Chương bảy
Trải ra trước mặt anh là một lục địa bao la bát ngát, và anh vội vã tiến bước như thể thời gian thúc ép và anh sợ chẳng tìm thấy chỗ nào cho những nỗ lực của mình.
- Alexis de Tocqueville
Hiện nay Eustace sở hữu mười con ngựa. Anh là người đầu tiên thừa nhận rằng sở hữu mười con ngựa là ngớ ngẩn, dở hơi và hoàn toàn thừa thãi với kích thước trang trại nhỏ bé của anh, nhưng anh không thể khước từ được khi mà chúng đẹp nhường ấy.
À, tôi vốn rất gần gũi với loài ngựa. Tôi lớn lên bên những người có kỳ tài điều khiển ngựa. Ông tôi nuôi một đàn ngựa tuyệt vời, và tôi từng làm việc tại trang trại của một người đàn ông trông coi bảy mươi lăm con ngựa mà chẳng tốn sức là bao, nhưng tôi chưa bao giờ thấy ai có thiên khiếu về ngựa xuất sắc hơn Eustace. Loài ngựa lắng nghe anh. Chúng tập trung chú ý. Khi Eustace đi qua đồng cỏ, bọn ngựa ngừng gặm cỏ ngước lên nhìn anh, đứng yên không nhúc nhích, chờ lệnh - một hậu cung nhiệt tình dâng hiến, một đoàn cô dâu khấp khởi chờ mong.
Điều này càng ấn tượng hơn nếu ta xét rằng Eustace không lớn lên cùng ngựa và tới tận mười năm trước anh mới sở hữu một con. Anh nấn ná một thời gian dài bởi vì nuôi ngựa rất công phu và cần rất nhiều đất đai cũng như tiền bạc. Khi ta sống tự cấp tự túc, nuôi sống bản thân ta dễ hơn rất nhiều so với nuôi một con ngựa. Nhưng anh luôn biết một ngày nào đó anh sẽ có ngựa. Đó là một phần trong kế hoạch tổng thể. Ví như, anh mua cái máy cắt cổ lỗ hoạt động dựa vào sức kéo của ngựa nhiều năm trước khi anh có hoặc một đồng cỏ để cắt hoặc một con ngựa để phối hợp cắt xén với cái máy đó.
Khi cuối cùng đã phát quang đủ cây cối để tạo ra đồng cỏ chăn gia súc phù hợp trên Đảo Rùa, anh mượn một con ngựa cái Percheron già to lớn từ một nông dân trong vùng và dùng con ngựa cái ấy cho các trại viên của mình cưỡi và để anh thực hành việc đồng áng với ngựa. Con ngựa chậm chạp ì ạch, nhưng thậm chí ở bên con vật u sầu đó cũng đủ khiến huyết quản của Eustace rần rật. Anh muốn nhiều hơn. Thế là anh mua cho mình một con ngựa kéo trẻ trung rắn rỏi tên là Bonnie và, với nàng ngựa ấy, học cách lường trước những mối lo cũng như trí năng của loài ngựa, cách có những quyết định ra lệnh chớp nhoáng, và cách tin tưởng hoàn toàn vào những mệnh lệnh của mình. Eustace cũng tìm được cho mình hai người thầy - một nông dân già miền núi tên Hoy Moretz, ông biết mọi điều về thuần gia súc theo phương thức truyền thống, và một thanh niên là tín đồ dòng Mennonite tên Johnny Ruhl, Eustace tin rằng anh chàng có khả năng trực giác với loài ngựa không ai bì kịp. Eustace thường dẫn ngựa qua chỗ hai người này để học hỏi và rồi quanh quẩn bên cạnh khi họ làm việc với gia súc của họ, quan sát và học tập. Hoy và Johnny thấy Eustace là một học trò lý tưởng - tập trung và xuất sắc, và dễ dạy, bởi vì dường như bằng trực giác anh hiểu rõ câu ngạn ngữ cũ của vùng này về chuyện tại sao Thượng đế cho con người hai cái tai nhưng chỉ một cái miệng: anh ta có thể im lặng và anh ta có thể lắng nghe.
Eustace liên tục sử dụng Bonnie vào việc đồng áng
và làm sức kéo, và nó sinh ra để dành cho điều đó. Nó là một con bò đội lốt ngựa, anh rất cảm kích nó. Nhưng anh cũng say mê với ý tưởng cùng một con ngựa rong ruổi trên đường cho một hành trình thật dài nào đó. Thế nên anh thường xuyên đóng yên cho con ngựa cái làm nông to lớn của mình và đi vào vùng núi mấy ngày liền, chỉ để biết cảm giác ra sao nếu chu du cùng bạn đồng hành là một con vật. Eustace yêu ý tưởng này, nhưng Bonnie rõ ràng không sinh ra để dành cho những cuộc phiêu lưu như thế. Nó quá chậm chạp,. Thế là Eustace bắt đầu khao khát một con ngựa để cưỡi đích thực. Anh muốn một chiếc mô tô êm ru chứ không phải một chiếc xe ủi cồng kềnh là Bonnie. Và thế là, với lời khuyên và sự chấp thuận của các thầy, năm 1994 anh mua cho mình một con ngựa thuần chủng Morgan, một con ngựa đua đường trường vô địch tên là Hasty.
Hasty - Siêu tốc - đúng y như cái tên của nó. Hơn nữa, khi về tay Eustace thì Hasty đã được huấn luyện thuần thục. Trước đây Eustace phải dạy cho Bonnie cách xử sự thì giờ Hasty dạy cho Eustace cách xử sự. Eustace hết sức tập trung chú ý và học rất nhanh, cho đến khi anh và Hasty đạt trình độ ngang nhau, đều có thể trải qua nhiều ngày dài chỉ bảo lẫn nhau cách kết thành một đôi. Eustace bắt đầu thực hiện những hành trình trên chặng đường dài với Hasty, phi từ trên núi xuống bờ biển Bắc Carolina. Đúng như đã nghĩ, anh thực sự vô cùng yêu lối thử thách cơ thể này, duy trì tốc độ nhanh băng qua địa hình mấp mô khó đoán định với con ngựa đồng hành và không có sự đảm bảo an toàn. Tuy nhiên, điều anh không nghĩ đến là mức độ tương tác mãnh liệt hơn với những người Mỹ bình thường mà anh trải nghiệm được khi trên lưng ngựa phi ngang qua đời họ. Có cái gì đó ở sự hiện diện và vẻ lãng mạn của con ngựa đã thu hút được mọi người.
Phản ứng đó vừa đặc biệt vừa phổ biến. Một ngày đầu năm mới, khi Eustace đang cưỡi Hasty ra biển, anh phi qua một xóm nghèo xơ xác ở vùng nông thôn Bắc Carolina. Nơi đó toàn những túp lều và những chiếc xe moóc điêu tàn và những khoảnh sân đầy ô tô gỉ sét. Khi phi qua một mái nhà xiêu vẹo, anh thấy có tiếng huyên náo ầm ĩ ở sân sau. Có lẽ cũng cả trăm người, tất cả đều là người da đen nghèo, tụ tập lại trong một buổi tiệc sum họp đại gia đình. Mùi thịt nướng ngào ngạt trong không khí tháng Giêng lạnh ngắt. Toàn bộ khu đất nghèo nàn đang rung chuyển và rộn ràng với sự náo nhiệt của buổi lễ. Khi mọi người nhìn thấy Eustace - anh chàng người rừng râu quai nón bộ dạng trông rất đáng ngờ này, gã công tử da trắng ngồi trên mình ngựa với một khẩu súng ngắn trên yên này - họ cười lớn và hoan hô và gọi to, “Phi vào đây!” Thế là Eustace quay ngựa đi ngay vào sân, ngay vào giữa buổi đoàn viên đại gia đình. Y như thể anh là người trong gia đình. Mọi người ôm hôn chào đón và tán dương anh như một người họ hàng xa. Cả gia đình xúm đông quanh anh và lần lượt đề nghị được cưỡi ngựa. Họ có cả triệu câu hỏi. Họ muốn biết mọi điều về Eustace và thông điệp không tưởng cũng như đích đến của anh. Họ tiếp đồ ăn cho anh cho tới khi anh khó lòng di chuyển nổi, nhồi anh no căng với đùi lợn muối, bánh ngọt, cải bẹ, bánh bột ngô và bia hảo hạng, và rồi để anh đi tiếp đoạn đường của mình, với một đoàn người nô nức chạy theo sau, chúc anh may mắn, rồi hình ảnh họ mờ dần cho đến khi biến mất hẳn
Đối với Eustace, người gần như suốt đời nghĩ ra những cách phá bỏ mọi tường ngăn mà đi vào tâm thức của mọi kiểu người Mỹ, đây quả là một phát lộ. Đó là một cuộc gặp gỡ tình cờ và mãn nguyện, và anh biết rõ rằng anh sẽ không bao giờ được chào đón ở một cuộc hội họp như thế nếu không có con ngựa làm tàu phá băng. Eustace đã chu du khắp nước Mỹ - đi bộ, đi nhờ xe, ngồi trong toa chở hàng, lái xe đường trường - nhưng không phương tiện nào trang bị cho anh tình ái hữu dân tộc mà một chú ngựa có thể trao cho anh. Đó là câu trả lời.
Rõ ràng, đã đến lúc lập kế hoạch cho một hành trình trên lưng ngựa xuyên lục địa.
Eustace muốn cưỡi ngựa xuyên nước Mỹ và anh muốn đưa cậu em trai Judson đi cùng. Judson Conway là người đồng hành tuyệt vời, là người bạn chu du đáng mơ ước cho một chuyến đi như thế này. Nhưng hơn thế, Eustace cảm thấy rằng anh và Judson, với tư cách anh em trai, cần chia sẻ một trải nghiệm hào hùng nào đó. Anh nhận ra rằng mình vẫn nghĩ về Judson như một cậu bé, như một thằng nhóc trốn trong phòng ngủ với những bức tượng nhỏ các nhân vật trong phim Star Wars, và anh muốn xóa bỏ hình ảnh đó. Judson giờ đây đã thành đàn ông. Judson là một tay thợ săn, một kỵ sĩ, một lữ khách dạn dày, một chàng cao bồi hăng say lao động. Eustace muốn chứng kiến Judson trong tất cả các khuôn dạng này, đồng thời cũng là để trải nghiệm một chặng phiêu lưu dài mà chắc chắn sẽ kéo hai anh em xích lại gần nhau như những người ngang tài ngang sức.
Judson, khỏi cần phải nói, mê tít kế hoạch này. Anh muốn biến khỏi xã hội hiện đại và cưỡi ngựa xuyên nước Mỹ như một kẻ lang bạt kiêu hùng đích thực trên cao nguyên như phim Hollywood ư? Chết tiệt, đúng thế! Judson cuồng si kế hoạch đó, khao khát cơ hội có “cuộc đời chênh vênh thử thách, được dịp sống tự do phóng khoáng”. Anh lao ngay vào thả mình chìm đắm trong ý tưởng ấy, tuyên bố rằng anh sẵn sàng khởi hành liền tức thì, nóng lòng sốt ruột với cuộc săn đuổi. Chỉ cần trỏ về hướng Tây và ra lệnh cho anh rồi hãy xem ngựa anh tung vó.
Vậy là chuyện đã được định đoạt. Họ còn đồng ý lấy cho chính mình một cái tên. Họ sẽ là nhóm Kỵ sĩ Đường trường. Eustace, tất nhiên, ngay lập tức đứng ra tổ chức. Anh tính xem họ cần bao nhiêu ngựa, nên mang theo bao nhiêu tiền, nên mang theo loại súng gì, và toàn bộ hành trình sẽ đòi bao nhiêu thời gian. Anh tập hợp bản đồ và những chuyện kể đó đây của những lữ khách dặm trường trên lưng ngựa khác, cố gắng tiên lượng mọi sự việc có khả năng xảy ra. Tất nhiên hầu như không thể mường tượng chính xác điều gì sẽ xảy ra với họ ngoài kia; điều quan trọng là có một lộ trình thông minh, ngựa tốt, và một khởi đầu thuận lợi.
Eustace chọn một tuyến đường miền Nam xuyên qua đất nước. Kỵ sĩ Đường trường sẽ khởi hành từ đảo Jekyll, ngoài bờ biển Georgia, vận hết tốc lực phi thẳng về hướng Tây, băng qua Alabama, Mississippi, Louisiana, Texas, New Mexico, Arizona, và vào ngay California. Kế hoạch tổng quát của Eustace là đi men quanh các thành phố chính để không bị tống giam hay bị xe tải đâm (mẹ anh bắt anh phải hứa không để Judson bé bỏng có mệnh hệ nào) - và đó là tất cả những gì mà trước mắt anh có thể dự trù một cách hợp lý. Bắt buộc phải tập trung vào tốc độ. Đây sẽ không phải là một chuyến lang thang suy tư thong thả. Anh muốn ép bản thân và cậu em trai cùng mấy con ngựa đạt tới giới hạn tận cùng, để thấy chính xác họ có thể vượt ngần ấy dặm đường một cách suôn sẻ đến mức nào trong khi trải nghiệm sự chỉ đạo gay gắt của thử thách thể chất.
Và rồi, đột nhiên họ có một bạn đồng hành nữa.
Judson, theo đúng phong cách Judson, đã khoe khắp chốn về chuyến đi và tin đó tới tai người bạn của anh là Susan Klimkowski, một người bản địa Bắc Carolina đã làm việc cùng Judson ở nông trại trên Wyoming. Xinh một cách đằm thắm, hết sức e thẹn, và bền bỉ lạ lùng, cô gái Susan hai mươi lăm tuổi đã có thâm niên kinh nghiệm trên lưng ngựa nhiều hơn cả Judson và Eustace cộng lại. Cô là một trong số những người biết cưỡi ngựa trước khi biết đi. Cô không phải là người tìm cảm giác mạnh và không khoe mẽ, và cô không vờ vịt là đứa con thiên mệnh, nhưng khi nghe về hành trình xuyên nước Mỹ, lòng cô dậy lên một quyết tâm mãnh liệt. Cô phải đi cùng.
Judson đã làm việc với Susan ở dãy Rocky đủ lâu để biết rằng cô có thể kham được các đòi hỏi thể chất của chuyến đi này, nhưng anh bảo cô sẽ phải nói chuyện trực tiếp với Eustace. Vừa tỏ ra hoàn toàn tôn trọng và đồng thời cũng do thôi thúc bản thân không cưỡng được, Susan hỏi Eustace Conway liệu cô có thể tham gia nhóm Kỵ sĩ Đường trường chăng, không phải bằng cách gọi điện cho anh để xin xỏ, mà bằng cách phi ngựa lên núi tới nhà anh và ngồi trên lưng ngựa để thảo luận vấn đề. Nói cách khác, cô trình diện trước Eustace như cô sẽ trình diện trước toàn bộ thử thách này - khăn gói sẵn sàng, rõ ràng đủ năng lực, và mong mỏi không gì khác ngoài một từ “Đồng ý”.
Eustace đã trao từ đó cho cô. Anh thực sự ấn tượng với sự trình diện của cô và có thể nói rằng cô rất giỏi điều khiển ngựa. Nếu cô theo được, cô có thể đi cùng. Và điều hấp dẫn cộng thêm vào là Susan đến cùng một chiếc xe tải xinh xắn và một chiếc xe moóc chở ngựa mới tinh rất đẹp, Eustace nghĩ những thứ này hẳn sẽ là một bổ sung tuyệt vời cho cuộc hành trình. Anh biết rằng có thể hoàn thành một chuyến đi như thế mà không cần phương tiện hỗ trợ, nhưng anh cũng biết rằng họ có quá nhiều khó khăn nghiêm trọng trước mắt chưa thể đoán định, và có thêm một không gian an toàn di động để chứa ngựa bị thương và chăn mùng tăng cường thì sẽ giảm bớt phần nào áp lực và nguy hiểm. Sẽ hơi trở ngại một chút - mỗi ngày Eustace và Judson và Susan sẽ phải thay phiên nhau lái chiếc xe moóc đi trước trên đường, rồi đi nhờ xe quay lại để bắt đầu cưỡi ngựa. Họ sẽ cùng nhau ra sức phi hết dặm đường tới chỗ chiếc xe moóc đậu và rồi tiếp tục lên đường vào sáng hôm sau. Đó sẽ là một gánh nặng, nhưng là rắc rối đáng giá.
Đâu đã vào đấy. Thế là giờ họ có ba người. Ba người và bốn con ngựa và một chiếc xe tải và một chiếc xe moóc và cả lục địa trải ra trước mặt họ. Giáng sinh năm 1995, họ khởi hành. Họ đội mũ ông già Noel, cười vang, tràn đầy sinh lực và phấn khích. Ngay lập tức, họ tìm thấy một chai Bacardi chưa khui bên vệ đường. “Phước lành từ Chúa, một món quà từ tự nhiên,” Eustace tuyên bố, và họ ném phịch chai rượu xuống chỗ cũ rồi khởi hành.
Eustace cưỡi Hasty. Susan cưỡi Mac, một con ngựa mười hai tuổi đen tuyền đáng tin cậy giống Tennessee Walker. Judson thay đổi giữa Spur, một con ngựa Ả rập lông bạc rất đẹp anh đã mua ở một cuộc đấu giá, và con Tư lệnh, vừa mua cho cuộc phiêu lưu này, nó được anh em nhà Conway đặt tên theo tên người ông huyền thoại của họ, Tư lệnh Johnson.
“Tội nghiệp Tư lệnh,” Judson nói, ngày họ mua chú ngựa. “Nó đã lang thang ngoài đồng cỏ cả đời rồi nên đâu có biết nó sắp bước vào cái gì. Nó đang trên đường vỡ vạc ra mọi điều về chuyện làm thân ngựa.”
Nói thế không phải là có bất kỳ ai trong họ, cả người lẫn ngựa, có một ý niệm rõ ràng về điều họ sắp bước vào. (“Chúng tôi đã không biết mình đang làm gì,” Eustace sau này sẽ nói thế. “Và đó là một thực tế.”) Eustace căng thẳng và lo lắng hơn nhiều so với Susan và Judson, hai người này lúc bấy giờ vẫn còn nghĩ rằng chuyến đi sẽ không gì hơn là niềm vui bất tận. Eustace đủ tỉnh táo để clo không biết liệu thậm chí họ có thể sống sót không. Tuy nhiên, bất kể có điều gì xảy ra, Eustace cũng đã sẵn sàng ghi lại- Anh mang một máy ghi âm nhỏ bên mình cùng mười tám cuộn băng, và anh ghi một cuốn nhật ký bằng lời trong khi họ phi ngựa. Một phần lý do anh làm thế là để tránh cái chuyện phải ghi lại hồi ức của mình bằng tay, quá chậm. Và quả thực, những lời nói không dứt theo lối dòng ý thức trong các cuốn băng ấy càng được tiếng chim, tiếng xe cộ và tiếng vó ngựa làm nền làm cho sống động hơn.
“Tôi đang một tay cầm máy ghi âm, một tay giữ ngựa,” anh nói vào Ngày Hai của hành trình. “Đã thấy một số cảnh tầm gửi Tây Ban Nha tuyệt đẹp, một bé gái mặc áo khoác sáng màu vắt vẻo trên cây thông già to, máy ép đường, lò luyện kim, những cây cọ lùn. Đường ở đây khá bừa bãi rác rưởi, cốc, thùng bia, bao thuốc, vỏ chai, giấy gói, lon hộp, giấy nhôm. Thật đáng kinh ngạc, rác rưởi. Tuy nhiên, đi thêm mươi mét nữa thì cảnh vật lại đẹp. Những thân cây ngược nắng, vườn thông. Một kiểu độc canh. Đất nhiều cát. Ngay lúc này đây, tôi tự do như bất kỳ người nào trên nước Mỹ. Thật mãn nguyện được ở đây, xa mọi trách nhiệm, tôi mong thêm nhiều người có cuộc đời giản dị.”
Thế đấy, anh ghi lại trải nghiệm của mình, nhưng trong anh còn tồn tại cả một nhà dân tộc học đang làm việc, Eustace háo hức phỏng vấn những người Mỹ bình thường mà họ gặp dọc đường. Trong mấy năm lại đây anh càng ngày càng suy nghĩ nhiều về sự biến mất của phương ngữ do ảnh hưởng sâu rộng của truyền thông đại chúng. Anh có thể nghe thấy điều đó diễn ra tại thung lũng quê nhà, nơi người già Appalachia dường như nói một thứ tiếng khác hẳn ngôn ngữ của cháu chắt họ. Bậc ông bà vẫn có giọng nói điệu đà kiểu thời Elizabeth (ví như, họ phát âm từ “sword” với âm w rất rõ) và gọi công cụ và gia súc bằng những từ cổ mà chẳng bao lâu nữa sẽ biến mất, bởi vì thế hệ hậu bối của họ đều đang bắt đầu nói giọng nghe như đám DJ ở thành phố New York. Eustace rất yêu thích những phương ngữ rõ ràng và đích thực, và anh cũng là một người có tài bắt chước rất giỏi. Anh biết đây sẽ là cơ hội
cuối cùng để anh có được hình dung bao quát về các giọng nói miền Nam nước Mỹ, bởi vì Kỵ sĩ Đường trường thường phi băng qua sân sau nhà mọi người theo đứng nghĩa đen. Họ có giấy thông hành khắp lục địa và phi ngựa băng qua ngay chính giữa lòng đời sống người Mỹ - không rào cản, không biên cương, không mép giới hạn. Gần như thể họ là ma, và mọi bức tường trước mặt họ đều trở thành phi thực. Họ có thể ngửi và chạm và với tới mọi người khi họ đi qua.
Eustace ghi âm lại một cụ già da trắng nghèo khó người Georgia hỏi, “Anh có loại trang trại nào vậy?”
“Vâng, thưa ông,” Eustace cất tiếng, “cháu có khoảng một nghìn mẫu đất ở Bắc Carolina. Cháu nghĩ có thể nói là cháu trông coi một trang trại truyền thống và nguyên thủy trên đó, đồng thời cũng là một trung tâm giáo dục tự nhiên…”
Nhưng ông già da trắng cắt lời. Không, không. Ông không muốn biết Eustace có loại trang trại (farm) nào; ông muốn biết Eustace có loại súng (fire arm) nào cơ. Thế là trong cuốn băng ấy ta có thể nghe thấy Eustace cười mãi không ngớt và lịch sự trình bày rõ để đáp lời ông.
Và anh cũng rất yêu những giọng nói của người da đen ở Georgia, ví như cụ già ngồi trên xích đu bên hiên nhà nọ đã sử dụng băng ghi âm của Eustace để hồi tưởng về tuổi thơ của ông trong một gia đình nông dân lĩnh canh:
“Cha tôi thường đi khắp các phòng và nói, ‘Dị đi, các chàng trai’ Chúng tôi chẳng hiểu gì. Ông nói, ‘Dị đi, các chàng trai!’ rồi lần sau ông nói, ‘Cha nghĩ các con phải dị đi’... Thời ấy tuyệt không có cái gì gọi là ngược đãi trẻ em cả nên tốt nhất là ta nên ra khỏi giường thôi, bởi vì tôi nói anh nghe cái này - bố tôi là người đàn ông đích thực nặng 130 cân, và khi ông nói, ‘Dị đi, chàng trai,’ thì tốt nhất là ta nên bước xuống sàn nhà.”
Gợi chuyện mọi người là việc rất dễ. Tất nhiên, đó là nhờ những kỵ sĩ này có vẻ gợi cảm vô cùng lãng mạn. Eustace cao ráo và mảnh khảnh ngồi trên cái yên ngựa Kỵ binh Hoa Kỳ cũ, mình trần hoang dã và râu ria bờm xờm, cắm lông trên tóc và phi ngựa thuần thục nên điều khiển Hasty không tốn sức tí nào. Anh trông như một kẻ đào tẩu từ Đội biệt động Texas, một tay săn tội phạm nào đó được tự do sau khi lạc mất đơn vị rồi trở thành người bản xứ. Judson và Susan mặc đồ cao bồi bụi bặm thời xưa - đủ cả quần da, đinh thúc ngựa, mũ rộng vành, áo khoác dài và khăn quấn đầu lớn in hoa sặc sỡ. Dáng vẻ của họ chỉ phần nào mang tính khoe mẽ; đây đúng là trang phục mặc khi ta trên mình ngựa cả ngày, phơi ra trước nắng, mưa, tuyết, lùm cây, bụi bặm.
Khá khen cho Judson, thỉnh thoảng anh cũng sẵn sàng hy sinh hình ảnh cao bồi chính hiệu cho tính thực dụng. Anh mặc một chiếc quần bó vải bóng màu nhạt dưới quần da, khiến những tay lái xe tải và công nhân nông trang họ gặp trên đường đi mê tít. Nhưng chất vải mát lịm giúp cho Judson khỏi bị bỏng vì yên ngựa, và khi quá chồn chân với chặng phi bất tận, anh có thể cởi ủng ra, xỏ đôi giày Nike vào, và túc tắc chạy vài dặm bên cạnh chú ngựa, chỉ để giữ dáng và để hết tê chân.
Bản thân các kỵ sĩ hết sức quyến rũ. Nhưng chính những con ngựa mới thu hút mọi người hơn cả. “Nơi nào chúng tôi đến,” Judson nói, “chúng tôi đều là một cuộc diễu hành.” Những đứa trẻ vùng ngoại ô Atlanta chạy theo sau họ mà không hề chùn bước ngại ngần, chỉ để được ôm ngựa của họ. Với những gia đình nông dân da trắng nghèo sau này họ gặp ở Texas cũng y như vậy.
Chuyện cũng giống y như vậy với khu vực thổ dân Apache sinh sống ở ngoại vi Arizona. Khu thổ dân này là một mảnh đất hoang vắng nghèo nàn mà đoàn kỵ sĩ dự tính sẽ đi vòng qua, bởi vì những người da trắng quanh đó hàng trăm dặm đã cảnh báo họ đừng có liều nộp mạng cho “bọn Apache hung dữ đáng sợ” đó. Nhưng Eustace, vốn biết đủ về cả lịch sử cổ đại lẫn chính trị đương đại để tôn trọng lời cảnh báo, sẽ không thay đổi tuyến đường mình đã chọn. Như anh tuyên bố với các bạn đồng hành lòng đầy lo lắng, “Chúng ta sẽ không thay đổi lộ trình chỉ vì định kiến chủng tộc chết tiệt. Tới giờ chúng ta đã học được gì về chuyến đi này, mọi người? Ai đã không tốt với chúng ta nào? Người da đen, da trắng, người gốc Latinh, ai cũng tốt với chúng ta cả. Và nếu chúng ta bắt đầu né tránh mọi người vì sợ thì chúng ta đã phá hủy mọi thứ đáng ra chúng ta phải bênh vực. Các em có thể đi đường vòng, còn anh vẫn sẽ phi ngựa xuyên thẳng qua khu thổ dân này, dù có hay không có các em. Và anh cóc cần biết có phải lãnh một viên đạn vào đầu vì chuyện này hay không.”
Thế là tất cả Kỵ sĩ Đường trường quả đã kề vai sát cánh phi ngựa xuyên thẳng qua khu thổ dân Apache. Và người Apache hóa ra phần nào là những tay hung dữ đáng sợ thật, họ lôi Kỵ sĩ Đường trường vào nhà nghỉ qua đêm, cho cả người lẫn ngựa ăn.
Chuyện cũng y như vậy khi, sau nhiều tháng rong ruổi trên đường, họ đi qua những khu ổ chuột bẩn thỉu nội đô San Diego (“Đừng làm thế!” người da trắng cảnh báo), và những đứa trẻ dân Mexico từ trong nhà chạy ào ra xin cưỡi ngựa trong khi bố mẹ chúng thi nhau chụp ảnh, cho đồ ăn thức uống và cầu chúc may mắn. Khắp dọc đất nước này, đâu đâu cũng cùng một sự đón chào như thế. Khắp mọi nơi máy quay truyền hình và đội hộ tống của cảnh sát trưởng sẽ theo chân họ từ ranh giới hạt này tới ranh giới hạt kia. Họ gặp các thị trưởng và bộ trưởng từ bờ nọ tới bờ kia đất nước, những người đứng ra yêu cầu dân chúng trong thành phố này thành phố khác chào đón họ. Đó là một cơn cuồng nhiệt của tình mến khách và niềm phấn khích.
Ô tô sẽ tạt vào vệ đường, tài xế nhảy ra, chạy tới chỗ Kỵ sĩ Đường trường, hỏi đi hỏi lại cùng một câu: “Các bạn là ai? Các bạn đi đâu? Chúng tôi có thể làm gì giúp các bạn?”
Và luôn luôn có câu này: “Chúng tôi muốn làm điều các bạn đang làm.”
“Các bạn làm được,” Eustace lần nào cũng trả lời vậy. “Các bạn làm được chứ!”
Ngày của họ bắt đầu từ bốn giờ sáng, khi họ chăm sóc ngựa và cố nghĩ xem trong vòng ba mươi đến năm mươi dặm tới nơi nào họ sẽ tìm được thức ăn và nước cho bản thân và cho mấy con vật. Hằng ngày, một trong ba người sẽ lái xe moóc đi trước nhiều dặm và rồi đi nhờ xe quay trở lại trại để bắt đầu phi ngựa cùng nhau. Việc này mất rất nhiều thời gian; đôi khi hai Kỵ sĩ Đường trường sẽ phải trì hoãn hàng giờ trong khi người thứ ba cố xin đi nhờ xe. Và ngày của họ mãi sau nửa đêm mới kết thúc. Nhịp độ phi của họ thật kinh khủng. Họ rạc hết cả người vì phi quá cật lực, nhưng họ không bao giờ ngừng lại, không bao giờ đi bộ, chỉ phi nước kiệu là cùng.
Những chặng đường họ phải phi từ chỗ bác sĩ thú y đến chỗ thợ đóng móng ngựa xa đến độ Eustace trở nên thành thạo chữa bệnh cho thú và chăm sóc móng cho chúng. Anh đã quan sát cánh thợ đóng móng cho lũ ngựa của anh nhiều lần tới mức anh tin chắc mình có thể tự suy ra cách làm việc đó. Anh gọi cho Hoy Moretz, người thầy miền núi sành sỏi về ngựa của anh ở Bắc Carolina, hỏi ông nếu anh tự đóng móng ngựa ngay trên chặng hành trình thì có nên không, và ông già nghiêm khắc cảnh báo anh, “Đừng làm thế. Anh rất thông minh, nhưng anh không phải dân chuyên. Anh có thể học cách tự đóng móng ngựa lấy tại trang trại ở nhà, nhưng liều lĩnh làm bị thương một con vật trên hành trình vì thiếu hiểu biết là rất nguy đấy.” Lời khuyên chí lý, và Eustace hoàn toàn đồng ý, nhưng cuối cùng anh phớt lờ đi vì tất cả chúng ta đều biết cái khó ắt ló cái khôn. Anh phải học, thế nên anh thực sự đã học. Anh còn chích thuốc và cho ngựa uống thuốc, điều chỉnh khẩu phần ăn cho chúng, và nói không ngừng về thể trạng của chúng trong các cuốn băng.
“Gần cuối d nước tiểu của Hasty thực sự có máu đen; điều đó khiến tôi lo lắng... hôm nay ngã hai lần, dường như vô lý, nhưng đã xảy ra, nó đập mặt xuống đất... Tôi bịt mắt nó và dẫn nó đi loanh quanh để chuẩn bị tinh thần cho nó vượt qua cây cầu sắp tới. Vì có cơ may là nếu chúng tôi đưa được một con ngựa qua cây cầu kiểu mới có sàn lưới kim loại mà bọn ngựa có thể nhìn thấy bên dưới và thực sự là sợ thì, ừm, có lẽ chúng sẽ qua được hết và chúng tôi sẽ an toàn... Tìm thấy một viên đá nhỏ trong móng của Spur đang làm nó đau... cố gắng coi chừng dây chằng của chúng; không thể để cho dù chỉ một vết thương không được chữa trị ở ngoài này.”
Nhiều lần đi dọc đường, Eustace nhận ra rằng họ cần sức ngựa mới mẻ khỏe khoắn hơn, thế là anh dừng lại để mua hay trao đổi gia súc. Đó là cách họ có được Cajun, Albert Béo, Blackie và Chavez. Đó cũng là cách họ có con la dẻo dai, Peter Thỏ.
Peter Thỏ xuất thân từ dưới vùng Mississippi. Eustace nhất quyết mua cho Kỵ sĩ Đường trường một con la, vì anh muốn họ có một con vật thồ hàng khỏe mạnh. Thế là anh bắt đầu mở lời với bất kỳ ai anh gặp trên đường rằng anh đang tìm mua. Có người đã chỉ cho một kỵ sĩ sống gần đó trong một trang trại lớn, ông này chắc chắn có gia súc muốn bán. Người chủ nông trang ấy tên là Pierson Gay, đẹp trai, bảo thủ và thanh lịch - một quý ông miền Nam cổ điển với chòm ria mép bạc phơ được tỉa tót cẩn thận. Kỵ sĩ Đường trường gọi cho ông từ ngoài đường và trình bày với ông họ đang tìm gì. Ông đồng ý đưa họ tới các chuồng ngựa của ông tối hôm đó để bàn bạc chuyện bán ngựa. Nhưng như Judson nhớ lại, “Khi chúng tôi phi ngựa lên trang trại của ông ấy, cả ba đều tóc tai bờm xờm, người ngợm nhầy nhụa, trông chẳng khác gì một lũ hippy bẩn thỉu, Pierson thực sự phải quay đầu tránh nhìn chúng tôi. Ông ấy là một người đàn ông cực kỳ sạch sẽ, thề có Chúa, ông ấy suýt phát nôn vì kinh tởm.”
Nhưng người nuôi ngựa có cách để nói lên sự thông thạo của mình về ngựa - một mật mã riêng, có lẽ thế. Y như Eustace trước đây đã ngay lập tức tin rằng Susan Klimkowski biết cách cưỡi ngựa thông qua việc quan sát cô tới trình diện trên lưng ngựa tại nhà anh trên núi, Pierson Gay nhanh chóng nhận thấy các thanh niên này biết mình đang làm gì. Còn về gia súc, Pierson có một con vật ông sẵn lòng bán - một con la rất đặc biệt, lông trắng, đẹp mã, to lớn. Vô cùng khỏe. Tên là Peter Thỏ. Eustace và Judson và Susan kiểm tra Peter Thỏ và thấy anh chàng rất cường tráng và sung sức, đúng thứ họ cần để mang chỗ đồ đạc phát sinh. Pierson bảo họ ông sẽ bán con la với giá 1.000 đô. Giờ đây các Kỵ sĩ Đường trường, đặc biệt là Eustace, biết cách thương lượng giá mua gia súc; không bao giờ chấp nhận giá khởi điểm. Họ trở lại chỗ Piers đề nghị giá 900 đô. Nghe đoạn, ông Pierson Gay bỏ đi, lầm bầm trong khi ra khỏi chuồng, “Một nghìn đô la; giá thế đấy. Đó là giá trị của con la đối với tôi và đó là cái giá tôi đã quyết cho nó, thế nên hoặc các anh đưa tôi một nghìn đô hoặc tôi sẽ để Peter Thỏ lại ngay trên đồng cỏ đó; chuyện đó chẳng mảy may làm tổn thương cảm xúc của tôi.”
Họ nhả ra một nghìn đô la.
Tuy nhiên, có một số vấn đề với Peter Thỏ. Pierson Gay chẳng cố giấu họ làm gì. Bọn la lúc nào chẳng có vấn đề. Không giống hầu hết loài ngựa, la ranh mãnh và thường xấu tính. La biết nghĩ, suy luận, bày mưu, trả đũa. Ta phải thủ thế sẵn khi ở cạnh loài la, và con la này lại còn đặc biệt nham hiểm. Đây là quy định. Ta không thể chạm vào tai Peter Thỏ, nếu không nó sẽ cố giết ta. Điều đó khiến cho kiềm chế con la là một việc liều mạng. Ta không được chạm vào bụng Peter Thỏ, nếu không nó sẽ cố giết ta. Điều đó cũng khiến cho thắng yên cho con la là một việc mạo hiểm. Ngoài ra, Pierson Gay cảnh báo (ông là một chuyên gia sành sỏi về động vật bốn chân và từ rất lâu đã từ bỏ ý định thuần dưỡng con la này), Peter Thỏ có khả năng cố giết người mà chẳng vì lý do rõ ràng nào hết. Và ta cũng không được chạm vào chân nó. Nếu không nó sẽ cố giết ta.
Tuy nhiên, nó là một con vật đầy sức mạnh phi thưòng. Thế nên họ mua nó.
Kỵ sĩ Đường trường ra đi vào ngày hôm sau cùng với Peter Thỏ hoàn toàn sung mãn và khỏe mạnh trong đoàn thồ hàng. Chẳng được bao lâu con la đã cho thấy sự có mặt của mình là lợi hại nhường nào. Lúc đó trời mưa như trút, Jusdon đang cố phủ một tấm bạt lên ngựa của mình để bảo vệ đồ đạc. Tấm bạt bay phần phật và đập phành phạch trong gió, và Peter Thỏ chẳng thích thế tí nào. Nó co cẳng phóng cho Judson một cú đá tận lực nhằm vào ngay chỗ nhiều thịt nhất trên đùi của chàng cao bồi. Nếu cú đá hạ xuống chỗ nào khác, đó có thể đã là một cú đòn làm vỡ đầu gối, gãy tay, giập hông, bẹp sọ, hoặc nát ruột. Với sức mạnh của nó, cú đá khủng khiếp của Peter Thỏ đã ném Judson bay lên không tầm một mét rưỡi rồi đáp thẳng xuống mặt đất, nơi, theo Judson thừa nhận, anh đã nằm im trên cỏ ướt, để mặc mưa rơi trên mặt và thầm nghĩ mới sung sướng làm sao khi được ngả lưng nghỉ ngơi một lát giữa cuộc hành trình bạo liệt này.
Nhưng Eustace bắt đầu ra tay hành động. Anh đã luôn để mắt đến Peter Thỏ, chờ một sự bất đồng ý chí giữa họ, và chờ đợi giây phút để anh giải thích rõ cho con la ai là kẻ cầm ở đây. Đây chính là khoảnh khắc đó. Con la và người đàn ông thủ thế tấn công trong cuộc vật lộn đầu tiên trong hàng tá cuộc vật lộn rồi đây sẽ xảy ra. Eustace đấm một phát vào mặt con la, như thể anh đang trong một vụ ẩu đả ở quán bar, và hét thẳng vào mặt con la, “Đừng bao giờ đá em tao lần nữa nghe chưa!” Con la quay ngoắt lại để đá Eustace, nhưng một tay anh chụp lấy dây cương của con vật còn tay kia chộp lấy một cái roi và bắt đầu đánh con la. Peter Thỏ đá và kéo lê Eustace mấy chục mét, nhưng Eustace bám chặt dữ dằn vào dây cương. Peter Thỏ quật mạnh Eustace vào cây cối và đất đá, đá và cắn, cả người lẫn thú đều gào rú hết cỡ. Judson và Susan khiếp sợ chạy vào nấp trong rừng, và Judson không ngừng hét lên, “Chúa ơi, Eustace! Thôi ngay đi! Nó đang cố giết anh đấy!” Nhưng Eustace vẫn trụ vững, chịu đá rồi đánh đuổi con la tới một hàng máy bơm xăng cổ kính nên thơ tại một trạm xăng cũ kỹ ọp ẹp và trói con la lại.
Sau đó họ có một cuộc trò chuyện ngắn.
Eustace, giờ đây đã rơi vào (hay bốc lên) một trạng thái hoàn toàn hung bạo, dùng răng kẹp chặt mũi Peter Thỏ và cắn phập thật mạnh. Rồi anh cạy mồm Peter Thỏ ra và gầm gừ vào đó như một con gấu xám đang tấn công. Rồi anh còn chộp lấy tai Peter Thỏ và vừa nhai ngấu nghiến vừa gầm thét hò la như một con yêu tinh bị thương. Rồi anh đi quanh con la, thụi nó. Rồi anh nhấc chân con la lên - từng chân một, để tỏ rõ sự thống trị của mình - hét vào từng cái móng guốc như thể đó là một kiểu điện thoại thú vật. Ô tô đang trên đường lớn chạy chậm cả lại - khựng lại - khi họ đi ngang qua cảnh tượng này, và những khuôn mặt tái nhợt thò ra khỏi ô tô, nhìn trân trối. Judson và Susan, kinh ngạc tột độ, thu lu trong rừng, quan sát tất cả chuyện này diễn ra.
“Anh có thể nói gì với em đây?” Judson thì thầm với Susan, vừa sợ hãi vừa vô cùng tự hào. “Anh trai anh là một con thú.”
Eustace trị Peter Thỏ thêm một lát nữa rồi buông tha. Peter Thỏ len lén lẩn mất, chắc chắn đang thầm nghĩ, Khốn thật...
Một vài cuộc chuyện trò như thế nữa diễn ra giữa Eustace Conway và Peter Thỏ suốt lộ trình chuyến đi trước khi con la, vốn chẳng ngu gì, hiểu ra vấn đề. Nó công nhận, lần đầu tiên trong kiếp làm la của mình, rằng một ai đó khác sẽ đưa ra quyết định. Và khi họ tới Califonia, con la đó đã trở nên lịch sự, kỷ luật và được huấn luyện tốt đến mức Kỵ sĩ Đường trường phải cho Pierson Gay biết về điều này. Họ chụp ảnh Peter Thỏ. Trong bức ảnh, Eustace đứng trước con la, cắn một bên tai nó. Susan đang ngồi xổm phía dưới con la, cù bụng nó. Còn Judson đứng trên lưng con la, hai tay dang rộng, cười tươi rói.
Họ gửi tấm ảnh tới Mississippi, tới những chủ nhân đầu tiên của Peter Thỏ. Mấy tuần sau, Eustace gọi về nhà Pierson Gay để xem họ đã nhận được ảnh chưa. Bà Pierson Gay, một quý bà miền Nam vô cùng lịch thiệp và quý phái, trả lời điện thoại. Ô, có, bà kéo dài giọng quyến rũ, họ nhận được bức ảnh rồi.
“Thế giờ bà nghĩ sao về con la già đó ạ?” Eustace hỏi.
“Ta thề đấy, cháu yêu,” bà Pierson Gay trả lời bằng ngữ âm miền Nam vô cùng nhẹ nhàng hệt như trước Nội chiến, “trông như Peter Thỏ đã học hành cẩn thận và nhận được nền giáo dục Hah-vahd vậy.”
Không phải ngày nào cũng là một cuộc diễu hành. Họ có những quãng thời gian tuyệt vời trong cuộc hành trình, nhưng họ cũng có những chương hồi mệt mỏi lê thê cưỡi ngựa trên những con đường lớn hoang vu nơi chẳng ai lái xe qua và rác rưởi bay như cỏ lăn. Trong vùng nông thôn Texas, họ cưỡi ngựa băng qua một cơn bão cát mù mịt, sống sót được chỉ nhờ kéo khăn tay lên bịt mặt, một phương thức hữu hiệu cho tới khi một tay cảnh sát bang Texas dừng họ lại và yêu cầu họ bỏ “mặt nạ” ra vì “mọi người đang sợ các anh là một kiểu ngoài vòng pháp luật”, ở một thời điểm khác của cuộc hành trình, họ gặp phải những đợt nóng chết người, ngột ngạt đến mức Eustace sợ rằng mấy con ngựa có thể chết mất và phổi của chính họ sẽ cháy sém. Thỉnh thoảng họ dừng lại vào giờ ăn trưa và ngồi dưới một vạt bóng râm để cố tránh cái nóng.
Judson thường hỏi, “Chúng ta được nghỉ bao lâu?”
“Mười phút,” Eustace đáp, và thế là Judson và Susan nằm xuống, lấy mũ che mặt, và chợp mắt đúng mười phút. Nhưng Eustace không bao giờ ngủ. Sinh lực của anh dành hết để chăm sóc ngựa. Trong mười phút đó, anh sẽ đi vòng quanh, kiểm tra chân, xem xét các nút thắt trên dây cưong, nhìn vào mắt con vật, dò tìm những vết trầy do yên ngựa. Anh không quan tâm đến cái nóng hay sự kiệt sức của chính mình; chỉ lo cho lũ ngựa.
Thời tiết khủng khiếp nhất mà họ gặp phải là ở Louisiana, nơi họ cưỡi ngựa phi vào một cơn bão băng tê dại kéo dài bốn ngày. Thình lình phủ chụp lấy họ dưới dạng một cơn mưa lạnh cóng dữ dội, và chẳng mấy chốc ba kỵ sĩ trông như thể bị bọc trong lớp kính dày gần một phân. Mọi thứ đều đóng băng - mũ, bàn đạp ngựa, túi yên, ủng, râu. Đây là kiểu thời tiết duy nhất từng dừng được chân Kỵ sĩ Đường trường, và đó không phải vì nỗi khó khăn của con người; đó là vì Eustace tránh mạo hiểm sự an toàn của ngựa trên những con đường băng cứng trơn như đổ mỡ đó. Cố tìm một chỗ để ẩn náu qua cơn bão, cuối cùng họ trú lại dưới mái hiên của một hiệu tạp hóa cũ nho nhỏ. Eustace để Judson đi vào khu dân cư địa phương, bảo cậu em dùng sức quyến rũ trứ danh của mình mà tìm cho được mấy cái giường ấm cho ba kỵ sĩ và một cái chuồng ấm cho ngựa.
“Đi giải quyết tình hình này đi, em trai,” Eustace nói. “Làm tốt hết mức đấy nhé.”
Judson, vốn lúc nào cũng làm việc rất nhanh, tận tụy kết bạn với một số gã đang ngồi nhai thuốc lá trong tiệm tạp hóa. Và chỉ trong mấy phút, Kỵ sĩ Đường trường đã được mời tới tránh cơn bão băng tại một khuôn viên gần đó, vốn thuộc một tổ chức dân quân gồm các dân nghèo da trắng đại diện cho Phong trào Yêu nước. Theo miêu tả của Eustace Conway, những tay dân quân này là “nhóm người nghĩ rằng chính phủ Mỹ có kiểu áp chế quá đáng đối với đời sống của họ, điều đó về căn bản không phải là một ý niệm sai lầm và tôi đồng ý với nhiều quan điểm của họ, tuy nhiên tôi không thích mấy mức độ mất trật tự của họ, và cả đám họ uống rượu nhiều tới mức chẳng thể chuyển tải thông điệp của họ sao cho có hiệu quả.”
“Có, chúng tôi có một chỗ các anh ở được đấy,” một tay dân quân lè nhè. “Các anh có súng cả à? Ô, ở chỗ chúng tôi thì các anh chả cần tới súng đâu! Chúng tôi có vô khối súng.”
Trong hai ngày sau đó, Kỵ sĩ Đường trường làm khách của Phong trào Yêu nước. Chết gí trong ngôi nhà nông trang nhỏ ở Louisiana bởi thời tiết, Susan và Judson dành hai ngày ấm cúng đó say bí tỉ với những người bảo vệ trung thành các quyền bất khả xâm phạm trong Tu chính án số Hai(1) này và bắn súng làm khuây. Trong khi đó, Eustace cố giữ cho mình tỉnh táo và được việc, dành bốn mươi tám giờ đó gọi điện cho tất cả những người anh đã từng gặp trên khắp nước Mỹ, cố thử xem có ai biết người nào đó muốn gia nhập Kỵ sĩ Đường trường để lái chiếc xe tải kéo xe moóc không. Eustace đã chán ngấy tất cả những phiền toái phải lái xe đi trước rồi đi nhờ xe quay lại. Quả nhiên, sau khoảng một trăm cuộc gọi, anh tìm được người lái xe cho mình, một thanh niên mười chín tuổi biệt danh Người Đầm Lầy, ngay vào thời điểm ấy a chẳng biết làm gì với cuộc đời mình ngoài nhảy lên một chiếc xe khách ở Bắc Carolina tới nhập đoàn ở Louisiana.
Khi bão băng tan, Kỵ sĩ Đường trường chào tạm biệt những người bạn dân quân rồi lại Tây tiến với bạn đồng hành mới, chàng Người Đầm Lầy lái chiếc xe hỗ trợ, hối hả tiến về Texas.
Đối với Eustace thì Texas là một điểm đến đáng nhớ bởi vì đó là nơi anh mua cho mình con ngựa xuất sắc nhất đời anh - Hobo yêu dấu. Hobo là một con ngựa sinh-ra-để-chu-du nhà nòi. Hobo rồi đây sẽ trở thành một huyền thoại, con ngựa nhanh nhất thông minh nhất và trung thành nhất Eustace từng gặp. Eustace mua Hobo trên đường đi ở trung tâm Texas từ một chủ trang trại là ông Garland, và đó quả là một phát hiện. Khi Kỵ sĩ Đường trường phi ngựa qua thì ông chủ trang trại đang đứng dựa hàng rào, và tất cả họ bắt đầu trò chuyện. Khi ông Garland miêu tả con ngựa ông ta đang định bán (“nó gầy và rất nhanh”) Eustace gần như đã rỏ dãi. Từ cuộc trò chuyện ngắn ngủi này, anh có thể suy ra toàn bộ câu chuyện. Người đàn ông Texas này đã mua cho mình một con ngựa thần tốc đẹp mã bởi vì ông thích cái ý đó, nhưng giờ ông thấy rằng con vật đó nhanh quá khó điều khiển. Dẫn nó lại đi!
“Anh muốn cưỡi thử nó không?” ông chủ trang trại hỏi.
Eustace phóc lên lưng Hobo để cưỡi thử và nói, “Chạy đi nào.” Trong chớp mắt, con ngựa đang từ khoan khoái gặm cỏ ngoài đồng chuyển sang phi nước đại cực kỳ kinh khủng. Mũ Eustace bay vèo và anh chỉ kịp bám chắc bằng gót chân.
“Tôi nghĩ anh trai cậu không điều khiển được con ngựa ấy đâu,” ông Garland nói với Judson lúc này đang quan sát từ chỗ hàng rào, và Judson nói, “Ô, anh ấy sẽ điều khiển được.
Một ngày kỳ diệu! Eustace sợ sẽ là thô lỗ và tục tĩu khi nói với người đàn ông Texas này rằng thật sướng khi cảm nhận con ngựa giữa hai chân anh trong chuyến phi thử ấy, thật khoái cảm và rung động khi Hobo căng mình băng qua đồng cỏ “như một kẻ chuyên thách thức bẩm sinh, như tên lửa,” rằng anh không thể không nghĩ rằng chẳng có gì trên thế gian này khiến anh cảm thấy sướng đến thế giữa hai chân mình, có lẽ chỉ ngoại trừ tấm thân Carla...
Anh mua Hobo liền tay và thế là người ngựa phóng đi. Eustace và con ngựa phi thường này có một sự tương tác vô cùng kỳ thú, ngay từ ngày đầu tiên. Như Eustace sau này sẽ nói, “Tất cả những gì tôi phải làm là nghĩ, và tôi có thể nói ra suy nghĩ đó nhanh bao nhiêu thì Hobo có thể đáp ứng nhanh bấy nhiêu.” Đây là con vật mà rốt cuộc cũng vừa ý Eustace - một người bạn đường chân chính, một con vật muốn đi. Hobo là một phần thêm vào rất tuyệt vời. Kỵ sĩ Đường trường cần một con ngựa dẫn đầu hăm hở như Hobo để giữ đà cho họ. Đôi khi chẳng dễ gì còn mãi nhiệt tình. Tất cả họ - ngựa và người cưỡi ngựa - đều bị thương, căng thẳng và kiệt sức. Ví như chuyện này, Judson luôn bắn một phát súng ăn mừng khi họ vượt qua biên giới các bang, nhưng một hôm tai nạn thật khủng khiếp đã xảy ra, khi anh làm thế ở biên giới giữa Arizona-New Mexico thì ngựa của Eustace hoảng sợ lồng lên ném Eustace xuống đất. Ngày hôm đó Eustace không cưỡi Hobo hay Hasty mà đang cưỡi thử một con ngựa họ mới mua - Blackie, một con lai nòi ngựa thảo nguyên bất kham dũng mãnh, loài vốn rõ là chẳng ưa gì súng ống. Khi Judson khai hỏa, con ngựa nổi cơn tam bành làm Eustace té chúi mũi xuống một tảng đá toạc cả da đầu. Anh bị thương nặng, đầu óc quay cuồng, mỗi bước chân đều khiến anh co giật, nhưng anh quấn một miếng băng quanh chỗ bầm máu rồi cứ thế phi tiếp, bởi vì “Tôi phải làm gì chứ? Không tiếp tục sao?”
Đây không phải chuyện phi ngựa cho vui. Không phải họ đang thảnh thơi rong ruổi xuyên nước Mỹ. Họ đang ngốn bao dặm trường, điều đó đồng nghĩa họ lúc nào cũng mệt mỏi. Họ đói và đau nhức. Họ cãi nhau. Đáng buồn là điều ngược lại với những gì Eustace mong mỏi từ chuyến đi này lại đang diễn ra. Anh đã khao khát thắt chặt mối quan hệ với Judson, nhưng thay vì thế, Judson đang càng ngày càng mất dần thái độ tôn thờ người hùng đối với anh trai. Judson muốn được vui trong hành trình này, và thấy bực mình vì Eustace cứ khăng khăng giữ nguyên tốc độ, một tốc độ không bao giờ cho phép họ có thời gian dừng lại để thưởng thức cảnh vật xung quanh.
“Tôi có thể nói gì về Eustace?” Judson sau này có hỏi. “Lúc nào anh ấy cũng phải là Ernest Shaton(2) chết tiệt, thiết lập mọi kỷ lục thế giới, nhanh nhất trong chuyện này và giỏi nhất trong chuyện nọ. Anh ấy chẳng bao giờ ngơi nghỉ và thưởng thức. Đó không phải lý do mà Susan và tôi tham gia chuyến đi.”
Hành trình đi xuyên đất nước đang biến thành một bức tranh sơn dầu khổng lồ mà trên đó sự khác biệt giữa hai anh em Conway được nhấn đậm. Một bên là Eustace - được những câu chuyện thần thoại cổ xưa về các anh hùng và định mệnh thúc giục. Và bên cạnh anh là Judson - được điều khiển bởi khao khát có một khoảng thời gian vui vẻ và được trang bị một cảm quan hoàn toàn hiện đại về vai trò của con người trong thế giới này. Chính nhờ cảm quan tự thức ưu việt này của Judson Conway (tiện thể xin nói, một cảm quan mà anh chia sẻ được với hầu như tất cả người Mỹ hiện đại ngoại trừ anh trai anh) mà anh có thể đùa, “Này, giờ em đã là một chàng cao bồi đích thực rồi!” khi anh khai hỏa khẩu súng sáu của mình. Judson phi ngựa xuyên nước Mỹ bởi vì anh biết rằng xưa kia người ta vốn hay làm những việc kiểu này và bởi vì thật quyến rũ và vui thú khi giả bộ là một biểu tượng. Eustace cưỡi ngựa xuyên nước Mỹ bởi vì anh muốn cái biểu tượng ấy sống. Đối với Judson đó là một trò chơi thú vị; đối với Eustace, đó là một nỗ lực hết sức nghiêm túc.
“Susan và tôi chắc sẽ vui lắm nếu đi với nửa vận tốc hiện tại để có thêm thời gian lang thang ngửi hoa,” Judson nói.
“Đâu phải vì tôi chạy năm mươi dặm một ngày mà tôi không thể ngửi hoa,” Eustace phản đối. “Tôi có ngửi hoa khi phi ngang qua đấy chứ! Và tôi ngửi được hơn người khác năm mươi dặm hoa. Thứ nhất, chúng tôi cần tốc độ đó trên hành trình này bởi vì kế hoạch đã định - Judson và Susan phải quay lại với công việc của hai đứa, thế nên chúng tôi đâu có vô khối thời gian để tới California. Hơn nữa, tôi muốn biết khả năng của chúng tôi tới đâu. Cả ngựa lẫn người. Tôi muốn thúc bách, nghiên cứu kỹ lưỡng, thách thức, khuất phục địa hạt cái khả dĩ. Tôi muốn đặt những giới hạn của chứng tôi dưới kính hiển vi và nhìn chúng, hiểu rõ chúng, và khước từ chúng. Nghe này, cái chuyện mình có được thoải mái hay thậm chí có niềm vui trên lộ trình này hay không chẳng hề với tôi. Khi tôi có một cái đích, khi tôi đang đứng giữa một thách thức như thế này, tôi không cần những thứ người khác cần. Tôi không cần ngủ hay ăn hay ấm hay khô ráo. Khi không ăn không ngủ thì tôi có thể sống mà chẳng lệ thuộc vào cái gì.”
“Thế gọi là chết, Eustace,” tôi nói.
“Không,” anh cười tươi. “Thế gọi là sống.”
Khó mà thấy được làm sao sự khẩn thiết này lại phù hợp với triết lý sống kiểu thiền của Eustace trong sự hài hòa tuyệt đối với nhịp điệu dịu êm của tự nhiên, trong sự “hành như thủy”. Hành trình này rõ ràng không phải là chuyện hành như thủy; nó là chuyện vắt kiệt lực phi ngựa xuyên đất nước. Và tác động là không hề yên ả. Những người đồng hành của Eustace khó lòng chịu nổi quyết tâm không suy chuyển của anh. Judson đâm ra đêm nào trong chuyến đi cũng uống rượu như một cách để làm dịu ảnh hưởng từ sự dữ dội của người anh.
“Tôi biết Eustace ghét nhìn thấy tôi say xỉn lơ mơ,” anh nói, “nhưng có thế thì tôi mới khỏi phát rồ.”
Eustace luôn gay gắt và sự lãnh đạo của anh thường mang tính đàn áp, nhưng anh luôn bảo vệ mọi quyết định của mình, thậm chí cho tới bây giờ. “Mọi người không hiểu - Judson và Susan đã không hiểu - rằng chẳng phải ngẫu nhiên khi chúng tôi đi được chừng ấy dặm đường mà bản thân và gia súc không hề gặp thương vong gì nghiêm trọng. Tôi biết nhiều người đã cố phi ngựa xuyên nước Mỹ và rồi rối bời hết cả lên - ngựa bị thương, đồ đạc bị ăn trộm, bị trấn lột, bị đánh, bị xe đâm. Điều đó đã không xảy ra với chúng tôi, bởi vì tôi cực kỳ cảnh giác. Mỗi ngày tôi ra hàng nghìn quyết định cá nhân, mỗi quyết định lại thu hẹp một phần tỉ lệ gặp rắc rối. Nếu tôi quyết định băng qua đường, điều đó là có lý do. Nếu tôi có thể chỉnh một tí cho con ngựa đi trên bãi cỏ thay vì trên sỏi dù chỉ được bốn bước thôi tôi cũng sẽ làm, tránh cho chân ngựa sự va chạm mạnh trong bốn bước.
“Vào cuối ngày, khi chúng tôi đang tìm chỗ cắm trại bộ não máy tính của tôi sẽ góp khởi động và đánh giá từng khả năng, nhập vào khoảng ba chục sự kiện bất ngờ mà không ai khác xem xét đến. Đồng cỏ này gần kiểu khu dân cư nào vậy? Có đường thoát hiểm nào phía sau đồng cỏ này không trong trường hợp chúng ta cần chạy vội? Có dây điện rơi trên mặt đất dễ khiến ngựa quấn phải không? Bên kia đường liệu có cỏ tươi lôi cuốn bọn ngựa cắm đầu băng qua đường lớn lúc nửa đêm để rồi bị xe đâm không? Từ ngoài đường mọi người có nhìn thấy chúng ta rồi dừng lại hỏi xem chúng ta đang làm gì và tiêu phí năng lượng của chúng ta trong khi chúng ta cần chăm sóc ngựa không? Judson và Susan không bao giờ thấy được quá trình này. Chúng cứ luôn miệng nói, 'Chỗ này thế nào anh Eustace? Chỗ này có vẻ là địa điểm cắm trại được đấy'. Và tôi nói, 'Không, không, không' mà chẳng buồn giải thích tại sao.”
Judson và Susan, vốn sẵn bực mình dưới sự chỉ huy của Eustace, nổi loạn ở Arizona. Họ thực sự chia ngả trên đường đi. Ngày hôm đó, Judson và Susan muốn rời đường lớn để thực hiện lộ trình hoang dã hơn, phi thẳng xuống đi tắt qua hẻm núi chông gai hứa hẹn một cuộc phiêu lưu ra trò trên mọi địa hình. Eustace ngăn cản. Anh muốn tiếp tục trên đường lớn, một chặng phi đều đều và kém thú vị hơn sẽ khiến ngựa phải đi thêm nhiều dặm, nhưng bớt phải chịu tác động mạnh hơn đáng kể. Kỵ sĩ Đường trường mở một cuộc họp nhóm.
“Như thế không an toàn,” Eustace nói. “Ta không thể biết mình sẽ đụng phải cái gì dưới đó. Ta có thể gặp một vách núi hoặc một con sông không thể vượt qua và đành phải quay lại đường cũ mất mười dặm, mất cả ngày trời. Ta có thể bị chết. Ta không có bản đồ hay bất kỳ thông tin khả tín nào. Ta sẽ gặp phải đá lở hoặc đường mòn gập ghềnh hoặc những con lạch nguy hiểm sẽ hạ gục ngựa của ta. Lũ thú của chúng ta vốn đã bị vắt kiệt sức rồi; đòi hỏi điều này ở chúng thật quá tàn nhẫn. Làm vậy là liều mạng quá nguy hiểm.”
“Bọn em chán cưỡi ngựa trên đường lớn lắm rồi,” Judson phàn nàn. “Bọn em tham gia chuyến đi này bởi vì bọn em muốn nhìn ngắm đất nước, và đây là cơ hội để bọn em về với thiên nhiên. Bọn em muốn phóng khoáng hơn, sống chênh vênh thử thách hơn.”
Họ bỏ phiếu, và tất nhiên Judson và Susan thắng. Eustace không lay chuyển. “Anh nhất định không là không,” anh nói. “Các em có thể đi đường mòn qua hẻm núi nếu các em muốn, nhưng anh không tham gia.”
Đó là một khoảnh khắc tan hoang trong lòng Judson. Họ đã ra quy ước trước khi khởi hành chuyến đi này rằng mọi chuyện sẽ phải tuân thủ nguyên tắc dân chủ; nếu có xảy ra tranh cãi về bước đi tiếp theo của hành trình, ý kiến đa số sẽ quyết định. Đáng ra họ không bao giờ chia rẽ bởi bất đồng quan điểm, thế mà giờ họ đang làm đúng điều đó. Trên hành trình hai nghìn năm trăm dặm phi thường này, có một khoảng ngắt quãng ba mươi dặm đáng buồn ở giữa lòng đất nước nơi những người đồng hành khăng khít phải chia lìa bởi họ không thể đạt tới đồng thuận.
“Em đã nghĩ chúng ta lẽ ra phải là một đội,” Judson nói với anh trai.
Và Eustace trả lời, “Anh rất vui được là một đội chừng nào chúng ta luôn làm những điều anh biết là đúng.”
Judson và Susan phi thẳng xuống hẻm núi.
“Đó là ngày lạnh nhất trong cả hành trình ấy,” Judson nhớ lại. “Cảnh trí thiên nhiên hoang dã. Chúng tôi phi ngựa qua những con sông nước ngập tới bụng ngựa và chúng tôi phi ngựa qua những tháp đá dựng đứng cổ xưa. Chúng tôi say mê từng giây từng phút trong chặng đường ấy, cười đùa và ca hát không ngừng. Đó là tất cả những gì tôi đã từng mường tượng về chuyến đi này. Chúng tôi thấy mình như những kẻ lang bạt thời xưa. Và Eustace đã bỏ lỡ tất cả.”
“Khi quay trở lại, ngựa của hai đứa nó đều tập tễnh mệt mỏi,” Eustace nhớ lại. “Chúng đáng lẽ chẳng bao giờ nên xuống dưới đó. Chúng có thể chết, hoặc có thể chúng đã hủy hoại ngựa. Tôi đã đúng.”
Từ đó trở đi, Judson quyết định im miệng mà làm theo sự chỉ huy của Eustace, bởi vì chịu quy phục sẽ bình yên hơn cãi nhau. Nhưng khi phi ngựa bên cạnh anh trai, Judson chịu đựng một cảm giác kinh khủng rằng sau chuyện này họ sẽ không bao giờ được như trước nữa.
Họ tới được Thái Bình Dương vào lễ Phục sinh đúng như đã định. Không bỏ cuộc và không chết chóc. Họ phi xuyên qua San Diego tới nơi họ có thể ngửi thấy mùi biển cả. Khi đi hết con đường lớn cuối cùng và đến bờ biển, Eustace cưỡi ngựa phi thẳng vào sóng nước, như thể anh muốn cưỡi Hobo phi một mạch tới Trung Hoa. Anh đầm đìa nước mắt, vẫn đầy thôi thúc.
Judson và Susan thì không. Họ đã cạn kiệt với chuyến đi tàn bạo này rồi. Nó đã kết thúc, và họ rất vui mừng. Judson đi thẳng tới chỗ có người. Anh phi ngựa thẳng vào một quán bar và ngồi - trên lưng ngựa! nhiều giờ liền, xoay xoay khẩu súng sáu và kể vô khối chuyện trong khi các vị khách xúm đông xúm đỏ quanh anh và tay bartender đưa cho anh hết chầu này tới chầu khác, về phần Susan, cô buộc ngựa ngoài quán bar và lặng lẽ đi vào giữa đám đông mà không ai đặc biệt chú ý.
Tuần sau đó họ ở lại San Diego, nơi hai bà mẹ của bọn họ tới thăm. Bà Conway và bà Klimkowski muốn đưa mấy thanh niên đi quanh thành phố để cho họ xem Sea World và tham quan sở thú và ăn trong những tiệm thượng hạng. Judson và Susan vô cùng sung sướng vì được chiều chuộ