Chương 15
Bước xuống khỏi các bậc thềm của thư viện, Cam gặp ngay làn mưa tuyết cuối mùa rơi xuống, rất thưa và êm như lời chào lưu luyến của rét đông đang thong thả rời Mát-xcơ-va lui về phương Bắc. Nền mây trên thành phố vẫn trải đều như cốt chăn bông, nhưng sáng hơn, tươi tỉnh hơn, rải những bông tuyết hình tổ chim yến bay ngang dọc và như rất thích bay ngược lên cao, theo kiểu lượn của nhũng bông hoa rau tàu bay thân già cao trên các rẫy cũ Tây Nguyên.
Trong nội thành Mát-xcơ-va, mùa hè đến sớm hơn ở ngoại ô. Các thùng muối chống băng trơn xếp dọc các vỉa hè đã biến mất. Các ngấn tuyết trắng đắp nổi trên các biển nê-ông chào hàng đã tan chảy cùng với những chòm râu băng buông tua tủa từ mép các ống tháo nước các tầng nhà cao xuống cống. Từng đoàn xe xúc và thổi tuyết ra xa đã trả lại ánh sáng cho những cửa sổ hai lớp kính bị ngập tuyết đến ngang lưng, và xe ben chở đi đổ vào các rừng hay sông ngòi, tránh cho các đường phố bị ngập nước khi tuyết tan. Chỉ cần vài ba ngày nắng ấm là nội thành Mát-xcơ-va được rửa sạch bằng nước tuyết. Tuy toàn thành Mat-xcơ-va đã được thông báo rằng trượt băng hay đi bộ trên sông ngòi là rất nguy hiểm, vì băng mỏng và nhiều nứt nẻ, nhưng chỉ có dân nội thành nghe theo, còn dân ngoại thành cứ phớt tỉnh khi qua sông bằng những tấm ra-két như quần vợt, không cán lắp dưới giày.
Xnhég, biê-lưi xnhég... Bài hát đón mừng tuyết ấy, Cam đã thuộc. Và anh đã hết ngạc nhiên khi cuối giờ học chiều, bước ra lại thấy trời màu xanh chứ không phải màu tím nhạt như khi nhìn qua cửa sổ. Người dân Nga nguyền rủa những mùa đông ít tuyết, vắng tuyết. Các lễ hội trên xe trượt tuyết đành bó tay, còn những cánh đồng lúa mì thiếu nước tuyết tan sẽ khô héo sớm, đến cỏ cho bò sữa cũng tàn lụi. Đói, sẽ đói nặng.
Người Mát-xcơ-va nói chuyện ngoài phố không còn phun khói qua mồm, cũng khỏi phải giữ cho giá buốt cắn vào mặt mũi như cháy bỏng tuy khắp thân đã trùm kín những thứ lót lông thú trông như con gấu Mi-sa trẻ con chơi. Các đội thợ xây nhà và trồng cây làm tiếp việc bỏ dở, còn các đơn vị công binh đang sắp sẵn những khối mìn phá băng cho tháng Tư sắp tới, đẩy băng trôi gấp theo nước sông để mở đường cho tàu thủy chạy. Các chàng trai cô gái trẻ phớt đều gió lạnh còn chen giữa những đợt gió Nam nóng ẩm, chuyển sang mặc blu-dông nhẹ và áo len đan, phải nói là đan khá vụng so với hàng Việt Nam.
Cam ghé vào phòng chờ bên bàn của bác thường trực tóc bạc. Đôi bên chỉ gật đầu chào nhau theo lối người thân. Cam rút tờ báo Iz-vex-chia hôm nay ra tìm tin mới về Việt Nam. Chợt bác kia chìa cho Cam mảnh giấy của Ô-léc gửi nghiên cứu sinh Phan Cam, tiếng Nga mở đầu, tiếng Việt sai lung tung nối tiếp: “Anh Kam về trướk và an trướk không nên chờ tôi, tôi fai tian một ban gáy. Chuên ngiâm chinh suât đòi thât đái ma”!
Cam bật cười khẽ, nhét tờ báo vào túi áo khoác, gật đầu chào bác thường trực, đi qua cổng đến bến xe trô-lây chờ chuyến đúng số đúng tuyến.
Một năm rưỡi qua từ ngày Cam đến thủ đô Liên Xô. Chế độ nghiên cứu sinh rộng hơn và dễ dãi hơn chế độ sinh viên đôi chút, Cam được xếp ở buồng nhỏ một người trong khối nhà nội trú to tướng của trường Đại học tổng hợp Lô-mô-nô-xốp, khu kiến trúc khổng lô trên đồi Lê-nin, với quang cảnh tuyệt đẹp nhìn xuống sông Mát-xcơ-va và sân vận động Lê-nin. Chỉ phiền một nỗi là đường đi học quá xa: khoa Ngữ văn mà Cam theo học lại đặt ở cơ sở cũ của trường MGU, Báo chí, Sử, và cả Học viện các ngôn ngữ phương Đông.
Cậu Ô-léc mới chẵn hai mươi khi vào học tiếng Việt ở học viện ấy, vì điểm thi vào các trường trên trung học quá cao, trong khi trường Ngôn ngữ phương Đông đang mở rộng cửa. Tiếng Trung Quốc khó phát âm và chữ viết tượng hình quá khó nhớ. Tiếng Nhật càng hiểm hóc nữa, ai lại một thứ tiếng mà sách báo dùng chữ chân, viết tay dùng chữ thảo, hàng xuất khẩu dùng chữ la-tinh được gọi là La-mã-tư. Và, để bức tường ngôn ngữ thêm cao dày, họ gài khắp nơi những chữ hán đọc theo kiểu đa âm tiết Nhật hoàn toàn khác gốc hán một ngữ pháp độc đáo với tất cả động từ dồn vào cuối câu. Trước đây Cam học tiếng Pháp, Nga, Anh khá nhanh, đã thử mó vào tiếng Nhật qua sách và đĩa dạy phát âm, chỉ vài tháng đã rút lui có trật tự.
Cam đến ở chung với gia đình Ô-léc sau lễ Năm Mới.
Bước vào năm thứ nhất khoa tiếng Việt, Ô-léc luống cuống đến hoảng sợ. Chữ viết đơn giản, ngữ pháp quá dễ so với tiếng Nga, nhưng khi nói thì uốn lưỡi như hát từng đốt nhạc, có khi từng chùm đôi, chùm ba. Suốt học kỳ một, Ô-léc chỉ được điểm hai và ba về phát âm, đã chán định bỏ cuộc, nhưng được bà mẹ dỗ dành mãi nên không rời trường.
Cả nhà Ô-léc gắn bó với Việt Nam nhiều năm.
Ông bố Ô-léc, kỹ sư cơ khí hàng không, đã sang giúp Bắc Việt Nam xây dựng ngành hàng không dân dụng từ 1955 đến 1960. Sau hai năm ông về phép, khuyên vợ con nên sang ở Hà Nội ở với ông. Xứ nóng đấy, nhưng chế độ chuyên gia rất khá, nhất là tình cảm của người Việt. Chỉ cần nói “tôi chuyên gia Liên Xô” là mọi người tươi mặt niềm nở.
Hai vợ chồng cùng sang Việt Nam với Ô-léc mười một tuổi và em gái lên sáu là Tô-nhia. Bà Ôn-ga giáo viên cấp một có việc làm ngay: mấy chục trẻ em, con cán bộ đại sứ quán và các chuyên gia đang thiếu người dạy, không thể mở trường chính quy vì học sinh quá ít. Bà mở lớp ngay trong khu chuyên gia gần công viên Thống Nhất với hai cô giúp việc người Việt đã học ở Liên Xô, dạy giờ theo hợp đồng. Các em thích mê mỗi khi được dẫn đi học trong công viên, tuy mới làm dở dang nhưng vẫn thoáng mát. Ô-léc và Tô-nhia được sống ba năm thoải mái với bố mẹ trong khung cảnh ấy, không biết rằng người anh cả của mình bị khốn khổ đường tình duyên.
Anh An-đrây mê một cô diễn viên kịch nói, lấy cô khi học xong lớp sĩ quan không quân cách đây bốn năm. Đơn vị anh đóng trải dài dọc biên giới Tây-Nam, giáp với Thổ-nhĩ-kỳ, I-ran, Ap-ga-ni-xtan. Chị vợ nhất quyết không rời Mát-xcơ-va, là nơi chị sinh ra và lớn lên, cũng chỉ ở đấy mới có những người đánh giá đúng tài năng của chị. Nhiều chàng trai mê nhan sắc đã tán đến mức tôn chị lên thiên tài, lên hoa hậu, lời chê mấy lão đạo diễn và viết kịch bản là mù và điếc, chê chồng chị coi vợ không bằng nghề tài-xế tàu bay. Chỉ sau hai năm, chị đã vất trước mặt chồng lá đơn xin ly hôn, với lý do: “tính nết và nếp sống trái ngược nhau”. Ký xong, anh thở dài: “Còn may chúng ta chưa có con với nhau”. Chị vợ cáu kỉnh: “Anh tưởng tôi vô sinh đấy hẳn? Tôi đã nạo thai một lần trong cái đợt anh đi bảy tháng không về. Đừng tiếc, con của người khác chứ không phải cái nòi giống bạc bẽo nhà anh đâu!”
Tòa án cố hòa giải không được. Anh nhường chị căn hộ hai buồng, ra đi với một va-li nhỏ đồ dùng riêng và một thùng bìa cứng to đầy sách. Về đơn vị, anh gặp một thông báo của Không quân chọn người tình nguyện lái máy bay tiếp tế cho các trạm nghiên cứu ở Bắc băng dương và Nam băng dương. Lương cao, phụ cấp nhiều, nhưng được ghi rõ là nhiệm vụ nguy hiểm. Lâu nay anh chuyên lái máy bay vận tải của Không quân bay qua những đèo núi cao quanh năm tuyết phủ, những hoang mạc gió tung bão cát, nay anh muốn đi nơi nào thật xa, thật váng vẻ, để chờ vết thương ở tim kéo da non.
Qua vài tháng tu nghiệp và bay thử, anh được chọn vào đội bay cực Bắc. Vừa lúc ấy cả nhà anh từ Việt Nam trở về nhà cũ ở thủ đô, hai đứa em Ô-léc và Tô-nhia mới biết nỗi đau của anh An-đrây mà cả bố mẹ cũng cố giấu.
Ô-léc bắt chuyện làm quen với Sáu Cam trong khi chờ xe trô-lây. Hai chuyến xe khác nhau nhưng chỉ cách một phút, và Cam thường ra sớm để về khu tập thể MGU. Ô-léc tập nói tiếng Việt-tuy về nước đã sáu năm nhưng vẫn còn tí Việt Nam đọng lại từ thời thơ dại-Cam sửa giọng và nhắc từ ngữ.
Chỉ sau vài tuần cùng chờ xe như thế, Ô-léc đã mến anh nghiên cứu sinh có nụ cười hiền lành và nói tiếng Nga rất khá, cố kéo Cam về nhà mình chơi. “Anh sẽ thấy, cả nhà em là một ổ thân Việt Nam. Chỉ tiếc bố em không còn, ông ấy rất chịu khó học, lắm khi làm việc với kỹ sư bên nước anh không cần người dịch”. Ông về nước được hai năm thì tử thương trong một tai nạn ô-tô. Trước khi chết ông còn làu bàu: “Một cái chết ngu ngốc nhất trần đời. Qua gần hết chiến tranh vệ quốc, chỉ dính đạn đôi lần. Ở Hà Nội cứ khỏe như vâm... Nghề hàng không mà lại bị xe chẹt giữa phố thủ đô!”
Gia đình Sec-pu-khin gặp nhau đông đủ trong lễ Cách mạng tháng Mười. Anh An-đrây cũng về. Anh trẻ hơn Cam hai tuổi, thừa hưởng của ông bố cái vóc một mét chín lăm và bộ râu rậm cùng cái tính hay tán phét như người Việt nói trạng. Bị vợ bỏ nhưng anh chẳng có tí gì u sầu giống Ô-nhiê-ghin hay Pét-sô-rin cả, cứ cười hô hố và vỗ đùi người ngồi gần nhất bôm bốp. Ngay từ câu đầu, anh đã gọi Cam bằng tư và chia động từ ngôi nhì theo số ít, kiểu cậu, tớ rất xả láng.
Bà Ôn-ga khác nhiều. Bà đẫy người, tóc và mắt đều màu nâu nhạt nên khó đoán được vui buồn. Sau khi góa chồng bà xin về hưu. Căn hộ ba buồng với các tiện nghi được giữ nguyên, với nạn khan nhà ở Mát-xcơ-va như thế là rất khá. An-đrây ủy lương cho mẹ vì mỗi năm chỉ về nhà vài lần, cộng với lương hưu của mẹ cũng đủ sống tùng tiệm và nuôi Tô-nhia ăn học. Học bổng ba phần tư của Ô-léc chỉ đủ cho cậu ta may sắm và đãi các bạn gái-cậu ta có quá nhiều bạn gái, Tô-nhia không ưa cái tật ấy, hay đá móc rất đau cho Ô-léc nổi khùng.
Ôn-ga và Séc-pu-khin không thờ Chúa nhưng vẫn thích các cuộc vui trong lễ Giáng sinh với cây thông Nô-en chấp chới đèn màu và treo các gói quà lủng lẳng, với ông già Tuyết đắp dưới sân cắm một củ cà-rốt làm mũi. Tất nhiên Cam bị lôi đến. Trong khi chờ ăn bữa nửa đêm, anh An-đrây cù cho cả nhà cười nghiêng ngả:
- Bay ở cực Bắc hả? Hễ lái chính không nhìn thấy lái phụ trong khoang, đó là trời mù. Có cách khác chứ. Tàu biển bị kẹp cứng giữa băng, máy bay đi tìm, hễ thò tay ra ngoài đụng cột buồm thì trúng chỗ rồi.
- Gió thì đủ dùng. Các trạm thám hiểm đều dựng cột treo ống đo gió, bị giật đứt cả. Anh em nghĩ ra sáng kiến: dùng một vỏ bom lép của Đức loại nửa tấn, cưa bớt đi, thế là được một ống đo được gió năm trăm ki-lô-mét/giờ.
- Anh lập được kỷ lục thế giới về lái máy bay vận tải, là cho máy bay bay lùi. Biết sao không? Bão tuyết thổi ngược chiều, sức gió mạnh hơn sức cánh quạt. Không hạ cánh được, xuống thấp là bị bão dập xuống như đấm vào gáy, nát bét cả. Cứ thế anh nổ máy cho bay lùi khỏi sân ngót trăm ki-lô-mét. Đáng ghi vào sách Ghi-nétx quá đi chứ.
- Ở đây, đánh đổ một bình sữa hay can xăng xuống đất là mất toi, quá phí. Chỗ anh, đổ thứ gì xuống thì vẫn y nguyên, chỉ thò tay xuống bưng lên như tấm kính, nếu là sữa thì cắn nhai rau ráu, kèm theo một tấm cà-phê ăn kèm cho đậm.
Sáu Cam giữ ý không đến nhà Ô-léc quá nhiều, do mặc cảm của một nghiên cứu sinh nghèo. Nhưng đến lễ Năm Mới, chính An-đrây lại đến tận nhà ký túc trên đồi Lê-nin tìm Cam:
- Hai ngày nữa tớ lên cực Bắc rồi. Đi, đi ngay, cả nhà chờ cậu. Lại kiểu cách lối dân châu Á rồi, đợi túm tay lôi đi hả?
- Nói nhảm! Cậu đã ở châu Á bao giờ đâu?
- Chưa ở, mà tớ biết, ủng dạ đâu, áo khoác đâu? Mũ lông? Đừng nghĩ chuyện mua bánh hay rượu mang đến, rồi qua tháng giêng gặm bánh mì suông trừ bữa. Tác-xi đang đợi dưới kia, cậu làm điệu nữa thì mình phá sản vì tiền xe chờ.
Cuối bữa tiệc gia đình ấy, An-đrây làm bộ chợt nghĩ ra:
- Mà này Phan Cam, sao cậu không đến ở chung với chúng mình nhỉ? Mẹ mình với Tô-nhia một buồng, con bé chưa đến tuổi tiếp bạn trai trong buồng riêng (Tô-nhia nguýt anh rất dài, hai gò má chưa hết lang ben vụt đỏ rựng). Thằng Ô-léc lắm bồ nhưng còn biết sợ lưu ban, lại mến cậu lắm đấy, coi cậu là cái gương cho nó noi theo, nhưng theo sau cách một quãng xa xa thôi. Mẹ mình thì chẳng phải nói, nhắc mãi là tuổi trẻ Việt Nam hơi khắc khổ một tí nhưng đầy chí khí trong chiến tranh và kiến thiết... Khu phố Zve-nh-gô-rốt này đang xây dựng lại, có hàng loạt nhà ở, cửa hàng, câu lạc bộ, công viên, chợ nông trang, đường tàu điện ngầm đang mở dần tới đây. Mà chưa xây dựng thì cậu với thằng Ô-léc cũng đi học rất gần, bằng trô-lây hay xe buýt. Gớm, mình đến lâu đài khoa học của cậu, sao mà xa xôi rắc rối đến thế!
Cam chưa đáp ngay, chỉ nhìn quanh một vòng và gặp những đôi mắt đăm đắm chờ một lời đồng ý. Cam không thể nhận, dù biết cả nhà đã bàn mọi lẽ trước khi mời.
Bên nước ta, nhất là vùng nông thôn hay miền núi, vẫn quen nếp nghĩ “ăn hết nhiều, ở chẳng hết bao nhiêu”. Với bộ đội, ở càng dễ hơn nữa, nhà cửa nằm sẵn trên lưng, khi ngủ nhà dân thì một tấm chiếu hay cánh cửa ngả xuống là xong. Bên này ngược hẳn, tiền ở vượt tiền ăn khá xa. Chác hẳn bà Ôn-ga sẽ không bao giờ nhận tiền thuê buồng và các khoản sưởi ấm, điện, nước nóng và lạnh. Nếu bà chịu nhận thì Cam cũng không đủ sức trả. Từ chối sao cho khéo để khỏi mếch lòng...
Thấy Cam trầm ngâm hơi lâu, bà On-ga nói thẳng:
- Con nên nhớ, chỉ trừ thằng An-đrây, còn hai bác với hai em đây đã sống trong tình thương quý của người Việt suốt nhiều năm. Hồi ấy nước cháu đang còn đói khổ lắm, mà các bạn Việt Nam đã... nói thế nào nhỉ... ờ, nhịn miệng thết khách. Có lần con bé này kêu thèm ăn táo và lê như hồi ở Nga, cô giáo nghe được và nói lên cấp trên sao đó. Một tuần sau, tất cả trẻ trong lớp của bác được phát mỗi ngày một quả lê hay táo, có khi hai quả. Ở xứ nhiệt đới đào đâu ra những quả to và ngon như thế, bác chịu phép... Cam ạ, đừng đắn đo gì nữa, về sống với bác cho vui cửa vui nhà. Đừng để bác thất vọng nhé!
Cam luống cuống đưa ra những lý cuối cùng:
- Cháu ngại... một người nước ngoài bỗng dưng bước vào gia đình... An-đrây và các em không tự do nữa...
- Chúng nó quá tự do rồi đấy. Cả nhà bàn rồi: bác với Tô-nhia chung một buồng, cháu với Ô-léc một buồng, phòng khách dùng công cộng, An-đrây lâu lâu tạt qua thì một tấm nệm trên đi-văng là đủ.
- An-đrây không thể độc thân mãi...
Chàng phi công cao lớn bật cười ồ:
- Có tìm vợ đấy. Mình tán tỉnh một cô gấu trắng cực Bắc, xinh ơi là xinh, đứng hai chân chỉ cao hơn mình ba tấc thôi. Mình ném mời thịt hải cẩu hay cá tươi, cô hạ cố chén sạch. Nhưng khi mình đến gần, tán sát sàn sạt, cô ấy nổi cáu và tặng mình một cái tát có thể bay nửa mặt, may mình né kịp. Rồi cô ấy vừa chạy vừa gào như gái tơ bị thằng híp-py chọc nghẹo!
Mọi người cười đến chảy nước mắt. An-đrây chờ yên tĩnh lại mới nói tưng tủng kiểu cù không cười:
- Mình sắp bay tiếp lên vùng băng giá, tạm gọi là thiên đường của những người muốn quên. Vườn địa đàng xưa cần có một nàng E-va, một cây táo, một con rắn, mới tạo nên sự cám dỗ và tội đi đày. Cả ba thứ ấy trên cực Bắc đều không có, phúc đức cho mình lắm lắm... Thật tình đấy Phan Cam ạ, mình sẽ rất vui mừng nếu trong nhà có một người thay mình làm anh lớn để chỉ bảo các em và... và giúp mẹ mình khuây khỏa đôi chút. Cậu gạt bỏ là phụ bấy nhiêu tấm lòng thành. Người Việt giàu tình nghĩa lắm kia mà, Cam!
Cam ngồi lặng cá dăm phút nữa, rồi đến nhấc tay bà Ôn-ga lên, hôn nhẹ. Bà kéo tấm tạp-dề lên lau mắt, đi vội vào bếp.
Sáu ngày sau, Ô-léc đến giúp Cam dọn nhà. Áo quần ấm mặc hết trên người, chỉ còn sách và sổ ghi chép là nặng, gần hệt như khi An-đrây chia tay vợ.
Lủng củng đầu tiên xảy ra khi Cam nhờ Ô-léc đưa tiền trọ cho bà Ôn-ga. Chỉ sau mươi phút, bà đã xô cửa vào phòng Cam mà không gõ trước. Mặt đỏ bừng, bà đập xấp giấy bạc xuống bàn và sừng sộ. Cũng kiểu xưng hô thân mật bằng tư hằng ngày, nhưng chỉ có thể hiểu là mày tao:
- Mày coi tao thế nào hả Cam? Chúng tao nghèo, mà chưa tới mức nằn nì mời khách ở trọ. Học bổng của mày bao nhiêu tao biết, mày đưa thế này rồi nhịn đói à?
Ô-léc phải can mẹ nhiều, Cam xin lỗi khá lâu bà mới chịu bỏ qua, nhưng đặt điều kiện là Cam sẽ ăn sáng và tối ở nhà, riêng bữa trưa không về được mới ăn ở căng-tin nhà trường. Lắm khi bà Ôn-ga làm được thứ gì ngon, bà để dành một phần trong tủ lạnh và buộc Cam phải mang theo ăn trưa. Mày cũng hệt ông chồng tao hồi trước, Chúa độ linh hồn ông! Hễ bận thì ăn chỗ làm việc, nhai một khúc bánh mì kẹp thứ gì đấy chả biết, mắt dán vào sách hay bản vẽ, uống vội cốc nước chè nguội, lại hối hả ra đi. Đa-vai, đa-vai, ông giục mãi thế đến nỗi kỹ sư Việt Nam chế ông là “đồng chí Đa-vai”, hình như tiếng Việt có nghĩa là “ôông Lam đi”, chắc bác nói sai giọng.
Một tối hai anh em Ô-léc và Tô-nhia ham trượt băng về muộn, Cam ăn trước để đi nghe báo cáo tình hình Nam Việt Nam ở cơ sở chính trường Lô-mô-nô-xốp. Bà Ôn-ga dọn cho Cam ăn trước, ngồi chống hai tay trước cằm theo kiểu quen thuộc, bỗng nói như buột miệng:
- Này Phan Cam, con không thích gọi mẹ bằng mẹ ư? Sao cứ phải là chio-chia chứ không là ma-ma?
Cái đĩa đang xóc miếng thăn gà rán suýt rơi khỏi tay Cam. Anh kêu như thổn thức:
- Ma-mốt-ska mai-a [1], con muốn lắm chứ mẹ!
- Xư-nốk-moi.Ăn đi con, cho kịp đi họp, mẹ chờ lũ trẻ.
*
Chuyến xe trô-lây về nhà, không có Ô-léc đang bận “chuên ngiam chinh”, vẫn đầy chật khách giờ tan tầm, Cam phải đứng níu tay vào thanh dọc trên đầu. Không đọc báo được. Cam xuống truớc một dặm đỗ, đi bộ cho dãn chân và đỡ chen chúc.
Lớp tuyết vừa rơi đã phủ một tấm trải giường trắng trên lớp cũ đã bị đất bên dưới và chân người xéo trộn thành xám bẩn, nhưng đám đông giờ này đã để lại một vệt sẫm trên vỉa hè. Cam thong thả đi theo vệt ấy vì không mang ủng dạ mùa đông.
Lá thư của Hoàng Lan gần đây nhất đang ám ảnh Cam.
... Tàu bay Mỹ đánh ra miền Bắc đang tới gần Hà Nội anh ạ. Các cơ quan đang sắp xếp để sơ tán, nay chưa đi. Em có hai đứa còn đỡ, mấy chị đông con lo cuống quýt. Một nhà chia hai bếp đã khó, con lớn theo trường hai ba nơi nữa thì ăn ở sao cho đủ.
Em được nhiều tin dữ từ miền Nam gửi ra. Không thể giấu anh hoài. Em đạp xe đi hỏi lung tung, ra vầy nè: anh Năm Chò bị thương nặng mê man, địch bắt chẳng biết, đang bị nhốt ở trại Phú Quốc. Em nhờ một anh quen dẫn tới hỏi Ban thống nhất, các bác ở đó chưa có giấy báo chính thức của quân đội thì đừng tin ngay. Em thấy có lý lắm. Hồi đánh Pháp cũng như bây giờ, người có chồng con ra trận xa, vắng thơ từ vài năm, cứ phải nghe rỉ tai tối mật là chết rồi, hay cụt chân, mù mắt. Như chị Sáu Thể ở bệnh viện em, chồng đi B năm 60, tới 63 có tin ảnh bị bom B.52 tan xác. Em hỏi anh Lê Tùng, ảnh kêu là “nói dối không sách” năm 63 Mỹ chưa dùng B.52 ở miền Nam. Thiệt đúng đó anh, cách đây hai tháng ảnh trở ra họp chiến sĩ thi đua, chẳng sứt mẻ gì hết. Té ra ảnh đánh giặc trong biệt động Sài Gòn, thơ từ gởi ra Bắc rất khó mà dễ lộ. Còn may là chị Thể chưa đi lấy chồng khác!
Tin nữa là làng Linh Lâm quê anh bị bom lửa hủy diệt nhiều lần sau khi ta tràn xuống làm chủ phần lớn huyện Tây Quảng. Tin này chắc chắn đúng, em hỏi mấy anh ở Quảng Nam với Tây Quảng ra chữa bệnh đều nói giống nhau, tụi nó nhắm không lấn lại được thì phá cho nát phía sau lưng mình. Nhà ba má anh không hư hại gì mấy. Ba anh làm như hồi chống Pháp là tự giỡ nhà đưa vô chỗ rậm khuất, lò rèn vẫn rèn, máy may có chị Năm Bưởi với Út Hiền làm. Em chưa được về Linh Lâm bao giờ, chưa gặp ai trong nhà chồng, nhưng cũng đoán được cảnh sống trong ta dưới bom đạn tăng gấp mười lần hồi Pháp.
... Đôi lúc em phải nghe những lời không vui. Lắm người đánh giá thiên hạ bằng cái thước đo trong mắt họ, như trong ống dòm quân sự. Có kẻ là công chức lưu dụng, không hề dính tới cách mạng và không bao giờ muốn bắt chước “bọn khờ dại” như anh Thống và chúng ta, nay xếp lương lại ngang mọi người thì khóc than liên miên. Lại có những người chỉ nghĩ đi nước ngoài là buôn bán làm giàu, trong đó có cả cái tay cán bộ tổ chức luôn luôn tỏ vẻ “lập trường vững” cũng đến nhờ em viết cho anh mua giùm cả ra-đi-ô, mô-tô, tủ lạnh. Em chỉ cho lão ta thấy căn buồng em trần trụi ra sao, lão chuyển sang giọng “ân cần thăm hỏi” như báo hay đăng, chỉ năm phút sau đã hí hoáy ghi các thứ lão cần và dặn mua cho đúng mác. Em suýt nữa nổi máu lính nhưng cố nhịn, chờ họp Đảng sẽ vạch mặt lão sâu mọt. Bao giờ bọn giun sán ấy mói bị tống vào hố xí?
... T.B. Tin mới nhất: có thể anh Cả Chanh sẽ ra họp một hội nghị mở rộng của Trung ương. Thường vụ tỉnh ủy Quảng Nam cũng buộc ảnh mang vợ con ra Bắc luôn, chẳng biết ảnh chịu nghe hay cứ giữ kẽ, sợ kém gương mẫu?
Hoàng Lan lâu nay vẫn thế, chỉ dành vài câu ngắn gọn về mình và hai con, thằng Nhứt và bé Bạch Lan, lấy tên theo cô bé Bạch Lan chết cùng một lần với mẹ trong trận bom ở Sông Vệ. Cam chưa quên được đêm ấy, khi Hoàng Lan một mình vượt cạn, Cam đi quanh buồng để và hút thuốc lá đến bỏng cả mồm. Cô hộ sinh quen chỉ hé cửa và gọi vội: “Gái, ba cân hai, khỏe lắm”. Bà y sĩ trực xồ đến đóng sập cửa ngay trước mũi ngườỉ chồng và bố đang đứng đi trên lửa. Hẳn bà đã có kinh nghiệm về những lang quân phát khùng vì vợ đẻ hàng chuỗi con gái, chửi xơi xơi khi vợ chưa tỉnh cơn đau đẻ khủng khiếp.
Trai hay gái đều là con mình. Cam nói thế và làm hệt như thế. Hoàng Lan chỉ biết ôm hôn chồng rõ nhiều, cũng hệt khi rõ chồng thật tình quý anh Thống và yêu thằng Nhứt như con đẻ. Khác hẳn những chị em có chồng đi nước ngoài, những lá thư của Lan không “kê đơn thuốc bắc” với một lô một lốc những thứ nhà đang cần, mà chỉ dồn vào sức khỏe và học tập của Cam.
“Anh vô vàn thân yêu, anh cứ theo đuổi chí hướng của anh tới cùng, đừng vướng bận vì vợ con. Anh đi Liên Xô hay vô miền Nam, em vấn đủ sức chăm lo cho các con ngoan và khỏe. Anh làm việc ra sao em biết rõ, hễ sa đà mải mê thì quên ăn quên ngủ, nếu chắt chiu gởi hàng về cho vợ con nữa thì luận án biến thành bệnh án mất!”
Lan gửi kèm thư một tấm ảnh 6x9 chụp ba mẹ con, mặt sau đề tặng “mẹ Ôn-ga và các em, cùng một ngàn cái hôn”, chữ Nga viết như trẻ em lớp một bên này và đổi sai cách hai chỗ.
Dù sao cái gia đình nho nhỏ của mình cũng yên ấm hơn bao nhiêu nhà khác trong cả nước, Cam nghĩ. Trông lên chẳng bằng ai, nhìn xuống chẳng ai bằng mình, so đo ganh ghét như lão gì cán bộ tổ chức mà Lan xếp loại giun sán, sâu mọt ấy sẽ la ó nhức tai khi bị vất bỏ, còn bị vợ con khinh ghét nữa.
Bước ra khỏi chiếc thang máy kiểu cũ chạy trong lồng sắt, Cam tự mở cửa căn hộ bằng chìa khóa riêng, cọ giày vào tấm nệm rơm, còn cẩn thận tháo giày và xỏ chân vào đôi dép nhung để sẵn dưới các móc treo mũ và áo khoác. Vài ngày bà Ôn-ga lau nhà một lần đến sáng bóng, bà than phiền nhiều vì ba người con đều mang nguyên giày đẫm bùn và tuyết chạy xổ vào nhà, in vô số vết chân to nhỏ trước khi chộp lấy những lát bánh mì kẹp dồi hay đùi lợn sấy, vội xuống với các bạn đang chờ dưới sân với những thanh trượt tuyết hay giày đế thép trượt băng. Cả An-đrây to đùng cũng làm hệt các em.
- Chúng mày không thấy Cam à? Anh ấy biết thương tao thu dọn đến đau cụp xương sống...
Cam nói với vào bếp “chào mẹ”. Làn này bà Ôn-ga không đáp gọn “Ờ, Cam đấy à” như mọi hôm. Bà bước ra phòng khách, hai tay lau vội vào tạp-dề:
- Con cho mẹ hỏi tí. Ngồi xuống nào... Gần đây mẹ thấy con buồn hẳn đi, không cười đùa nhiều như trước. Mẹ với các em có gì khiến con trái ý không? Hay là lủng củng ở nhà trường? Vợ con vẫn như thường chứ?
Cam như người từ nơi băng giá bước vào buồng sưởi ấm. Anh bồi hồi cầm tay bà mẹ Nga, nhìn khuôn mặt tròn rất phúc hậu, ấp úng một câu lạc đề:
- Mẹ tốt với con quá, con yêu quý mẹ vô cùng...
- Ừ, mẹ biết, mẹ biết. Thế tại sao con không vui?
- Mẹ xem truyền hình, thấy cả rồi đấy.
Bà Ôn-ga ngẩn người, ngồi lặng.
Đối với bà, chiến tranh chỉ là ba năm tản cư về vùng Trung Á-bà cùng An-đrây ở Bu-kha-ra, sau chuyển về Ta-sken, đều thuộc cộng hòa Uz-bê-kix-tan-với hai nỗi khổ vừa sức chịu: nỗi lo cho chồng đi sửa máy bay lưu động gần tuyến lửa, và những thiếu thốn ở hậu phương thời chiến. Ông chồng trở về yên lành, trong năm cuối chiến tranh ông góp sức cải tiến những chiếc Yak và sống với vợ con. Họ hồi cư về thủ đô khi chiến sự đã chuyển sang Đông Âu, căn hộ cũ không hư hại gì, và bà sinh Ô-léc chừng nửa năm sau ngày đại thắng.
Dù hay đọc báo và xem truyền hình, bà vẫn khó tưởng tượng được một xứ thuộc địa xác xơ có thể-trong cùng một năm 1945-vừa chết đói hai triệu người, vừa nổi dậy làm cách mạng lập chế độ mới, vừa đánh trả Anh Pháp Nhật, vừa nuôi báo cô hai chục vạn quân Tưởng Giỏi Thạch, vừa đối phó với bọn nội phản. Và cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ hai mươi này, đã diễn ra suốt hai chục năm qua, đến bao giờ mới dứt?
Đài truyền hình, phát thanh, các báo chí Liên Xô dồn dập đưa tin về Việt Nam, thuê không ít phim của phóng viên phương Tây ở miền Nam: quân Mỹ và chư hầu đổ bộ, B.52 ném bom rải thảm, 0.47 tuôn chất độc hóa học, cả những cảnh giết dân đốt nhà hay khiêng từng người ném lên M.113 cho đi “tị nạn cộng sản”.
Bà Ôn-ga không nói gì thêm, chỉ lặng lẽ vào bếp, nơi những miếng thịt bò rán trong sanh bắt đầu bốc mùi khét. Hai con bà cũng sắp về, đói ngấu sau chầu trượt băng, sẽ ăn như sói và nói với Cam bằng tiếng Việt hay tiếng Pháp-con bé Tô-nhia chọn ngoại ngữ tiếng Pháp. Cam phải nói ba thứ tiếng để luyện cho các em và chuyện trò với bà Ôn-ga.
Sau bữa tối, Cam đưa cho bà một mảnh báo cắt rời. Bà lấy kính lão trên mặt lò sưởi xuống-lò để trang trí thôi, vì nhà được sưởi bằng nước nóng-đọc chăm chú trong khi Cam mở đài truyền hình xem thời sự quốc tế, sốt ruột đợi những đoạn ngắn quay ở Việt Nam, tại trận.
Mảnh báo Iz-ve-xchia là một bản tóm tắt những sự kiện chính xảy ra nơi lò lửa nóng nhất thế giới từ đầu năm 1965 đến cuối tháng Ba:
- 27-1: Lại đảo chính quân sự ở Sài Gòn, cuộc đảo chính thứ bảy từ ngày lật đổ và giết Diệm -Nhu.
- 7-2: Máy bay Mỹ ồ ạt đánh vào miền Bắc trong khi chủ tịch HĐBT Kô-xư-ghin đang hội đàm với các nhà lãnh đạo VNDCCH tại Hà Nội, trong một cuộc viếng thăm đã được công bố trước nhiều ngày. Dư luận thế giới coi đó là một sự thách thức láo xược.
Cùng ngày, Mỹ đưa vào Đà Nẵng 24 bệ phóng tên lửa đất đối không loại Hoóc (Diều Hâu).
- 11-2: Đợt mới đánh phá miền Bắc. Thêm 30 bệ phóng tên lửa Hoóc vào Đà Nẵng. Các tàu chiến cũng chĩa sẵn những giàn tên lửa biển đối không.
- 20-2: Các tướng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu lật Khánh, nắm quyền. Là cuộc đảo chính thứ tám sau Diệm-Nhu.
- 24-2: Sứ quán Mỹ ở Sài Gòn thừa nhận muộn màng rằng các phi công Mỹ lái máy bay cường kích và tiêm kích có trực tiếp chiến đấu ở hai miền Việt Nam.
- 7-3: Bốn nghìn lính thủy đánh bộ Mỹ thuộc sư đoàn 1 đổ bộ vào Đà Nẵng. Sau những đợt đánh thử sức vào miền Bắc, ngày 2 và 7-3, các quan sát viên đều thấy Mỹ sắp đánh mạnh và liên tục hơn vào tất cả hệ thống giao thông của miền Bắc và các vùng do Pa-thét Lào kiểm soát.
- 15-3: bắt đầu những trận mưa bom hằng ngày ác liệt xuống miền Bắc, vùng giải phóng miền Nam, vùng căn cứ Pa-thét Lào.
- 22-3: Bộ ngoại giao Mỹ thừa nhận Mỹ đã cung cấp vũ khí hóa học cho quân đội Sài Gòn.
Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn tiết lộ: các sư đoàn và lữ đoàn Mỹ, các đơn vị máy bay chiến đấu, các loại pháo từ 105 đến 203 mm đang trên đường tới Việt Nam. Họ than phiền rằng ngành hậu cần không theo kịp cơn lũ đổ bộ.
Dự kiến của các quan sát viên:
- Đến cuối năm nay, số quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam sẽ lên tới xấp xỉ hai chục vạn, năm sau còn tăng tiếp.
- Tất cả các loại vũ khí sẽ được đem dùng, chỉ trừ bom hạt nhân. Đặc biệt máy bay, tàu chiến, pháo binh sẽ là con bài chủ lực, không kể chất độc hóa học rải khắp rừng núi.
- Quân Úc, Tân-tây-lan, Phi-líp-pin sắp tới. Quân Nam Triều Tiên, quân Thái-Lan đang sửa soạn, sẽ tới sau nhưng đông đảo hơn, có thể nhiều sư đoàn.
Bà Ôn-ga lau mắt, ngửng lên, giữa lúc đài truyền hình đã chuyển sang một trận hốc-cây trên băng. Cam không ngồi đấy nữa, chắc đã về buồng để đọc, ghi, viết. Ô-léc và Tô-nhia xuýt xoa, reo khẽ, thỉnh thoảng ồ lên thất vọng. Không trách lũ trẻ được, chúng nó sống xa chiến tranh, sau chiến tranh. Hình ảnh Việt Nam có thể làm chúng xúc động năm mười phút, rồi Ô-léc lại băn khoăn vì cô bạn quên giờ hẹn, Tô-nhia rớm nước mắt khi mẹ không cho tiền mua chiếc áo khoác mới rất tốt.
Bà đi nhẹ chân vào buồng Ô-léc và Cam. Hai giường song song, một bàn và bốn ghế kê giữa, mỗi người một tủ nhỏ, một giá để sách. Cam thay chỗ An-đrây thật gọn. Hai đứa em cũng quý ông anh hiền lành ít nói. Chúng nó học khá hẳn lên nhờ Cam luyện giọng, luyện cả thói quen suy nghĩ thẳng bằng ngoại ngữ chứ không qua một lần dịch nhẩm trong đầu.
Thằng Ô-léc thế mà vô tâm vô tính. Nó quên không cho bà biết cánh tay trái của Cam bị thương tật, nên đôi lúc bà nhờ Cam khiêng hộ cái tủ, nhấc hộ cái bàn nặng... Tình cờ một hôm nó nói ráo hoảnh:
- Anh Cam nhiều sẹo lắm, mà cánh tay bị liệt một nửa...
- Sao mày biết?
- Hôm ấy con rủ anh đi tắm ở bể bơi nước ấm. Anh ấy đùa, bảo số mảnh gắp trong thân ra đủ đúc một cây súng ngắn.
Lúc này Cam đang soạn lại các sổ tay từ bên nước đem sang, dịch tiếp các ca dao tục ngữ miền Nam đã thu nhặt được. Ông giáo sư hướng dẫn tóc bạc trắng đã tỏ ra dè dặt sau khi đọc bản phác thảo luận án của Cam:
- Em là việc sưu tầm khá. Nhưng phó tiến sĩ là người nghiên cứu. Hãy đi sâu vào nghiên cứu, nhớ nhé!
- Thưa thầy, đây mới là phác thảo…
- Ừ, em đánh giá thế là đúng. Nếu coi nó gần như luận án thì hỏng việc đấy.
Trong hàng các giáo sư và phó giáo sư, có thầy khó tính và dễ tính, cho điểm hẹp và rộng. Thầy hướng dẫn của Cam được xếp loại nghiêm khắc và rất giỏi, đã có nhiều công trình gây được tiếng vang về văn học Trung Quốc và Ấn Độ, đang khuyến khích các cán bộ trong khoa mình đi sâu vào văn hóa Đông Nam Á.
Cam nuốt gọn viên thuốc mà ông thầy đã bao đường nhưng còn đắng, lại đánh vật với những chồng sách, sổ tay, bản thảo. Sa vào đấy để quên nỗi day rứt cứ nhoi nhói, và Cam dần dà làm chủ được mình. Anh em tập kết sống “ngày Bắc đêm Nam” đã khổ, đây Cam phải ở xa vạn dặm, “ngày Xô đêm Việt”.
Bà Ôn-ga đứng ngoài cửa nhìn vào có dễ đến năm phút trước khi gọi khẽ:
- Này Cam...
- Dạ, gì hở mẹ?
- Quãng ba giờ chiều, anh nào đó gọi điện cho con. Nói tiếng Nga ấp úng, dặn con khi về gọi đến cho Son Than nào đấy ở sứ quán... à, sứ quán Việt Nam.
Cam biết anh cán bộ văn hóa này. Chẳng phải ai xa lạ, ấy là con đầu lòng của ông Trà Đình Mậu, người đồng hương ở huyện Tây Quảng, nhà trí thức có bằng tú tài kiêm đảng viên kỳ cựu, trơn tuột như con lươn luôn tìm kẽ hở để ngoi cao. Sơn Thanh làm văn hóa mà thi trượt hai keo vào đại học, làm nghề ngoại giao mà ở Liên Xô ba năm chỉ biết vài mươi câu đủ mua hàng mậu dịch và đi đường, ăn ở, được anh chị em gọi là “cán bộ hàng hóa” cho đúng nết con buôn.
Ông Ba Mậu, từ phó Ty giáo dục thuộc một tỉnh khu Tư, sa vào một vụ bê bối nào đó, đã được “đá lên” nhận việc tuyển sinh vào đại học, xoay ngay được căn hộ khá sang ở Hà Nội. Trong chiến tranh ác liệt, chỉ có ngành ngoại giao mới yên thân và bở béo nhất, chắc ông nghĩ thế khi kiếm chỗ cho con.
Đúng như Cam đoán, cậu Thanh nhờ Cam gánh cho một đoàn tham quan, sẽ ở Mát bốn ngày, đi Len và vùng Ban-tích một tuần. Cậu ta thường chỉ xuất hiện qua loa trong buổi gặp đầu, bám riết các đoàn sắp về nước để gửi hàng, tất nhiên là không nhắc tới cước phí.
- Mình làm luận án căng lắm Thanh ạ. Cậu gọi xem có ai rảnh...
Đầu dây bên kia, máy đã dập xuống rất vô lễ. “Còn may là thằng đầu cơ ấy không quản lý lưu học sinh”, Cam nghĩ.
Chú thích:
[1] Đa-vai: làm đi. Chiô-chia: bác gái, cô, dì. Ma-ma: mẹ. Ma-mốt-ska mai-a: mẹ yêu của con. Xư-nôk moi: con trai bé bỏng của mẹ.