành phố, các tổ chức từ thiện của sinh viên và các tôn giáo, sang tay bọn nhân viên chính quyền nhiều cấp, nhiều ngành. Chăn len bị đổi thành chăn sợi thô, lại còn rọc đôi phát cho hai người. Xà-phòng tắm và giặt đều bị đổi và cắt đôi như thế. Tên nhân viên cấp phát nói xẵng:
- Xã ấp nào chết sạch rồi, tui không phát. Xã ấp nào có Hội đồng làm việc, xác nhận đóng mộc, tui phát cho số còn sống hăm lăm phần trăm... nghĩa là bốn người một suất, về sau đồ cứu trợ tối thêm tui cho thêm. Chỗ nào Hội đồng không về làm việc được thì là vùng Việt Cộng, để tụi nó lo.
Ủy ban cứu trợ của sinh viên học sinh Huế-Đà Nẵng công bố một bản điều tra: nạn nhân chỉ nhận được khoảng 5% số đồ cứu trợ từ Sài Gòn và các tỉnh không bị bão lụt gửi tới. Hoa-Kỳ hứa cho máy bay trực thăng chở hàng cứu trợ, trực thăng làm sụp hẳn những nhà lung lay nặng, bắn xối xả vào các nhóm cứu lụt của Việt Cộng đang phát gạo muối và chữa bệnh cho dân sống sót. Bản tin vừa ra buổi sáng, người đứng đầu bị bắt ngay trong đêm.
Từ xã Tây Giang trở xuống, các dòng sông bị nắn sửa lại bằng bàn tay tàn bạo của Thần Nước. Dãy núi đá có Hòn Kẽm Đá Dừng đứng trụ vững, nước lũ bị bóp họng nghẹn ứ, dâng cao xoáy dữ, phá tan hoang các làng từ Kẽm trở lên. Nhiều làng biến hẳn trên bản đồ. Ước tính toàn tỉnh có 80 phần trăm số nhà ở bị trôi hay sập nát, số chết không thể dưới mười ngàn.
Nhiều tờ báo đã đưa ra con số ba chục ngàn. Quân Sài Gòn lo cháy ruột cho người thân và bà con, bị hơn hai vạn cố vấn Mỹ thúc ép phải tiếp sức ngay cho các “sư đoàn nước”, vác súng đi càn mà đếm bước như ông từ vào đền. Chỉ có máy bay đại bác hung hãn nhất: các “vùng đỏ” bị phi pháo đánh nặng gấp đôi gấp ba so với trước lụt.
Gia đình ông Tư Chua chạy vào truông Dơi, sau ba ngày lại gánh gồng bồng bế nhau trở về ấp tân sanh Linh Lâm. Nhà ở và lò rèn của ông vẫn nằm nguyên trong vườn dầu lai cổ thụ, chỉ bị vài cành cây gãy đánh xuống sạt một góc mái. Mất một ổ trứng, sáu con gà không kịp bắt, mấy thứ kìm búa. Bọn dân vệ cười cười, nhận là chúng nó lấy.
Từ cửa nhà ông Tư đi ra bờ sông thường là bốn chục bước, nay chỉ còn hơn mười bước. Cửa khe Cốt bên phải nhà ông Tư mở rộng gấp đôi và xoáy khá sâu, ghe xuồng kéo vào đậu chi chít như bến sông để tránh cơn lũ mới. Dân ở vạn bàn góp công góp tiền sửa lại cây cầu gỗ làm từ “hồi chín năm Việt Minh”, rất chắc, không bị trôi nhưng trở nên quá ngắn.
Đứng trên bờ dốc cao nhìn sang bên kia sông, ai cũng lạnh xương sống. Cả một chuỗi làng xóm, đồn bót, mà rẫy nối nhau dài gần hai cây số đã bị quét sạch, vùi sạch. Sông Linh nảy thêm nhánh phụ, tạo nên một dải cồn hẹp kéo thẳng từ Linh Thượng đến hết đồn điền La-phạt. Dấu chân và vết cuốc của những người sống sót đi tìm xác đã xới lên một lớp dày gồm toàn đá cuội, sỏi nhám nâu đỏ, pha thứ đất gì màu xám như gan gà. Dân sông Linh quen ngược sông rất xa, lên tận núi Ngọc Linh để cõng quế, săn thú, đánh cá, chưa hề gặp chỗ nào có sỏi và đất xám như thế, những bãi cuội to như thế. Chỉ có động đất lớn phá vỡ núi lớn mới đẩy những thứ ấy trồi lên mặt đất cho nước cuốn về xuôi.
Ngớt lụt chỉ mấy ngày, lại có thêm bảy người chết và bị thương vì cuốc trúng các loại mìn to nhỏ của bảo an và dân vệ gài. Người gài chết, bản đồ trôi, đất đai chài lung tung, đợi lính về dò mìn chắc phải đến đời cháu. Một anh di cư đi làm “xâu cộng đồng kiến thiết” xây đồn quận, ở nhà chết sạch mẹ, vợ, năm đứa con. Anh vác cuốc đi đào như hóa rồ, sau một buổi bị tan xác vì một quả mìn cỡ to.
Hai Thùy dạo ấy còn ở nhà, cùng Năm Bưởi và Út Thanh Yên ngày đêm đạp máy, may những áo quần cấp cứu đủ kiểu, đủ thứ vải. Nhiều nhất là thứ bao bột mì viện trợ Mỹ in hình “tay nắm tay”, kèm dòng chữ “Quà tặng của nhân dân Hoa Kỳ-không được bán hay đổi chác”. Nhưng giá bán cái bao tải thô đã vượt lên năm chục, cắt cổ cho dân đói. Ông Tư Chua nổi lò từ mờ sáng đến sát giờ giới nghiêm, chỉ đặt một điều kiện: khách phải tự mang sắt và than tới, vì ông bị cấm mua sắt và lên rừng đốt than. Lò rèn và máy may đều tính công bằng nửa ngày thường, khách kéo tới như lãnh chẩn, khi phải chờ thì sửa sang nhà cửa vườn tược cho mấy cha con.
Quyền đại diện Cửu Áng lo nhất cho cái số trai trẻ Kinh và Thượng được báo cáo là “chết hụt mất xác”. Lão đoán bọn này lựa dịp “nhảy núi” theo Việt Cộng, hay nhẹ nhất cũng là trốn quân dịch. Lệnh trên phải đưa gia đình đám tình nghi ấy xuống “quy khu” gần chợ Huề Bình. Như vậy sẽ phải lùa hàng trăm gia đình bảo an, dân vệ, thanh niên võ trang, vệ sĩ công giáo... chết trôi không thấy xác và không có biên bản từ trần, trận vong. Làm quá tay, lão sẽ nhận một chùm đạn vào thân và một bản cáo trạng gài trên ngực của VC, còn thứ lính quốc gia nổi khùng thì đùng nói đến chữ nghĩa.
Rốt cuộc, Cửu Áng mỗi ngày cộp dấu vài chục lần không lấy lễ tạ, đùn tất cả xuống cho níu áo đám ăn hại và ăn cắp ở quận, còn tí chút phải quấy của dân thì cứ kín đáo trao cho bà Cửu. Vừa được tiếng vừa được miếng, mấy chục năm qua nhiều chế độ, Cửu Áng vượt qua mọi thứ thác ghềnh mà chưa một lần chìm đò.
Cuộc sống ở Linh Lâm rồi cũng chảy theo dòng mới của con sông đã làm lành với người. Doi đất pha trộn cuội sỏi đất-dân làng gọi là đất con trăn-được chọc lỗ, rắc bắp giống, năm tháng sau cho một mùa bắp tốt hiếm có. Ông Tư Chua dù rất bận cũng bẻ và lảy được tám chục ang bắp hột từ con trăn ấy. Lúa rẫy của ông lên tốt, thêm được trăm hai chục ang[1] nữa, coi như quanh năm đủ ăn, chưa kể tiền may, tiền rèn.
Đến năm sau, 1965 máy bay Mỹ các cỡ bắt đầu ùa lên rải bom và chất độc hóa học trên núi, cách bờ Tây sông Linh mươi cây số. Gió Tây thổi hơi độc tạt về, nhiều nà bắp và rẫy sắn khoai bị tàn lụi, thối củ.
Có điều lạ là mãi đến đầu năm 1967, quân Mỹ và Sài Gòn vẫn chưa kéo lên vùng ven núi và càn mạnh, thọc sâu. Quân số không thiếu: hơn bốn chục vạn quân Mỹ và đồng minh trên đất miền Nam, khoảng bốn vạn quân Mỹ ở Ô-ki-na-oa, đảo Guam, các căn cứ đóng tại Phi-líp-pin và Thái Lan ngày đêm phục vụ cho không quân, hải quân, hậu cần Mỹ. Quân Sài Gòn đã lên đến 35 vạn quân chính quy, 30 vạn quân hỗ trợ từ tỉnh đến xã. Với hơn một triệu lính trong tay, với lời cam đoan tại Hô-nô-lu-lu của tổng thống Giôn-xơn là cho quân Mỹ ra tuyến lửa chọi nhau với Việt Cộng, quân Sài Gòn lui về bình định các đô thị và nông thôn đồng bằng, tại sao chúng nó chưa kéo lên núi?
Khu ủy Năm và tỉnh ủy Quảng Nam điện ra hỏi Trung ương. Thay vì trả lời bằng điện dễ lộ hoặc công văn “hỏa tốc thành hỏa tấp”, Bộ tổng tư lệnh phái vào một đại tá và hai trung tá đi bộ vượt trạm, đường hai tháng rút còn hai mươi ngày.
Thì ra quân Mỹ bận mở liên tiếp các chiến dịch cỡ vừa để bẻ gãy hay nới lỏng vành đai thép đang thít quanh Sài Gòn và các thành phố lớn. Chúng bị thương vong nhiều vì mìn, chông, đạn bắn tỉa, rút cuộc chỉ như cầm dao chém nước.
Đầu năm 1967, trong khi tung máy bay đánh ra sát nách Hà Nội, địch mở cuộc hành binh lớn Xi-đa Phonx, ném ba vạn quân vào vùng Tam giác sắt ở Tây-Bắc Sài Gòn. Thiệt hại nặng.
Tháng 2 và 3-1967, suốt một tháng rưỡi, địch mở chiến dịch Giăng-sơn Xi-ti lớn nhất Đông Dương với bốn vạn quân Mỹ đánh vào vùng “Đầu não của VC miền Nam”. Thiệt hại rất nặng, bị coi như thất bại chiến lược, tuy vẫn được cơ quan thông tin USIS đưa tin đại thắng 2.
Dự kiến của Bộ tổng tư lệnh: theo tin nội bộ của địch, Bắc Việt đã đưa ba sư đoàn đủ quân số vũ khí vào Cao Nguyên Trung phần, mỗi sư trên dưới một vạn, sẽ đánh thốc xuống đồng bằng và cắt lấy phần đất từ Quy Nhơn trở xuống ra đến Bến Hải. Ấy chỉ là đoán mò.
Địch sẽ đối phó bằng cách xây cứ điểm lớn từ Ban-mê-thuột và Plei-ku xuống tới quốc lộ 1, và mở một trận càn lớn ở Tây Quảng. Vùng đồi núi trên bờ Tây sông Linh, nối vào bờ hủy diệt trăm phần trăm bằng chất độc hóa học và B.52 rải thảm, khi cần sẽ thêm pháo tầm xa và máy bay chiến thuật. Số dân sống sót sẽ được dồn về phía Đông nhưng không cho đi xa: vẫn cần có dân đi phu xây đồn, bán đồ ăn cho lính, đánh mõ la làng và làm bia thịt sống khi Việt Cộng mò tới chực đánh đồn.
Ngày càn lớn chưa định trước, nhưng áng chừng vào tháng Tư hay tháng Năm, trước những đợt mưa đông vùng núi. Sau càn, Mỹ sẽ đóng lại hai đồn to của SF, tức lực lượng đặc biệt Mỹ, chặn đường tiến quân từ Kon Tum xuống đồng bằng. Nay mới biết đến đó.
Các đợt phát động chổng càn được mở gấp rút từ tỉnh xuống tận xóm, ấp. Tỉnh đội rút tất cả các bộ phận xé lẻ đi xây dựng du kích về, cũng vừa lúc bốn trăm quân từ miền Bắc vào được chia cho tỉnh, non một nửa là bộ đội tập kết gốc khu Năm. Súng đạn chưa nhiều nhưng đã khá hơn trước, vũ khí Mỹ vẫn là chính. Năm ngoái, có một dạo quân khu đã phải ra quy định “có lệnh của đại đội trưởng trở lên mới được phép bắn một quả B.40”. Mỹ-ngụy ít dùng các loại đạn lõm ở miền Nam nên ta rất khó kiếm súng chống tăng. Năm nay, ĐK.57 và B.40 vào được khá hơn, nhưng vẫn phải dè sẻn từng phát.
Chông bẫy mọc lên tua tủa trên rừng núi. Dưới vùng sâu, đến tận chân sóng biển, các đội Võ trang công tác đào hầm lót ổ, móc nối thêm cơ sở trong dân và nhân mối trong các sắc lính ngụy, sẽ nổi dậy đồng loạt khi địch sa lầy trên xanh kia.
Giữa những ngày sôi sục ấy, một tin dữ nổ như bom làm mọi người choáng váng: ta đánh đồn Phước Hòa bị thua rất nặng, một phần tư đại đội sống sót chỉ mang theo được một ít thương binh, bỏ lại xác đồng đội và vũ khí. Người chỉ huy trận ấy đã trốn biệt tăm!
Tỉnh đội trưởng bị thương hàn nằm bệnh xá, sốt mê man. Tỉnh đội phó chạy con thoi giữa các tiểu đoàn và đại đội đóng rải xa nhau, chỉ đạo đợt học quân sự cho cán và binh. Bí thư Cả Chanh ăn như nhai trấu, thức gần trắng một đêm. Khu ủy điện về tỉnh giục cho cán bộ đi điều tra tại chỗ, nhưng buộc Chanh phải luôn có mặt tại cơ quan tỉnh. Anh được bầu bổ sung làm khu ủy viên chính thức, không phải như khi còn dự khuyết, “chưa khuyết thì dự làm gì!”. Nay đã bị xiềng chân. Anh cử đi một đoàn cán bộ do chính ủy tỉnh đội Tám Hiền dẫn đầu.
Người chỉ huy, đại úy Quốc Trấn, nguyên là sĩ quan vận tải ô-tô ở quân khu Việt Bắc. Anh lên cấp chậm vì năng lực kém, cánh lái kháo nhau: “Đại úy ngồi sau tay lái thì phi trượt húc cũng va quệt”. Cuối năm 1964, anh được nhận đơn vào binh đoàn 559 Trường Sơn, nắm một đội Zin ba cầu, sáu chiếc, coi như thử sức buổi đầu. Lái xe Trường Sơn ngang tàng hơn hậu phương lớn nhiều, chỉ sau một tháng đã viết kiến nghị tập thể gửi lên binh trạm và binh đoàn xin đổi chỉ huy: “Đồng chí Phùng Quốc Trấn chỉ biết chạy lung tung và quát tháo nhức tai trong khi bom Mỹ giội xuống đầu chúng tôi, không hề biết chỉ huy, lãnh đạo, kỹ thuật”.
Đấy cũng là lúc quân ta vây địch khắp nơi, quân ngụy rã từng mảng như lâu đài cát gặp triều cường, quân Mỹ chưa kịp đánh rộng ra cứu nguy, Quốc Trấn được chuyển về quê Quảng Nam trong không khí hồ hởi phấn chấn ấy. Bản khai lý lịch của anh kể rất dài về thành tích đánh du kích chống Pháp, khéo léo nhấn rằng những kinh nghiệm ấy bị coi thường trong các sư đoàn chính quy miền Bắc-máy bay đánh sâu hủy diệt, pháo binh phá công sự, xe tăng mở đột phá khẩu, bộ binh đi xe thiết giáp đánh tỏa vào tung thâm... Thật ra, những chuyện như thế anh chỉ nghe nói trong khi loay hoay với những chiếc Mô-lô-tô-va hay Giải phóng một cầu chạy đường nhựa vùng biên giới.
Tỉnh đội chưa có xe cho anh chỉ huy. Để tận dụng kinh nghiệm đánh du kích của anh, cũng vì nể cái quân hàm một vạch bốn sao đã cũ đến phai màu của anh, Quốc Trấn được cử nắm một đại đội mạnh: ba trung đội bộ binh đủ quân số, một trung trợ chiến có đủ cối 60, ĐK.57, đại liên 30, tất cả đều của Mỹ, có thể dùng đạn chiến lợi phẩm đánh tới mút mùa. Chỉ có tí chút sai lầm: đại úy Trấn chưa từng biết các loại súng mới của Mỹ và của ta, ngay AK.47 từ Bắc vào cũng chưa hề bắn. “Ăn thua nhau chỉ cái tinh thần”. Và anh quyết chơi trội lấy điểm, lên dây cót cho đại đội và riêng mình nữa.
Cách chỗ đại đội đóng huấn luyện chừng mười cây số có một đồn lính bảo an đóng trên đồi cao, giữ cầu và đường đá từ Trà Mi chạy xuống Tam Kỳ. Chỉ có hai trung đội bộ binh và hai tiểu đội hỏa lực. Súng ống xoàng thôi: hai cối 81, hai trọng liên 50 (Quốc Trấn cứ tưởng là tiểu pháo 50 ly, sau mới biết là đui-xết 12 ly 7). Binh vận ta đã nắm được chuẩn úy đồn phó và ba hạ sĩ quan, trung lập hóa được đồn trưởng, đang cố tạo nên binh biến khi đánh lớn.
Quốc Trấn không hề hỏi cấp trên khi đưa cán bộ các trung đến đồi gần đấy, chĩa ống dòm xem đồn, oai như tư lệnh sư đoàn. Chính trị viên lo sốt vó, gì thì gì cũng phải được cấp trên duyệt đã chứ. Ông không bằng lòng, tôi cũng phải về trung đoàn báo cáo. Trấn bấm cậu liên trinh thân tín nhất ra chỗ vắng: “Mày đưa ông lính cùi chỏ ấy đi lạc suốt ngày mai cho tao, tối mai tới, khuya mai ta nổ súng rồi. Trị đứa thua chứ ai bắt vạ đứa thắng!”.
Tai họa bùng nổ.
Đại đội bảo an đóng đồn này trước khi thay quân đã lập một mạng lưới dày đặc các loại mìn to nhỏ để giữ thân: định hướng, pháo sáng, vướng nổ, đạp nổ, nhảy nổ, bấm nổ. Sơ đồ các bãi mìn nằm trong tủ sắt khóa của đồn trưởng mới, chưa soạn ra lần nào. Ngay cậu chuẩn úy đồn phó cũng thấy chẳng cần để ý đến các lớp rào vòng ngoài trong khi móc nối chờ nổi dậy “hoa nở trong lòng”, đánh trong ruột đánh ra.
Lính đồn chỉ chống cự vừa phải, đợi ta ngớt đánh là tìm đường chạy. Trợ chiến ta bắn như trút đạn, hầu hết bị trượt vì huấn luyện kém. Xung kích Một mới qua được hai lớp lưới kẽm gai đã chết và bị thương gần hết. Chỉ huy xung kích Hai cẩn thận hơn, đã đem theo ba bốn cái ruột tượng gạo nhồi thuốc bom có lắp kíp nổ, nụ xòe. Những bao ấy ném vắt ngang kẽm gai đã quét mìn và rào được mươi thước nữa, không giúp vượt hào chông sâu và rộng. Lại thêm một loạt bóng nữa ngã gục.
Quốc Trấn hét:
- Trung dự bị lên! Đê-ca bắn như cứt, điều lên sát địch bắn thẳng!
Anh trung úy đại đội phó vừa chồm dậy, bị ngay một phát Ga-ran xuyên phổi. Ép tay trái vào ngực, anh cố gào:
- Trung dự bị nằm yên đó. Rút hai trung xung kích, đem hết thương vong theo, tổ chức đánh đợt mới, kiếm đồ vượt hào chông!
- Á, á... mày chống lệnh hả? Mày phản hả?
Anh đại đội phó lả dần đi trong khi cán bộ còn sống sót từ các trung chạy tới sở chỉ huy, một con mương xói hẹp và sâu lút đầu người. Anh nói phều phào:
- Anh em... trói cứng thằng Trấn lại... về Tòa án binh xử sau. Tôi chỉ định đồng chí... Dần... quyền chỉ huy đại đội, đồng chí... Tám Giao... quyền phó... Giở nguyên tắc lúc này... là giết hết anh em... Tôi cũng… sẽ ra toà chịu tội...
Anh lịm hẳn đi. Máu đầy bọt phòi ra kín ngực áo.
Nhóm cán bộ lui ra cách mấy bước để y tá băng bó cho trung úy. Dù là bí thư chi bộ đại đội, anh trung úy đòi bắt trói một cấp trên đeo bốn sao thì cũng quá quắt, phải tạm gác đấy. Họ biểu quyết gấp hai người trưởng và phó, bởi Quốc Trấn đã khản tiếng, mụ mị, ngồi rũ như gà dầm mưa, ai đến hỏi gì cũng chỉ hất một bàn tay như xua, phẩy. Chỉ trong một phứt, số cán bộ có mặt đã bầu đúng hai người do anh bí thư nêu tên. Họ hẹn nhau chớp nhoáng: giấu biệt chuyện bắt trói, phải tự bầu chỉ huy trong khi đại úy bị cối nổ gần, nửa mê nửa tỉnh, đại đội phó trúng đạn đã “gợi ý” hai đồng chí tạm thay.
Dần và Giao bắt tay vào việc tức khắc, không hề nói một tiếng gọi là khiêm nhường, đãi bôi. Đã ba giờ sáng, gà rừng gáy lanh lảnh nơi xa rồi, máy bay chưa đến và pháo lớn chưa câu tới, phải đánh rốc ngay nếu không rút lui.
Dưới chân đồi có một khu gia binh, vợ con lính đã chạy vào ấp tân sanh gần đấy. Tháo dỡ dãy nhà dài ấy có thể lấy rất nhiều cây tre buộc đòn tay, tôn lợp mái, dây thép chằng chống bão. Buộc tre thành bè, hai cây nữa dùng làm cần rổ để hạ khung bè qua hào chông, xung kích sẽ lao những tấm tôn lát mặt cầu cho mũi nhọn phóng qua. Tám Giao nắm hỏa lực, sẽ đưa lên chỗ rộng đã quét mìn hai trung liên, sáu tổ viên lựu đạn với mỗi người ít nhất mười lăm quả đủ loại. Không thể đưa ĐK.57 lên vì cồng kềnh và bắn quá tồi.
Hẹn đúng bốn giờ kém mười lăm là công kích đợt hai. Và điều lạ mới lại xảy ra: trung đội dự bị đặt xong cầu mà không bị một phát đạn nào bắn cản. Trong đồn địch lập lòe nhiều đám cháy, điểm những tiếng nổ to nhỏ của các loại đạn vung vãi khắp nơi. Muốn cho chắc, hai chỉ huy cho bắn và ném lựu một loạt ngắn, mới phát lệnh xung phong.
Đồn địch rỗng không. Địch đã rút khi ta ngớt đợt một, mang theo tất cả thương vong, hầu hết súng lớn nhỏ, chỉ bỏ lại những thứ quá nặng như bàn đế cối 81, chân trọng liên, vài thùng đạn cối và lựu đạn, mìn.
Đoàn kiểm tra xác nhận cái tin “Việt cộng bỏ lại trên trận địa hàng trăm xác chết và thương binh của chúng” là do địch tung ra. Trung đội trợ chiến đặt súng khá xa nên chỉ bị thương hai. Xung kích Một chết tám, bị thương mười ba. Xung kích Hai chết năm, bị thương chín. Trung dự bị chưa lên, chỉ bị một quả phóng lựu M.79 rơi lọt vào hầm, chết một tiểu đội trưởng. Thương binh, tử sĩ được khiêng và dìu về gần hết, điểm danh lại chỉ thiếu hai đồng chí, có lẽ bị mìn to hất văng vào chỗ kẽm gai dày đặc, ban đêm khó tìm ra. Trung dự bị vắng năm người, chạy lạc đơn vị, hai ngày sau mới về chỗ tập kết, lầm lì không nói.
Trong khi chính ủy tỉnh đội lên kính lão, đọc chật vật và đọc sai nhiều con số, cán bộ chung quanh đều thấy Cả Chanh đang cố nén giận sấm sét. Anh vẫn hỏi bằng giọng gió bấc:
- Số xác đem về triển lãm ở Quảng Tín, địch kiếm đâu ra?
- Báo cáo, trưa hôm sau quân viện lên, thắng L.19 bắn rốc-két khói chỉ điểm trúng vô nhà thờ công giáo. Dân nghe lời cha cố ùa vô nhà thờ lạy Đức Mẹ hằng cứu giúp, tới hơn hai trăm dân dồn cục, đang quỳ đọc kinh. Ba tốp AD.6, tiếp ba tốp trực thăng võ trang ào tới giội bom mảnh, bom bi, bom lửa, ai chạy ra ngoài bị súng máy quét trụi. Khi biệt động quân “đầu cọp” với mười hai chiếc M.113 lên đồn thì chẳng còn gì để thu dọn, trên đường về nó lọc lấy hơn trăm xác trai gái trẻ, đem về ném cho mỗi xác một thứ gì đó của Việt Cộng để xếp dãy bày hàng...
- Còn Quốc Trấn giờ ở đâu?
- Chắc ảnh thấy nhục nhã quá, mà cũng sợ bộ đội tức điên làm dữ, ảnh lánh mặt đâu đó năm bảy ngày...
- Ý kiến của đoàn kiểm tra đối với Quốc Tuấn?
- Dạ, tụi tôi thấy trong khi hoang mang bối rối, ta đừng làm căng thẳng quá, bức xúc quá. Để ảnh tỉnh hồn lại...
- Cả năm đồng chí nhứt trí vậy hả?
Một tiểu đoàn trưởng, tiếp một đại đội trưởng quân báo, lên tiếng đáp thay: “Tôi không đồng ý”. “Tôi không hề được hỏi ý kiến, giờ xin không nhứt trí”. Hai người nữa ngồi im, tránh luồng mắt Cả Chanh.
Chanh trừng trừng nhìn anh chính ủy trong khi anh dài lời phân trần về sự thông cảm “đồng chí với nhau”, anh em trụ bám ít được học, anh em Bắc về thì lóng ngóng lạ lẫm. Như cái máy, chừng ba câu anh lại nhấp một hớp nước chè rừng, đưa tay áo quệt mồ hôi trán. Mặt anh vốn đã dài nay càng dài thêm, hai cái răng khuyết khiến giọng anh đệm hơi gió phì phì. Anh du kích Điện Bàn hồi “chín năm” vẫn trụ bám đến cùng trên quê hương, không một lần được học, được nghỉ, được chữa bệnh hay chữa vết thương. Anh chỉ gửi ra Bắc được một đứa con gái học trường miền Nam, nó càng học lên càng viết thu ít dần, thư gần nhất cách đây một năm rưỡi báo tin lấy chồng. Vợ và con thứ anh chết bom B.52 ở trại sản xuất của tỉnh tám tháng trước…
Dù mới thoát mù chữ, không biết quân sự ở mức cao hơn cây mút-cơ-tông và quả lựu đạn đập, anh vẫn được lính mến. Mến mà không trọng. Nếu như ông anh nuôi già biết lo cho lính ăn ngon miệng, như chị y tá xấu người tốt nết đêm nào cũng thức khuya vá áo quần cho lính. Cách đối xử của anh có thể tóm gọn là “tình cảm, gương mẫu, sâu sát chiến sĩ”.
Anh có thể dầm mưa leo núi hai ngày khứ hồi để xử một vụ nhỏ: trung đội đặc công trổ nghề riêng bò vào bắt trộm một heo của trạm giao liên “đường dây ngang”, thuộc khu ủy, tức là quân đội xúc phạm đến cơ quan Đảng! Anh đến nơi, gặp một chầu liên hoan giữa đặc công và giao liên với những tấm tăng trải rộng và mâm lá chuối đầy tú hụ thịt heo rừng, thịt nai, nộm chuối cây, kèm vài thùng rượu tà-vạc và rượu sắn men lá rừng. Họ túm anh vào cuộc, thi nhau nói lý do cuộc nhậu xiêu lán đổ cây này:
- Dạ thưa anh Tám, em là trưởng trạm giao liên, viết đơn kiện mấy cha trời đánh trật búa này... Trên chưa xử, tụi nó đã nhập khẩu vô tang con heo ba chục ký. Mà cũng chẳng thèm chối nữa chớ, lính đặc công tái đăng nói ngang như cua. Tụi mình đi đường tháng rưỡi ròng, khô háo quá, mượn tạm của đồng hương đồng khói con heo, dừng chân ở đây còn lâu, hễ không đền trả thì giơ đầu cho mấy cậu chặt... Anh em trạm xúm bàn lại, mình ở một chỗ còn nuôi heo gà, đánh cá mú, anh em rày đây mai đó, cơm vắt nước muối, chẳng biết sống chết hồi nào, thôi ta cho qua trớt. Kiện một phát cho mấy cha bò thằn lằn đó nể mặt, đủ rồi... Ai dè tô đãi sao đó, đêm qua mấy chả bắn được một nai tạ rưỡi, mờ sáng thêm con heo rừng một tạ nữa, gánh tới đền trạm tới một tạ ba thịt ngon, làm tụi em muốn đeo mo vô mặt... Sau phải mở hòa đàm Giơ-neo: mấy chả nấu nướng, tụi em vô làng Thượng đổi nước cay, nhẹ có nặng có. Chính ủy lội mưa chi cho khổ thân vậy, cử đám phái viên trẻ về chứng kiến lễ ký kết hữu nghị... Xin mời dô đi, đo mạnh, mừng chính ủy đích thân về nhậu với anh em mình! Mời cả lũ bạn vàng nâng ca, nâng ống tre!
Anh chính ủy bị ép phải “chan hòa” với lính. Sau một ngày leo dốc dưới mua, anh mệt nhoài, lại không quen uống rượu, chỉ sau mấy hớp rượu sắn đã choáng váng, xin kiếu. Trong khi đồng chí bảo vệ buộc võng, căng tăng nhựa cho đỡ dột, anh em còn năn nỉ anh cạn chén lần cuối: “Chúc sức khỏe chính ủy, người chị cả tuyệt vời của chúng ta!”. Anh cười xòa, làm thêm một hớp nữa, ngả lưng xuống võng với ý nghĩ vui vui: “Ờ, tỉnh đội trưởng làm anh cả, mình làm chị cả là bổ khuyết cho nhau…”.
... Những mẩu chuyện như thế chờn vờn trồi sụt trong đầu Cả Chanh trong khi nghe từng người trong đoàn kiểm tra báo cáo thêm. Lý và tình, tình và lý. Phần chủ quan, phần khách quan. Hiểu nỗi lòng Quốc Trấn như một con người, một cán bộ lâu năm, nhưng con người ấy, cán bộ ấy vừa phạm một vụ phá kỷ luật động trời, làm chết và bị thương hàng loạt những con người tốt đẹp hơn gấp bội.
Vẫn lạnh ngắt, anh ngắt lời đồng chí thứ năm nói quá dài:
- Trước khi các đồng chí về, thường vụ tỉnh ủy đã nắm được hầu hết các chi tiết. Chúng tôi đến thăm anh em bị thương nằm bệnh xá tỉnh đội, hỏi tỉ mỉ để đánh điện báo cáo lên trên, may còn gặp đồng chí Dần cõng đường sữa đến làm quà và xin y tá đem thuốc đến chữa tại đơn vị cho số bị nhẹ. Ai muốn nói điều gì mới?
Anh chính ủy hấp tấp:
- Tôi... có tôi... đề nghị thường vụ cân nhắc kỹ... hễ đánh thua là bị kỷ luật nặng, e ràng về sau anh em nhụt chí hết, không đánh địch mà lánh địch...
- Hừ... đồng chí là tỉnh ủy viên, là chính ủy, hay là vú em?
Tất cả mọi người cùng quay lại, sửng sốt. Chưa lần nào Chanh nặng lời với bất cứ ai tới mức sỉ nhục như thế, huống chi anh vẫn hằng ngày khen tác phong gần gũi sâu sát chiến sĩ của anh Tám hơn anh cần chục tuổi.
- Ít nhứt, cũng phải tìm Quốc Trấn về để cho ảnh trình bày đã chớ! Đảng mình có xử lý kỷ luật vắng mặt đâu... Phiền là chẳng biết cậu ta ở đâu...
- Bởi vậy, thường vụ chỉ quyết định trong một cuộc họp sau. Phải bảo đảm quyền tự bào chữa, quyền nhờ người khác bào chữa giùm. Để tránh mọi sự nể nang, sẽ bỏ phiếu kín, với hẹn trước là chỉ chấp nhận quyết định khi số phiếu đạt hai phần ba trở lên. Số ủy viên trực cùng với tôi sẽ đề nghị như vậy, để tôn trọng tập thể dân chủ... Tất nhiên, không phải dân chủ với đa số một phiếu. Cũng không phải tập thể theo kiểu một trăm sợi bún đánh lại làm dây kéo thuyền! Hôm nay chỉ giới thiệu một số nguyên tắc chung để các đồng chí góp ý thêm, làm vậy được hay chưa. Còn về đồng chí Quốc Trấn thân mến, chúng tôi đã biết địa chỉ từ tối hôm qua, được nghe cả lời nhắn nhủ đầy tình cảm nữa, nhưng phải nhường lời cho đoàn kiểm tra nói cho thoải mái. Bây giờ, xin mời các đồng chí nghe bản phản tỉnh kèm theo lời khuyên của Quốc Trấn. Sau đó, đoàn kiểm tra sẽ họp lần cuối để thông qua các kết luận chính, ghi rõ số phiếu thuận phiếu chống, các đề nghị cụ thể, gửi đến thường vụ. Không cần kể lể dông dài, các đồng chí cứ xoáy vào vấn đề gốc đã được giao: trong vụ bại trận rát nặng này, thương vong và xài phí đạn được đều ở mức kỷ lục, ai phải chịu trách nhiệm? Hay xếp nó vào loại thiên tai, chẳng ai có lỗi, cũng cứ nói.
Anh đưa mắt cho đồng chí chánh văn phòng. Anh này rút trong xắc ra một máy ghi âm nhỏ, nối hai đầu dây lòng thòng vào một ống bìa chứa bốn viên pin to, vỗ đập một lát cho thông điện, vừa làm vừa nói:
- Chiều qua, khi dò tìm sóng đài mình, tôi chợt nghe giọng ai quen quen, chỉnh lại, té ra Quốc Trấn đang nói trên đài Đà Nẵng. Cuối buổi, tôi nghe hẹn giờ hẹn sóng, mới chạy kiếm pin đèn, thử lại, máy còn xài được. Tới chín giờ thu ít nhiễu, chắc mỗi ngày tụi tâm lý chiến phát tới năm bảy lần... Được rồi đây.
Ả xưởng ngôn viên nói ngắn về con đường tìm về với chánh nghĩa quốc gia của thiếu tá Phùng Quốc Trấn, cuộc đoàn tụ đầy mừng tủi với mẹ già cùng gia đình, để nhường lời cho kép chính:
- Tôi là Phùng Quốc Trấn, thiếu tá trong quân đội chánh quy Bắc Việt xâm nhập vào miền Nam để cứu nguy cho phiến loạn Việt Cộng đang bị quân lực Việt Nam cộng hòa, quân lực hùng cường Hoa Kỳ cùng các nước đồng minh đánh cho tan tác. Tôi đã từng chỉ huy những đoàn xe poa-lua vận tải trên đường Hồ Chí Minh, và bó tay chịu bất lực khi các đoàn xe ấy bốc cháy sáng rực Trường Sơn trước khi đến nơi giao hàng. Tôi đã làm sĩ quan tham mưu ở Bộ chỉ huy tỉnh Quảng Nam, và đọc những báo cáo tuyệt vọng của các đơn vị rã rời, đánh nhỏ thua nhỏ, đánh lớn thua lớn. Tôi đã nghe vô vàn lời tâm sự sâu kín của anh em từ miền Bắc vào hay từ đồng bằng lên muốn quay súng trở về với chánh nghĩa quốc gia, với thế giới tự do.
Hình như kiểm duyệt đài Đà Nẵng cắt một đoạn nên nghe rè rè tẹt tẹt, chắc đoạn băng chưa được dán lại đúng kỹ thuật. Anh tiểu đoàn trưởng gào nên như phát rồ:
- Tắt máy đi, tôi chịu không nổi. Đồ quỷ sứ, đồ yêu tinh...
Suốt mấy chục năm bỏ chửi tục, anh quên ráo các câu chửi.
Máy tắt mười lăm phút, cũng để pin cũ hồi sức lại. Chỉ còn đoàn kiểm tra ngồi quanh máy, với vài đồng chí nữa chưa kịp nghe đến mé sau, còn phần lớn đã biến mất. Một cuộc tranh cãi to tiếng nổ ra ngay.
- Nè anh Tám, thằng em cưng của anh nói hay là thằng khác giả giọng?
- Sâu sát là rất tốt, nhưng sâu sát để mua lòng người cho cá nhơn mình hay để đánh Mỹ?
- Hừ, è, kể về sâu sát thì bọn cầm quyền cầm súng trong các đô thị hay ấp chiến lược sâu sát gấp trăm lần anh em mình kia. Cả một đống tề ấp, liên gia, nghĩa quân, thanh niên diệt cộng, chỉ điểm, bám sát người dân gấp trăm lần chớ, mình bò vô thì thào năm bảy phút, sao dân lại theo mình?
Chính ủy Tám ngồi rũ rượi, tai ù miệng đắng, mãi mới thì thào:
- Cho nghe tiếp đi, có gì ta bàn sau.
Máy ghi âm lại rè rè lên tiếng:
-... Tôi xin gởi tiếp mấy lời tâm huyết từ đáy lòng tối anh chị em cán binh còn mắc kẹt trong hàng ngũ cộng sản. Các bạn cố chịu đựng bom đạn, đói lạnh, với vô vàn bất công, rình mò, hãm hại, để cuối cùng nhận thấy mình đã hiến thân cho một ảo tưởng rực rỡ cầu vồng đi mãi không bao giờ tới. Mấy ngàn năm qua, bao nhiêu sử sách đã chế giễu những kẻ ngu trung, lẽ nào thế hệ chúng ta cứ nhắm mắt theo vết xe đã đổ? Lẽ nào chúng ta chịu làm trâu ngựa cho Phan Chanh, tức bí thư tỉnh ủy Thanh Trà, cùng một bầy một lũ những đứa tự phong làm tỉnh ủy, khu ủy, ủy viên trung ương cộng sản, bắt các bạn phải “trung với Đảng, hiếu với dân”. Trung với bọn quỷ dữ ấy ư? Không đời nào! Hiếu với dân, được, nhưng khi lòng dân đã căm ghét cộng sản đến xương tủy, thì tại sao chúng ta không quay súng vào bọn đỏ khát máu để thuận theo ý dân?
Một quả đám nện xuống mặt bàn tre chông chênh khiến cái máy ghi âm đổ nghiêng, chỗ nối điện rút ra, dứt tiếng. Anh chánh văn phòng xem đồng hồ, đã tám rưỡi tối mà chưa ai nghĩ tới cơm nước.
- Hay là mời các anh ăn cơm rồi nghe tiếp. Anh Chanh dặn có thể cho các anh mượn máy và băng, qua tỉnh đội mở cho ai muốn nghe thì nghe.
Chính ủy Tám ngập ngừng lên tiếng:
- Chẳng cần. Nay mai tụi nó sẽ cho tàu rà kêu loa khắp núi rừng, rải truyền đơn có in ảnh màu và chữ ký thằng Trấn. Ai đói thì ăn, cho tôi nghỉ đêm nay. Tôi... cái đầu tôi muốn nổ ra rồi.
Sáng hôm sau, xong buổi thể dục và ăn sáng bằng khoai sắn chấm nước muối, một đồng chí đến gặp Cả Chanh trao một biên bản viết bút bi về cuộc họp đột xuất của đoàn kiểm tra từ một giờ đến năm giờ sáng. “Ai cũng mất ngủ anh à. Thôi họp cho xong trớt, để ai về nhà nấy”.
Chanh đọc lướt qua, thấy có thêm một chi tiết mà anh đã biết nhưng đoàn chưa nói: năm người đi lạc trở về hai ngày sau không hề lạc, mà họ tự ý kéo nhau đi lùng bắt Quốc Trấn, sục bừa vào các ấp chiến lược, lại nằm phục trên đường đá từ đồn xuống Tam Kỳ, chẳng được gì. Thằng Trấn khôn hơn, chui vào buồng kín của một ả con buôn kiêm chỉ điểm, đợi cánh quân viện kéo lên mới cầm cờ trắng ra đường, đón xin hàng. Hắn được trực thăng đưa ngay về Đà Nẵng.
Phần đề nghị cuối cùng: kết án tử hình vắng mặt tên Phùng Quốc Trấn. Thông qua bằng phiếu kín: 100% (5/5)
Các ủy viên thường vụ tỉnh ủy lục tục kéo về họp gấp, soát lại kết quả chuẩn bị chống càn. Khu ủy và quân khu điện xuống tới tấp, bức sau nghiêm trọng hơn bức trước. Tin tình báo cho biết thêm, ngày một ít, về lực lượng và kế hoạch của địch.
Sư đoàn kỵ binh bay số 1, có sở chỉ huy ở An Khê và chuyên đánh phá vùng Tây Nguyên đến biên giới Lào, sẽ cho một phần ba số quân (xấp xỉ 15.800 tất cả) cùng các bộ phận cơ hữu như pháo cơ động (60/120 khẩu 105), xe tăng nhẹ (100/240), xe bọc thép lội nước, xe phá mìn, xe phun lửa, dùng 240 trực thăng các loại để cho đổ bộ bấy nhiêu thú xuống nơi đã ném bom dọn bãi. Không quân Mỹ sẽ dùng rộng rãi loại bom 7 tấn BLU-82B Daisy-cutter thả bàng dù lớn, xuống gần mặt đất mới nổ, xén quét sạch sân cỏ trong vòng 100 mét trở lên mà không tạo ra hố. Bốn năm quả bom như thế, cùng một buổi làm việc của các xe ủi đất, xe lăn, xe đóng cọc căng kẽm gai, năm bảy cái lô-cốt bê-tông đúc sẵn, tất cả do cần cẩu bay đặt xuống, là đủ cho trực thăng vận tải chút quân và pháo nhẹ xuống đóng chốt trước khi trời tối.
Sẽ có một chuỗi chốt to nhỏ, tạm thời hay lâu dài, khóa cứng đường lui về phía Tây của Vi-xi, cố tìm các cơ quan đầu não và văn cứ của ba sư đoàn Bắc Việt rất bí hiểm kia. Sẽ có độ 50 phi suất B.52 và hàng ngàn phi suất máy bay chiến thuật sẵn sàng hủy diệt những chỗ tìm thấy Vi-xi.
Cánh quân Mỹ từ phía biển đánh lên còn to hơn nhiều. Sẽ có chừng mười tiểu đoàn thủy bộ chiến cụ nặng vì chỉ theo đường bộ thuốn lên núi, còn được phối thuộc thêm các thứ nặng nhất như xe tăng 51 tấn và pháo 175 ly bắn xa hơn ba chục cây số, lần đầu đưa lên vùng ven núi dùng thử. Toàn bộ công binh của sư đoàn được tung vào đây, tới đâu mở đường bắc cầu tới đó. Hải quân thuộc trạm Đic-xi-bộ phận ngoài khơi miền Nam của hạm đội Bảy-ngoài số 80 máy bay cho mượn thêm, đã giúp một tiểu đoàn Ong biển, loại công binh có biệt tài làm công sự dã chiến và mở sân bay dã chiến nhanh như chớp. Cộng tất cả số máy bay của thủy quân lục chiến, không quân, hải quân, cánh quân phía đông có được chừng hai trăm máy bay chiến đấu, một trăm rưởi trực thăng các loại, một trăm máy bay vận tải, không kể số đặc dụng như máy bay trinh sát nhẹ hay trinh sát điện tử, vận tải võ trang từ AC.47 đến AC. 130 bay treo đèn và bắn phá suốt ngày đêm.
Mạn này địch sẽ tiến chậm hơn nhưng chắc hơn kiểu “cóc nhảy mặt trước, chốt chặn sau lưng” của kỵ binh bay. Sẽ chia năm mũi từ Bắc Quảng Ngãi ra tới đèo Hải Vân cùng tiến song song lên núi, quét sạch Vi-xi, hốt sạch dân, đốt phá hủy diệt tất cả làng mạc, rẫy ruộng, gia súc, đường sá, đầu độc tất cả suối khe, đưa tất cả vùng đất chết này vào mảng đỏ tự do đánh phá. Địch phải đổi tên nhiều lần khi bị “bọn nhà báo ác ý” cố soi móc những vùng như thế: từ Free Destroy Zone (vùng hủy diệt tự do), sang Free Bomb Zone (vùng bom tự do), nay gọi kín đáo hơn là Special Strike Zone (vùng đánh phá đặc biệt).
Vào cuối chiến dịch, một phòng tuyến cực mạnh sẽ được xây dựng dọc theo dòng Nam-Bắc của các sông nhỏ từ núi Ngọc Linh chảy xuống hợp thành nguồn Thu Bồn, cứ tiếp theo chướng ngại thiên nhiên ngăn cách hai vùng Đông-Tây ấy, xuống quá khu công nghiệp Nông Sơn-An Hòa một quãng xa mới thưa dần ra trên vùng đất phẳng. Các đồn ấy do quân ngụy đóng để làm phần việc bình định nông thôn, còn quân Mỹ nhận vai trò chủ lực cơ động chọi nhau với Vi-xi không hề che giấu, đúng theo bản ký kết giữa tổng thống Giôn-xơn với Thiệu-Kỳ ở Hô-nô-lu-lu năm ngoái. Đại tướng Oét-xty, tức Oétx-mo-rơ-len, cùng bộ sậu tướng sĩ tượng thở phào nhẹ nhõm: thế là hết vướng các thứ bao bì sơn phết, chúng ta cởi trần mặc xi-líp mà đánh vật với cộng sản cả Bắc lẫn Nam. Xem ai hơn ai!
Cứ thế, điện và thư hỏa tốc tuôn từ trên xuống. Điện chỉ để báo tình hình. Thư mới viết về ta, nhiều bức xem xong phải hủy, ba bốn đồng chí cùng cố học thuộc lòng.
Các phái viên của khu và quân khu kéo xuống liên tiếp. Phần lớn làm được việc, nhưng cũng có những tay vừa dốt vừa ba hoa, làm tham mưu mà không biết gì về quân Mỹ, làm chính trị mà không biết tên đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. Lại có những vị lẩm cẩm: giữa lúc sắp đổ máu lu bù mà nhất định đòi “phát động toàn dân” nằm màn, tẩy giun, rỏ thuốc đau mắt, súc miệng nước muối. Đến khoản cuối cùng thì cả cơ quan cười ồ, vỗ tay, anh quản lý lên hoan nghênh nhiệt liệt và chỉ đề nghị tí xíu thôi: xin khu phát muối để chúng tôi súc xong thì uống luôn, địch đang bao vây muối rất gắt, trên khu nhận viện trợ của cả thế giới xã hội chủ nghĩa, chia cho tỉnh vài tấn muối mỗi tháng chỉ là con số lẻ thập phân! Cũng dể hiểu vì sao nhà y tế rất thương dân ấy chỉ gượng ấp úng vài câu về tự lực cánh sinh, khó khăn chung, và lặng lẽ cuốn khăn gói quả mướp đi hô hào nơi khác.
Trong số đoàn Cả Chanh và thường vụ làm việc thích thú và bổ ích hơn cả, có đoàn phái viên chung của Bộ tổng tư lệnh và quân khu, với một đại tá rất giỏi đứng đầu. Họ hỏi những câu xoáy như đinh vít, nghe rất kỹ, còn chia hỏi riêng tùng ngành, từng người, ngay từ đầu đã giao hẹn: “Chưa biết, xin cứ nói là chưa biết, hoặc hẹn lúc khác trả lời. Xin giảm tới mức thấp nhất những từ có lẽ, nói chung, ước chừng, đại khái là”. Chỉ qua một ngày bị vặn đến tháo mồ hôi, các đồng chí trong tỉnh ủy và tỉnh đội đã trông thấy vô vàn lỗ hổng trong hiểu biết và việc làm của mình.
Giữa buổi sáng thứ hai, anh chánh văn phòng lặng lẽ đến đặt trước mặt Cả Chanh một phong bì dán bao nhựa trong veo: “Dượng Sáu Nhơn gởi chú T.Trà-Thơ riêng, xin trao gấp”. À, thư tối mật và khẩn của bí thư khu ủy đây.
Chanh xin lỗi, bước sang chỗ gần đấy có bàn ghế tre chôn chân xuống đất, bóc xem. Có bản nghị quyết của thường vụ khu ủy gồm nhiều khoản. Phần Quảng Nam có mấy điều: y án tử hình vắng mặt tên Quốc Trấn, giao cho các đội võ trang công tác, an ninh giải phóng tìm cách thi hành.-Cho phép đồng chí Tám tức Trần Thượng Hiền rút khỏi tỉnh ủy và chức vụ chính ủy tỉnh đội theo đơn của đồng chí ấy gửi tỉnh và khu, điều ra Bắc để nghỉ ngơi, chữa bệnh, học thêm...
Chanh hỏi nhỏ anh chánh văn phòng:
- Ai cầm thơ tới?
- Anh Nguyễn Văn Chò, Năm Chò, em rể anh đó. Ảnh mới được đề bạt lên trung đoàn phó, có quyết định về làm tỉnh đội phó chỗ mình. Ảnh đang tắm giặt, đợi gặp anh để đưa mấy thứ nữa.
- Hay quá. Thằng chả là hà bá thổ công xứ Quảng này, đánh giặc từ hồi ta mới tuyên bố độc lập kia, tít trong Nam Bộ. Tỉnh xin miết, giờ khu mới cho. Ông hẹn giùm, cơm trưa xong tôi gặp nó.
Năm Chò hay gửi thư cho Chanh, vài tháng một lá, chữ nghĩa khá hơn trước, báo tin và hỏi tin nhà. Tiếng đồn Năm Chò bị địch bắt hóa ra tin vịt. Chò phải gửi thư cho vợ và cha mẹ vợ ở Linh Lâm, cho Cả Chanh, Hoàng Lan, Sáu Cam đang ở xứ tuyết xa tít kia nữa, để mọi người hết lo. Lâu nay anh chỉ huy một tiểu đoàn thuộc chủ lực khu ở quãng An Khê lên Plây-ku, kìm chân sư kỵ binh số 1, nay mới được về quê.
Lá thư riêng của anh bí thư khu ủy trên tay Chanh vẫn rung từng lúc. Năm Chò nhìn anh, chợt nhận ra:
- Sao anh Cả như người mất hồn vậy ta? Bịnh sao mà tái mét vậy? Chị Hai Thùy lo nuôi thương binh, chẳng ngó ngàng tới chồng rồi!
Chanh cười gượng, nhợt nhạt:
- Không, không, gì đâu... làm việc hơi căng, mệt... Cậu tiếp đi.
Năm Chò vẫn vuông vức như cái tủ gỗ lim đen. “Mình có ngọc rắn ngọc tre, bom chê đạn chừa, mấy chú em chưa biết à?”. Khi anh em đòi xem, Năm nói tỉnh không: “Coi sao được, bây. Thứ đó bắt được phải nuốt luôn vô bụng, cho nó ngấm tới xương thịt ruột gan chớ!”
Không thạo coi bệnh và coi tướng, Nãm Chò kể tiếp dài dài:
- Hồi đó em có bị bắt thiệt, anh Cả à. Thiệt tức cười. Em về huyện Tam Kỳ, đi coi địa thế ở chợ Cây Sanh, tới nhà con nhỏ cơ sở thấy nó đang nhuộm tóc. Hỏi một lát, rồi em nhờ nó mua cho thứ thuốc nhuộm tóc ra bạc, kèm thuốc tẩy nữa. Đem về thử thấy hay quá, chẳng phải rắc vôi trên đầu như hồi anh làm “cụ Thượng”, nghe kể vậy. Em mượn bà ba vá, vác cái đòn ống với cặp rọ heo, lần mò xuống tới gần quốc lộ Một. Là để coi tận mắt bọn ngụy của Mỹ khác ngụy hồi Tây ra sao, Mỹ khác Tây ra sao. Ai dè bị tụi Mỹ đi tuần chụp được. Nó bắt cởi áo, lục hết giấy tờ, nằm sấp đó đợi thông ngôn tới. Giấy tạm được, có biên lai thuế cử tri với tờ xác nhận mất thẻ nhựa căn cước vì cháy nhà, vụ đó nhiều vô số. Tụi nó kêu đứng dậy, nổi cười hí hố khi thấy cái mớ hình tầm bậy xăm chàm trên ngực với tay em. Em giả giọng ông già cũ kỹ:
- Chẳng giấu gì mấy ông, hồi xưa tui làm lơ xe, sau vô lính dù của Tây. Bày ra xăm cho thiên hạ sợ chơi. Dù không bung, mình thành bãi cứt trâu, kể số gì... Giờ già rồi...
- Già thì nhảy dù bà xã là vừa sức, ha ha ha!
- Úi, thượng mã phong thì tiêu! Đi lựa mua heo giống về thả chuồng...
Nghỉ xong, tụi nó bắt em vác một thùng đạn... quên, gánh hai thùng đạn về đồn. Còn hơn chục người nữa bị bắt khiêng bọn trúng mìn, cứ kêu trời tụi Mỹ nặng ký quá. Dọc đường nó còn đốt thêm mươi nóc nhà nữa, đốt cho đỡ tức vậy thôi... Nó giam em chỗ góc đồn Mỹ bốn ngày nữa để sai vặt, nhờ có tóc bạc nó không đánh. Em mặc sức coi Mỹ tận mắt từ sáng sớm tối giờ ngủ, cả quy luật tuần gác ban đêm nữa. Lính cổ da đã vậy, chắc các sắc lính Mỹ chẳng khác mấy. Trốn cũng dễ thôi, đi khuân vác rúc vô bụi là xong. Em nấn ná ở lại coi Mỹ coi ngụy, mấy khi mình lọt giữa rốn nó. Rồi cũng phải về, sợ anh em trông. Về tới huyện đội mới hay con nhỏ cơ sở ở Cây Sanh hốt hoảng báo tin em bị địch bắt, cỡ như chú Năm chắc phải đòn nhừ xương rồi. Em cười xòa, nói đi lạc chớ bắt bớ hồi nào. Vừa lạc, vừa gặp càn, phải lui ra gò hoang nằm với số trốn quân dịch.
- Sao cậu không nói thiệt cho gọn?
- Em không sợ địch, mà sợ cái số trâu già phế canh được đẩy về làm cán bộ tổ chức. Người tốt cũng có, nhưng quan liêu lạc hậu là phần nhiều. Số đó cày bừa trên lý lịch. Đọc tới hồ sơ của em, mở đầu là cai khố đỏ đã nói cảnh giác cách mạng lên, tới phần bị bắt nữa thì dấu hỏi to bằng đỉa trâu. Vậy là hạ bút đỏ phê luôn: “Lý lịch không rõ ràng. Cần thẩm tra đồng chí Chò có khai báo gì trong những ngày bị địch bắt, vì sao địch cho một tiểu đoàn trưởng trốn thoát dễ dàng”. Bấy nhiêu đủ chết toi thằng này rồi. Đợi tới ngày độc lập thống nhứt để xác minh được thì em chết trận hay chết già, xuống âm phủ mà tìm cái đứa cầm bút đỏ!
Năm Chò cười to, vỗ bốp vào đùi Cả Chanh khiến anh giật mình, cười gượng. Anh là bí thư tỉnh kiêm trưởng Ban tổ chức. Anh có chức quyền trong tay, khi tỉnh ủy là trụ cột của Quảng Nam chống Mỹ, thay cho tất cả các ngành lập pháp, hành pháp, tư pháp chưa thể ra đời trong hoàn cảnh này. Anh có làm gì chăng để đồng chí đồng bào lên án anh, trước mặt hay sau lưng?
Chanh cười buồn:
- Ta nói chuyện khác, Năm. Trên đang điều mình ra Bắc đây, đưa cả chị Thùy với con Thanh Bình theo luôn.
- Ủa... vậy chớ... ai thay anh?
- Thiếu gì người. Tỉnh ủy bầu, có thể trúng người sắc sảo xông xáo hơn mình, ít đau ốm hơn mình.
Lá thư anh bí thư khu ủy là một lời dỗ dành chí tình, sắp cử một đoàn quan trọng ra Trung ương. Trưởng đoàn là phó bí thư khu ủy, Chanh sẽ ghép vào khi đoàn đi qua Bắc Quảng Nam, khoảng nửa tháng nữa. Nhiệm vụ của Chanh là bàn giao cho phó bí thư tỉnh, thu xếp cho vợ con cùng đi với các nhóm trẻ em và phụ nữ đau yếu theo dường dây ra Bắc như đã làm từ 1965 đến nay. Đến Hà Nội, đoàn sẽ báo cáo và góp ý vào các dự thảo kế hoạch. Trong khi đợi Trung ương họp duyệt, mỗi đồng chí có trách nhiệm chữa bệnh, chữa các vết thương cũ, đi tham quan nước ngoài, dự một số hội nghị quốc tế dể mở rộng hiểu biết, chỉ trừ một số phải về gấp để phổ biến nghị quyết. “Cho dù không có cuộc họp ở Trung ương, mình cũng khuyên cậu nên đi. Chữa bệnh, nhất là nên học hỏi thêm. Cậu mới 47 tuổi mà đã đổ máu và mồ hôi trên dải đất này tới 28 năm, từ nhà tù năm xưa tới cuộc chiến tranh cục bộ ngày nay, là hột gạo trên sàng, vốn quý của Đảng của dân. Nhưng ngày càng rõ, chúng ta đều dễ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, bị cùn mòn đi. Khó khăn mới ùa tới, những bài toán hóc búa nẩy ra, chúng ta lại mở kho kinh nghiệm lấy ra những bài bản lỗi thời từ lâu để tìm cách gỡ bí...!
Anh đã đánh trúng chỗ yếu nhất của Chanh. Nói những chuyện đau ốm thì Chanh đã nhàm: mười người “ân cần thăm hỏi” thì chín người rưỡi quên ngay trong ngày, còn lại nửa người thì “Chậc, anh em dưới còn khổ gấp mấy”. Chỉ đưa cái dốt nát gây tai họa ra mới khiến Chanh giật mình.
Thùy đã có thai hơn ba tháng, ra Bắc sinh là phải. Con Bình mười hai tuổi, đủ sức theo các bạn thiếu nhi ra học, không thể tập viết trên lá chuối mãi được. Và anh ra đi cũng phải...
Con chó Dồ đi tuần xong vài vòng quanh khu lán, đến đứng bên Chanh trông chừng ông khách lạ. Ông chủ vỗ đầu nó, nói dịu: “Chào khách đi, Dồ!”. Nó sủa khê vài tiếng, vẫy đuôi, rồi rón rén đến bên Năm Chò, ngửi quanh người để nhớ mùi riêng ông bạn mới của chủ. Chanh bỗng thấy đau buốt đâu trong ngực: sẽ phải chia tay với con vật hết sức trung thành và thông mình này nữa.
- Lại đây, Dồ.
Nghe giọng và liếc nhìn mặt chủ, nó biết sẽ được hưởng đôi phút thương yêu kín đáo của chủ. Nó đến bên và nhẹ nhàng kê đầu trên đầu gối Chanh, đón bàn tay vuốt từ gáy tới lưng, và đón liếm bàn tay ấy khi buông xuống. Phần thưởng chỉ cần bấy nhiêu là đủ cho nó lao vào chết thay cho chủ.
Dồ là con cung của cơ quan tỉnh ủy. Nhưng vẫn có những lời đồn nghiệt ngã trong hàng cán bộ, cả những người làm cách mạng lâu năm nhưng cái khối phong kiến gia trưởng vẫn vón cục trong óc: vợ là kẻ dưới phải dạy, con thì già đòn non lẽ, giống chó là vật nuôi dạy chó trinh sát hay chó cấp cứu rất công phu, họ bĩu môi coi như chúng nó thừa tiền rửng mỡ. Phần Cả Chanh, sau khi bị chê trách là chỉ biết lo cho vợ con-dù Thùy ở tổ may hậu cần xa cơ quan tỉnh ủy, sau về làm cấp dưỡng bệnh xá càng xa hơn nữa, và con Thanh Bình là đứa trẻ nuôi sai vặt để thương binh gọi liên miên-còn bị thêm tiếng xấu là coi chó hơn người.
Những người biết rõ chỉ cải chính dè dặt để tôn trọng dân chủ nội bộ, cứ thế đưa hết lên trên bởi lẽ “người nói vô tội, người nghe được sáng”. Nếu sáng quá chịu không nổi, trả chức rút lui, thì đã có ông Gia Cát Lượng là ba anh thợ giày lên thay thế. Ba anh thợ giày cãi nhau, đánh lộn nhau, thì trong số ba người cùng đi đường đã có một người có thể làm thầy... Cái nếp nghĩ đặc sệt nông dân cũ kỹ ấy vẫn còn được mang vào cuộc chiến tranh dữ dội này, khi kẻ thù mạnh nhất thế giới đang hủy diệt dân ta, nước ta bằng những thứ giết người gần như khoa học viễn tưởng.
Cuộc họp trong lán nghỉ mười lăm phút. Chanh chỉ giới thiệu Năm Chò với anh em chưa quen, còn cánh ở tỉnh thì đã đấm, vỗ, huých Năm ngay từ đầu, kéo vào lát nữa họp luôn.
Máy bay L.19 từng cặp đã quần liên miên mấy hôm nay. Loại AC.47 hay treo đèn nối phiên nhau, thả đèn dù và xối đạn đại liên xuống những chỗ đáng ngợ dưới rừng đêm.
Một chiếc hai động cơ khá to bay lừ lù qua rất chậm, cõng trên lưng một vật gì như cái dù đi mưa dẹt hay cái lọng đan bằng dây thép thưa, đường kính bằng một nửa sải cánh. Nó bay vòng những hì