Chương tám
Chỉ một mình tôi nhận thức thấu đáo kế hoạch đích thực và cách thức hoàn thành nó.
- Charles Fourier, nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng
Ông ngoại của Eustace Conway thành lập Trại Sequoyah vào năm 1924 và ông ã điều hành lãnh thổ của mình với sự chỉ huy khắt khe cho tới lúc ông qua đời do đau tim ở tuổi tám mươi. Người ta kể lại, ông chết trong khi đang làm việc, không bao giờ mỏi gối chồn chân. Và ông không chỉ định người thừa kế di sản của mình. Sau đám tang của ông, mọi chuyện trở nên rõ ràng là chẳng có kế hoạch nào cho trại tiếp tục hoạt động khi không có ông. Mặc dù có một lực lượng đông đảo nhân viên làm việc cho mình, Tư lệnh không tin ai đủ để chuyển giao quyền quản lý hoạt động, chưa từng tìm được một ai khiến ông tin tưởng có thể điều hành Sequoyah thân yêu - “Trại Mục Tiêu” của ông nơi “Người Yếu Trở Nên Mạnh và Người Mạnh Trở Thành Vĩ Đại” - đạt tới những chuẩn mực khắt khe của ông.
Khi các trại viên và nhân viên đến Trại Sequoyah vào mùa hè, Tư lệnh coi sóc mọi mặt trong cuộc sống của họ. Ông chỉ thị cho họ phải mặc đồ ra sao, khi nào luyện tập, khi nào cầu nguyện, và ăn món gì. Một nhân viên tư vấn nhớ lại rằng Tư lệnh Johnson dẫn anh ta vào văn phòng của ông và làm một bài thuyết giảng tròn một tiếng đồng hồ về cách quét nhà tốt nhất. Một tư vấn viên khác có lần được một bài giảng về cách sử dụng kẹp giấy tốt nhất. (“Cái móc lớn vòng ra sau tập tài liệu; cái móc nhỏ thì ở phía trước.”) Đương nhiên là Tư lệnh cấm thuốc lá chửi bậy và rượu chè trên đất đai của ông. Nhưng không chỉ vậy, ông còn tuyệt đối nghiêm cấm Coca-Cola, giấm ớt và vải bông. Nghe đồn Tư lệnh đã cho diêm tiêu vào món táo thắng đường để “kiềm chế dục vọng” và giữ các chàng trai tránh khỏi ham muốn thủ dâm (“Chúng tôi thực sự đã ăn nhiều táo thắng đường,” một trại viên Sequoyah nay đã già nói khi tôi nêu chuyện này lên.) Tóc không được chạm tai. Vào Chủ nhật trại viên phải mặc áo trắng ủi thẳng. Y tá của trại, những người phụ nữ duy nhất trong lực lượng nhân viên ở đây, phải hết sức đoan trang và giản dị để không gây ra xao xuyến dục tình vì sự có mặt của họ. Nhân viên được xếp hạng trong suốt mùa hè dựa trên tiến bộ thể chất và xã hội của họ, với điểm cộng cho những nét tiêu biểu như Trung thành, sẵn sàng Gánh vác Nhiệm vụ, và Sức hút Cá nhân.
Ông không nhân nhượng. Ông không khen ngợi. Chưa một ai đủ tốt trong mắt Tư lệnh. Chưa ai làm việc chăm chỉ hay hiệu quả hơn Tư lệnh. Ông tạo nên khu trại đó từ vùng đất đai hoang dã chưa dấu chân người, tạo ra nó bằng sức mạnh và tài năng của bản thân ông. Ông đã chịu đựng qua những mùa đông đầu tiên ở Trại Sequoyah trong một lán gỗ, đã định ra mọi ý niệm triết học để biến khu trại này thành độc nhất, đã xây dựng mọi kiến trúc ở đó, và đã giữ cho hoạt động duy trì (và thịnh đạt) qua suốt những thời kỳ gian khó Đại suy thoái và Thế chiến Thứ hai. Thế thì ai được phép nói cho Tư lệnh Johnson cách thực hiện một điều gì đó? Không ai cả. Cũng giống như người cháu Eustace sẽ than phiền năm mươi năm sau trong nhật ký về những nhân viên bê trễ tại vương quốc của riêng anh, Đảo Rùa, “Tôi đã làm việc quần quật để làm cho nơi này được như ngày hôm nay. Còn họ làm được gì? Làm sao họ có thể coi trọng điều đó? Họ đã bỏ công sức vào thứ gì thực sự thử thách nào? Làm sao tôi có thể chịu đựng nổi họ?”
Ồ, anh có thể chịu đựng được họ bằng cách phủ chụp quyền lực tuyệt đối lên họ, cả thể xác lẫn tâm hồn. Đó là điều Tư lệnh đã làm. Tư lệnh có một loạt “cuộc trò chuyện” dành cho các trại viên vào nhiều thời điểm khác nhau trong quá trình họ sống trong trại, dựa theo tuổi tác của họ. Trong đó gồm những cuộc thảo luận về Thượng đế, Tự nhiên, Trung thực, Dũng cảm, Cách Trở thành Người Mang Sứ Mệnh, và đồng thời còn có các răn dạy về Thủ dâm và Hẹn hò. Ông nói chuyện với các chàng trai về “Ảnh hưởng của đời sống tình dục chừng mực đối với hôn nhân và con cái” (Cuộc trò chuyện số 5) và về “Bệnh lây qua đường tình dục” (Cuộc trò chuyện số 6). Khi các chàng trai của ông rời khỏi Trại Sequoyah, Tư lệnh vẫn giữ liên lạc với họ - với hàng nghìn người trong số họ - gửi những lời nhắn nhủ khích lệ vào mỗi dịp Giáng sinh, cũng như gửi những cuốn sách mỏng đầy tha thiết của chính ông, những cuốn sách mà ông gửi qua đường bưu điện cho họ vào những thời khắc quan trọng của cuộc đời:
Lá thư gửi các cậu bé về chuyện rời nhà đi học tiểu học
Lá thư gửi các chàng trai về chuyện bước vào đại học
Lá thư gửi các chàng trai nhân dịp sinh nhật hai mươi mốt
Lá thư gửi các chàng trai về việc kết hôn
Lá thư gửi các chàng trai vừa trở thành bố
Tất cả các cậu bé đều là con trai của Tư lệnh. Và các cậu bé của ông lớn lên đều trở thành bác sĩ, thẩm phán, giáo viên, người lính - trụ cột vững chắc của miền Nam nước Mỹ trong nhiều thập kỷ. Mỗi thành tựu của họ là thành tựu của chính ông. Vào thập niên 1950, một phụ nữ đã viết cho Tư lệnh một lá thư quả quyết với ông rằng con trai bà, vốn là trại viên Trại Sequoyah, đã trải qua hai năm trong Hải quân mà không bị nhiễm “thói hư tật xấu nào vốn hay thấy ở lính thủy. Tôi cảm thấy rằng cảnh mộng thằng bé đã được chứng kiến ở Sequoyah đã và sẽ mãi còn là ánh sáng dẫn dắt soi rọi suốt con đường của nó.”
Tất cả cậu bé đều là con của Tư lệnh, đúng thế. Nhưng ông cũng có hai người con ruột, Harold và Bill Johnson, anh của mẹ Eustace Conway, Karen.
“Lớp trẻ mỗi thế hệ nên nhận thức được vai trò mà một số trong họ sẽ được vinh dự đảm trách trong tiến trình của con người đạt tới một Sứ Mệnh Cao Hơn,” Tư lệnh viết, và không thanh niên nào chịu trách nhiệm này đè lên vai mình nặng hơn các con trai của Tư lệnh. Ấy thế nhưng Harold và Bill, có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên khi biết điều này, đều trở nên phản kháng lại người cha của họ. Họ hút thuốc và rượu chè từ năm mười lăm tuổi. Khi thì rầu rĩ khi thì ngang ngạnh. Nổ súng và đua xe. Bất phục tùng và phẫn nộ.
“Họ hoàn toàn trái ngược,” một trại viên Sequoyah cũ nhớ lại, “với những gì mà Tư lệnh vô cùng mong mỏi ở con trai. Ông ấy luôn hình dung họ sẽ là những cậu bé mẫu mực.
Tư lệnh chẳng tài nào hiểu nổi tại sao các con trai của ông lại trở nên hư hỏng. Có thể là do lỗi của bà mẹ. Bà Tư lệnh, người ta bao giờ cũng gọi bà với cái tên đó, luôn gây cản trở cho ông chồng bởi không nghiêm khắc và kỷ luật như ông mong đợi. Nhưng ta có thể mong đợi điều gì? Bà Tư lệnh không giáo điều như ông. Bà là một nghệ sĩ dương cầm tài năng, tốt nghiệp đại học, và là một người thời lưu thành thị bất đắc chí, nhiều cảm xúc và tâm trạng khó lường, và thường bất mãn vì phải sống cả đời trong rừng với hàng nghìn cậu bé. Bà có “khí chất nghệ sĩ”, là điều mọi người vẫn nói một cách hết mực tế nhị. Không giống ông chồng, lúc nào cũng xét những khía cạnh thuộc bản năng loài thú hằn trong bản tính con người từ góc độ logic, bà Tư lệnh nổi tiếng là đôi khi gào thét ầm ĩ trong những cơn tuyệt vọng và giận dữ. Bà cũng có tiếng là thỉnh thoảng trốn vào đâu đó để chơi những giai điệu ractim rạo rực dục tình trên đàn piano mỗi khi chồng bà không nghe thấy. Có lẽ bà còn rất thích ớt nữa.
Thế nên có thể những gì xảy ra với mấy cậu con trai đều do lỗi của bà Tư lệnh. Có lẽ Tư lệnh đã nghĩ vậy. Cứ hễ có cơ hội là cả hai cậu con trai đó trốn khỏi nhà. Harold, cậu con cả của Tư lệnh, là người gây cho ông nhiều phiền toái hơn cả. Con không thể nghe lời được sao? Không, Harold Johnson không thể nghe lời và phục tùng cha, không thể, ngay từ ngày đầu tiên. Và anh không thể chịu được sống ở nhà. Y như người cháu của Harold, Eustace, viết trong nhật ký thời niên thiếu nhiều thập kỷ sau: “Mặc dù bỏ trốn là điều rất ngớ ngẩn, tôi nghĩ chỉ cần tôi có thể trốn chạy thì ở bất cứ đâu trong rừng tôi cũng sẽ hạnh phúc hơn. Nếu thật sự ra đi, tôi sẽ nỗ lực hết mình để không quay lại, dù cho tôi có chết đói đi nữa. Bất cứ cái gì cũng đều tốt hơn thế này.”
Harold bỏ nhà đi Alaska khi anh mười bảy tuổi. Giống như những thế hệ thanh niên Mỹ thời trước anh, anh thẳng tiến tới vùng biên để thoát khỏi uy quyền của ông già. Anh không thể ở chung dưới một mái nhà với cha mình. Họ không có phương cách nào để trò chuyện. Người cha sẽ chẳng bao giờ khen ngợi Harold, chẳng bao giờ nương tay với anh, chẳng bao giờ cho anh một chút không gian nào để anh nhúc nhích hay phát triển. Nhưng Harold muốn trở thành một người đàn ông vĩ đại, và rõ ràng là chẳng có chỗ nào trong thành phố này cho cả hai người. Harold phải ra đi.
Anh đã đọc Jack London và cảm thấy rất khao khát.
Lúc anh tới được Seward chỉ có vỏn vẹn năm mươi xu trong túi. Anh đói, sợ hãi và đơn độc, nhưng anh chắc chắn một điều rằng sẽ không quay về Trại Sequoyah. Anh tìm được việc trong một đội làm đường. Rồi anh mua cho mình một chiếc mô tô và đi học sửa chữa động cơ. Và rồi khi Thế chiến II sắp nổ ra, anh gia nhập lực lượng lính thủy đánh bộ (gây nên nỗi khiếp sợ của người cha, vốn là một người hết lòng với hòa bình từ khi chứng kiến cảnh tàn sát trong những chiến hào ở Pháp). Harold đóng quân ở Hawaii, ở đó anh dạy cách sống sót trong rừng rậm cho các phi công của Lực lượng Không quân. Sau chiến tranh, anh từ chối quay trở lại miền Nam, và trên Alaska, anh mở hết cơ sở kinh doanh này đến cơ sở kinh doanh khác - một tiệm kem, một đại lý bán thuyền bè, một cơ sở phát triển kinh doanh bản kính dương màu theo đơn đặt hàng. Rồi anh làm và bán máy phát điện, một kế hoạch sinh lợi cao ở một bang mà lúc bấy giờ vẫn chưa có mạng lưới điện. Rồi anh gây dựng một doanh nghiệp buôn bán động cơ diesel và trở thành triệu phú. Anh cao gần hai mét, khỏe mạnh và bảnh bao. Và luôn nổi tiếng là một người đàn ông quyến rũ, lôi cuốn, to cao, mạnh mẽ và đầy uy lực, một người làm việc không ngừng không nghỉ, rất giỏi tự quảng bá bản thân, và không dễ gì khen ngợi hay hoan nghênh ý kiến của người khác.
Khi Tư lệnh Johnson qua đời ở tuổi tám mươi, không có ai tiếp quản Trại Sequoyah. Hai con trai ông chẳng ai muốn điều hành trại. Harold ghét miền Nam và đã có đế chế của riêng mình ở Alaska để quản lý. Bill, cậu con trai nhỏ tuổi hơn và rắc rối hơn, đã trở thành một tay chủ thầu bất động sản. Anh ta muốn bán một phần vương triều tươi đẹp giữa rừng già của Trại Sequoyah mà cha anh ta đã bảo tồn suốt nhiều thập kỷ, để làm nhà và đốn gỗ.
Có một điều cốt yếu về gia đình Johnson cần phải lưu ý ở đây. Khả năng cô con gái của Tư lệnh có thể tiếp quản Trại Sequoyah là điều dường như không bao giờ được bàn đến. Bất chấp sự tận tụy sâu sắc của Karen đối với mộng tưởng của người cha và khả năng sống nơi hoang dã của cô, cô không bao giờ được xem như một ứng viên cho cương vị lãnh đạo. Xem ra không đủ mạnh mẽ, có lẽ vậy. Nhưng chồng cô rất mong được điều khiển trại, khao khát có được cơ hội này. Và tất nhiên, như chúng ta biết, chồng cô là Eustace Robinson Conway.
Đó là Eustace Cha, người đã tới Trại Sequoyah sau khi tốt nghiệp Học viện Công nghệ Massachusetts để được làm việc với lũ trẻ và sống giữa thiên nhiên. Là một trong những tư vấn viên sáng giá, thông minh, nghị lực, tận tụy, có thể chất phù hợp, Eustace Cha yêu thiên nhiên hoang dã, nắm giữ kỷ lục về khả năng đi bộ đường trường của toàn trại, và là một giáo viên tài năng, người dẫn dắt đầy kiên nhẫn các trại viên. Ông rất được yêu mến. (Một lần, tôi tới buổi họp mặt của Trại Sequoyah và gặp rất nhiều người đàn ông đã trưởng thành, khi tôi đề cập với Eustace Conway họ liền bảo, “Ông ấy có đến đây không? Chúa ơi, tôi sẵn sàng đánh đổi tất cả để được gặp lại ông ấy! Ông ấy là nhà giáo dục về tự nhiên xuất sắc nhất tôi từng được học! Tôi tôn thờ ông ấy!” Mất một lúc làm tính nhẩm ước lượng tuổi tác tôi mới nhận ra những người đàn ông đứng tuổi này đang nói về bố của Eustace bạn tôi.) Với trí tuệ sắc bén và đam mê dành cho tự nhiên, Eustace Cha tin mình có bộ não và tinh thần để tiếp quản Trại Sequoyah một ngày nào đó. Và, như ông thoải mái thừa nhận với tôi, ông cưới Karen Johnson “nửa phần là vì con người của bà ấy, còn nửa phần là để đặt tay lên khu của cha bà ấy.”
Sự thật thì, ông hẳn sẽ rất xuất sắc trong việc điều hành nơi đó. Như một trại viên Sequoyah cũ nhớ lại, Eustace Cha “cũng nghiêm khắc, tận tâm, giỏi giang y như chính Tư lệnh vậy. Chúng tôi ai cũng cho rằng một ngày nào đó ông ấy sẽ tiếp quản trại. Ông ấy là người có khả năng hơn ai hết trong việc giữ cho khu trại đạt tới các tiêu chuẩn của Tư lệnh.” Nhưng khi Tư lệnh qua đời, ông không viết một lời nào như thế trong di chúc. Và Harold và Bill tuyên bố họ sẽ đấu tranh tới cùng để giữ không cho khu trại lọt vào tầm kiểm soát của người em rể. Họ không ưa gì chồng của cô em gái. Họ ghét ông bởi sự ngạo mạn về tri thức của ông và sự coi thường của ông đối với họ. Họ nghĩ ông là một kẻ cơ hội và sẽ không để ông được bén mảng tới nơi đó.
Thế là khu trại cứ lay lắt qua nhiều năm dưới sự quản lý không đạt chuẩn, được lãnh đạo bởi những người đàn ông kém cỏi hơn vốn không thuộc gia đình Tư lệnh. Còn với Eustace Cha, ông từ bỏ giấc mơ trở thành nhà giáo dục tự nhiên mà đến làm kỹ sư cho một nhà máy hóa chất. Sống trong một cái hộp, làm việc trong một cái hộp, lái từ cái hộp này tới cái hộp khác trong một cái hộp có bánh xe. Ông không bao giờ đặt chân tới gần Sequoyah nữa. Và khi Eustace Con lại thành ra một cậu bé hoang dã và ngang ngạnh, yêu thích rừng già hơn trường học, Eustace Cha thường xuyên tấn công cậu với lời lên án rằng cậu “vô nguyên tắc, bất thường, cứng đầu và khó chịu, y hệt như mấy ông cậu nhà Johnson vậy.”
Trại Sequoyah rốt cuộc tàn lụi thành con số không. Những ngôi nhà gỗ tự làm vững chãi nằm im lìm trống trải. Khi cuối cùng trại bị bỏ hoang vào thập niên 1970, Eustace Conway Con đã bước vào tuổi thiếu niên. Cậu đã là một kẻ đi rừng thuần thục và một người chỉ huy đáng sợ, cậu bé đã bắt tất cả trẻ con xóm luân phiên làm việc theo ca suốt cả ngày trời để phục vụ bộ sưu tập rùa lớn của cá nhân
“Con muốn Trại Sequoyah,” Eustace Con nói. “Trao nó cho con! Hãy để con điều khiển nó! Con biết con làm được!”
Tất nhiên là chẳng ai nghe cậu. Cậu chỉ là một đứa trẻ.
Mùa hè năm 1999.
Khi trở về với hàng nghìn mẫu đất Đảo Rùa sau những chuyến phiêu lưu xuyên nước Mỹ trên lưng ngựa và trên xe ngựa, Eustace Conway thấy thiên đường của anh là, phải, một đống hỗn độn.
Sau nhiều năm dưới bàn tay mở mang và phát triển của Eustace, Đảo Rùa đã phong phú hơn rất nhiều; nơi này không còn là khu bảo tồn thiên nhiên thô mộc nữa mà đã trở thành một trang trại nguyên thủy vô cùng trật tự và hoạt động hiệu quả. Đây đó có những tòa nhà, tất cả đều được Eustace xây dựng với nhiều kiểu cách truyền thống khác nhau, vẫn còn đó văn phòng sử dụng năng lượng mặt trời của riêng anh, phải. Nhưng anh cũng đã xây nhiều công trình công cộng, trong đó có một khu nhà nghỉ thoải mái cho khách tham quan tên là “Nhà Cho Mọi Người”, được anh thiết kế theo nguyên mẫu là nhà kho truyền thống của một người hàng xóm.
Anh đã xây một kho chứa dụng cụ rất đẹp, làm thủ công một cách hoàn hảo giống hệt như những ngôi nhà thời Daniel Boone, với cánh cửa bằng gỗ sồi tự xẻ và bản lề tự làm và những khe hở trát đầy phân bón và đất sét. Anh dựng kiến trúc này dựa trên những ngôi nhà anh đã thấy tại các di tích lịch sử. Và một chuồng lợn từ những thanh gỗ lắp mộng đuôi én, khắc hình chữ V theo phong cách truyền thống của người Appalachia. Và một chuồng gà với phần móng bằng đá sâu hai mươi phân trong lòng đất để không cho bọn thú ăn thịt đào đất vào chuồng trộm. Một nhà kho đựng ngô với những tấm ván sàn rất đẹp, và mặc dù “một trăm năm sau có thể ai đó sẽ ước gì tôi đã không sử dụng gỗ thông thì cũng đành. Tôi cần phải làm cho xong việc.” Anh đã dựng một xưởng rèn từ gỗ bồ kết và gỗ sồi, ngay bên cạnh một xưởng rèn đã đứng đó từ cách đây hai trăm năm, khi nơi mà giờ đây là Đảo Rùa chỉ là con đường lớn duy nhất cho toàn bộ khu vực thuộc dãy Appalachia này. Anh dùng đá của xưởng cũ để làm lò luyện, nơi giờ đây anh làm mọi việc gò rèn. Anh còn tạo một khu bếp ngoài trời. Và, trong suốt một mùa hè, với một đội hơn mười vốn chưa bao giờ làm công việc xây dựng, anh đã dựng một nhà kho cao mười hai mét bằng cây dương, cây thông và bồ kết ghép lại với nhau mà không có lấy một tấm gỗ xẻ, có những thanh xà dài hai mươi mét và khoe ra một mái vỉa rộng, sáu ô chuồng ngựa, và hàng nghìn tấm ván xẻ thủ công.
Và vẫn còn nhiều nữa.
Giữa công cuộc xây dựng này, một giáo sư ngành nhân học ở Bắc Carolma được nghe về chàng thanh niên thiên tài sống trên núi, xây nhà không cần đinh, làm nông cùng gia súc, và hoàn toàn tự cấp tự túc. Tò mò, một hôm bà bảo một sinh viên lên Đảo Rùa hỏi Eustace xem liệu anh có vui lòng xuống núi trò chuyện với lớp của bà và giải thích làm sao anh thực hiện được tất cả việc này. Với tinh thần trách nhiệm, Eustace cân nhắc lời đề nghị. Rồi anh bảo cậu sinh viên trở xuống núi với một lời nhắn nhủ ngắn gọn cho vị giáo sư đáng mến đó. “Nói với bà ấy tôi làm được điều đó bằng cách làm bở hơi tai.”
Đảo Rùa giờ đây là một khu đất rộng lớn và phức hợp. Chưa kể việc tổ chức các chương trình giáo dục, chỉ điều hành trang trại không thôi cũng đã là một việc đồ sộ. Nào là trông nom ngựa và bò và gà tây, nào là giữ gìn chuồng trại, sửa chữa hàng rào, xới cỏ, trồng vườn, rồi còn đóng kiện cỏ khô. Giữ cho nơi này hoạt động là cả một khối lượng công việc khổng lồ, và Eustace đã phó mặc tất cả vào tay những người học việc. Anh làm thế mà lo lắng vô cùng. Trước khi thực hiện những hành trình cùng ngựa, anh đưa cho các học viên các danh sách và các bài giảng để đảm bảo họ hiểu chính xác cách trông coi khu đất này, nhưng cuối cùng, anh rút gọn yêu cầu của mình xuống còn hai điều căn bản: “Làm ơn,” Eustace khẩn nài. “Chỉ cần không làm chết một con vật nào và không làm cháy một ngôi nhà nào của tôi.”
Ồ, họ không làm chết con vật nào của anh. Họ cũng không làm cháy bất kỳ ngôi nhà nào của anh. Nhưng khi Eustace trở lại, anh thấy Đảo Rùa chìm trong hỗn độn kinh khủng. Vườn tược um tùm cỏ; cầu cống cần sửa chữa; dê thả không đúng bãi; lối đi cây cối rậm rì. Chẳng có ai lo việc quảng bá và xếp lịch, điều đó có nghĩa là chẳng có lấy một nhóm học sinh nào tới thăm Đảo Rùa vào mùa thu năm ấy, và điều này lại có nghĩa là tiền bạc sẽ eo hẹp suốt mùa đông.
Nhân công của Eustace đều là những người năng nổ và chăm chỉ, nhưng sự thực thì Eustace chưa bao giờ tìm được bất kỳ ai anh tin cậy giao quản lý Đảo Rùa để làm cho cơ sở này phát đạt khi anh đi vắng. Tất nhiên, thật khó mà tưởng được rằng có ai đó có thể hoặc sẵn lòng làm việc bằng số giờ Eustace vẫn thường làm. Anh có một số học viên biết đối nhân xử thế, một số rất yêu gia súc, một số giỏi lao động chân tay, một số khá thạo kinh doanh. Nhưng không ai có thể làm mọi việc như Eustace, nghĩa là mọi thứ. Và chẳng ai sẵn lòng xây dựng nhà kho suốt cả ngày rồi lại thức suốt đêm để gọi điện và viết chứng thư đất đai.
Cái anh cần là một bản sao của mình.
Thay vào đó, anh đã thuê một quản lý chương trình, nhà tự nhiên trẻ đầy tài năng có thể lãnh trách nhiệm điều hành trại và lo mặt giáo dục ở Đảo Rùa, để Eustace có thể tập trung vào con cưng của mình, chương trình học nghề. Eustace tin rằng thông qua chương trình dạy kèm tập trung này anh sẽ có được tầm ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Từ rất lâu Eustace đã bắt đầu tự hỏi liệu lo cho hết nhóm này tới nhóm kia những trại viên bất kỳ thì có thực sự thay đổi được gì trong xã hội Mỹ hiện nay không.
“Tôi đang ngồi dưới cây óc chó trong bãi đỗ xe trên thảm cỏ vừa mới cắt,” anh đã viết vào nhật ký trong một lần khủng hoảng tâm lý như thế, không bao lâu sau khi Đảo Rùa mở cửa. “Tôi phải nấu bữa tối cho những kẻ biếng nhác thuộc nhóm 'thanh niên dễ sa ngã' ở đây. Tôi chẳng muốn đối mặt với họ. Cứ hễ đối diện với thái độ xấc láo của họ là chẳng mấy chốc tôi lại sinh ra cái thái độ như thể muốn họ cứ phải đau đớn mà chết quách đi cho rồi. Tôi cảm thấy mình yếu đuối... Tôi không biết liệu mình có thực sự muốn làm cho nơi này được như mình từng mơ ước không. Tôi biết tôi có thể. Tôi có thể khiến nó thành công, nhưng tôi có muốn điều đó không?”
Anh đã quyết định rằng câu trả lời là duy trì việc tổ chức trại và các chương trình trong ngày, nhưng để một người khác quán xuyến các hoạt động đó để anh có thể tập trung vào những người học việc. Anh muốn dồn sinh lực và khả năng của mình vào những mối quan hệ giảng dạy trực tiếp, lâu dài, thân mật với những đệ tử trực tiếp của anh. Rồi sau đó họ sẽ đem những kỹ năng của bản thân vào đời mà dạy dỗ người khác, những người khác ấy sẽ dạy những người khác nữa, và thế là sự thay đổi sẽ đến, có lẽ sẽ chậm hơn so với Eustace từng mơ mộng khi anh hai mươi, nhưng dù sao sự thay đổi cũng sẽ đến.
Anh hầu như chắc chắn về điều đó
Có một cô gái. Cô là một hippy. Tên cô là Alice. Alice yêu tự nhiên hơn bất cứ gì, và cô muốn sống trong rừng theo cách tự cấp tự túc, và chị gái cô, vốn có biết Eustace Conway, bảo rằng, “Này Alice, đây là người đàn ông dành cho em đấy”. Alice liên lạc với Eustace và bảo anh rằng cô muốn sống gần tự nhiên, như anh. Một chiều, cô tới thăm Đảo Rùa, và Eustace dẫn cô đi một vòng và đưa cho cô mấy tập sách hướng dẫn rồi bảo cô nghĩ xem liệu cô có thích làm người học việc không. Cô lướt nhìn những dòng suối chảy róc rách, những hàng cây rì rào, đàn gia súc nhởn nha gặm cỏ trên đồng, và tấm biển chào mừng đầy vẻ thanh bình ở cổng chính (Không Áo, Không Giày, Không Sao Cả!), và nghĩ chắc chắn mình đã lên tới thiên đường.
Ngay lập tức, Alice viết cho Eustace, cam đoan với anh rằng “bản năng của tôi bảo ĐỒNG Ý! Qua những điều ít ỏi tôi đã nhìn thấy và đọc được, Đảo Rùa có những phẩm chất dường như là gần gũi nhất với trái tim tôi. Giống như giấc mơ trở thành hiện thực vậy. Tôi cũng rất biết ơn trước sự chào đón cởi mở của anh và sẽ lấy làm vinh dự được đến sống, học tập, làm việc và vui chơi cùng anh và vùng đất ấy. Tôi nhớ khi còn bé xem phim Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên tôi đã thầm mơ một ngày nào đó sẽ được sống như thế thay vì chỉ được xem trên màn ảnh. Cống hiến cho gia đình, sống hài hòa với thiên nhiên. Ôi... cuộc sống ngọt ngào.”
Sau bảy tháng sống ở Đảo Rùa, Alice viết cho Eustace một lá thư theo kiểu hoàn toàn khác.
“Khi lần đầu đến đây, tôi đã đề nghị mỗi tuần một ngày nghỉ. Anh bảo tôi là tôi không xứng đáng với điều đó. Nhưng mới là dịp cuối tuần thứ hai của Jennie ở đây mà cô ấy đã có một ngày nghỉ. Anh chỉ cho cô ấy cách lột da nai trong khi tôi phải làm bở hơi chỉ để anh công nhận tôi là một học viên... anh bắt tôi làm quá cực nhọc... khiến tôi cảm thấy mình vô dụng... Tôi cảm thấy mình không được đánh giá đúng và thừa thãi... anh bảo càng hiểu được tôi anh càng thất vọng về tôi... anh bắt tôi làm việc mười đến mười hai tiếng mỗi ngày... có lẽ tôi không nên ở đây.”
Thế rồi Alice bị đuổi đi. Sa thải. Giải tán.
Có vấn đề gì vậy? Điều gì xảy ra trong bảy giữa “cuộc sống ngọt ngào” với “có lẽ tôi không nên ở đây” thế nhỉ?
À, theo Eustace, vấn đề ở chỗ Alice là một cô nàng hippy, một người mộng mơ, một kẻ lười biếng. Trong đời mình cô nàng đã dùng rất nhiều ma túy, và có thể vì thế mà não bộ hoạt động chậm chạp, cô đãng trí và gặp khó khăn trong việc học làm mọi thứ đúng cách. Cô làm việc không nhanh và không hiệu quả. Cô không thể hấp thụ được các kỹ năng, cho dù có được xem quy trình đúng bao nhiêu lần đi chăng nữa. Và cô làm hao tổn quá nhiều năng lượng cảm xúc của Eustace, lúc nào cũng muốn ngồi trong văn phòng của anh để nói về tự nhiên rồi những cảm nhận của cô rồi giấc mơ đêm qua rồi cả bài thơ cô vừa viết.
Và Eustace sợ rằng Alice có thể vô tình hại chết ai đó hoặc chính bản thân cô. Alice thường xuyên có những trò nguy hiểm vô cùng kỳ cục như bỏ mặc nến cháy bên bậu cửa sổ căn nhà gỗ mà chẳng buồn để ý. Nhiều lần cô nàng lang thang mơ mộng vào con đường chỗ cây cối đổ xuống khi Eustace phát rừng làm đồng cỏ. Tệ hại nhất, một hôm khi Alice làm việc với Eustace trong lúc anh lên xe ngựa để huấn luyện một con ngựa trẻ, chưa đưa dây cương cho Eustace thì cô nàng đã tháo dây buộc thả con ngựa ra. Con ngựa, trẻ và bất kham, bắt đầu phi như điên, và Eustace mắc kẹt trong chiếc xe ngựa, tay không, chẳng tài nào điều khiển nổi con vật. Con ngựa lao băng qua khu rừng trong khi Eustace bám chặt để thoát chết, cố gắng nghĩ xem chỗ nào mềm nhất để nhảy ra đặng cứu mạng mình. Cuối cùng anh lao đầu vào ngay một bụi rậm với vận tốc hai mươi lăm dặm mỗi giờ, đập mặt xuống và bị thương nghiêm trọng. Con ngựa đập tan chiếc xe vào bên hông xưởng rèn và bản thân nó cũng đầy thương tích.
“Phải mấy tháng ròng tôi mới sửa được chiếc xe ngựa đó nó là đồ cổ của người phái Mennonite,” Eustace nhớ lại “nó hỏng hoàn toàn. Tôi mất tới 2.000 đô. Đó là tôi chưa tính 10.000 đô bồi thường chấn thương tâm lý chuyện này đã gây ra cho con ngựa khi khiến nó phải ở trong tình trạng lồng lộn tồi tệ như thế lúc còn nhỏ tuổi tới vậy. Phải mất gần một năm tôi mới làm cho con ngựa có thể thoải mái kéo xe ngựa trở lại. Và tất cả là do sự bất cẩn của Alice.”
Hai tuần sau, cô nàng tái phạm đúng lỗi ấy. Đó là khi Eustace bảo là cô ta phải đi. Cô nàng quá thiếu lý tính và nguy hiểm không thể nào giữ lại, ngơ ngác như thể lúc nào cũng ở trong ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên thần tiên của mình vậy.
Đuổi người học việc không bao giờ là chuyện dễ dàng, nhất là khi đó là vấn đề tự trọng đối với Eustace Conway khi tuyên bố rằng bất kỳ ai cũng có thể học cách sống cuộc sống nguyên thủy này và anh là người có thể dạy cho bất kỳ ai. Giấc mơ sẽ sụp đổ khi phải nói với một ai đó, “Bạn phải rời khỏi đây bởi vì bạn không có khả năng tiếp thu.” Hoặc, “Bạn phải rời khỏi đây bởi vì bạn không thể thích ứng với nơi này.” Quả là một khoảnh khắc tệ hại khi điệp khúc của Eustace Conway chuyển từ “Bạn có thể!” sang “Bạn không thể!”
Một lần tôi hỏi Eustace bao nhiêu phần trăm người học việc rời khỏi Đảo Rùa trong tình cảnh tức giận hoặc cay đắng. Không chút chần chừ, anh nói, “Tám lăm phần trăm. Tuy nhiên người quản lý chương trình của tôi có lẽ sẽ nói là gần chín lăm phần trăm.”
OK, vậy hãy làm tròn là 90 phần trăm. Khi nhìn vào một tỉ lệ tiêu hao như vậy thì thật khó mà không gắn danh hiệu lãnh đạo tồi cho Eustace. Rốt cuộc, Đảo Rùa là thế giới của anh, và anh chịu trách nhiệm về những gì xảy ra trong thế giới của mình. Nếu anh không thể giữ được dân của mình thì rõ ràng có gì đó sai lầm trong chiến lược của anh. Nếu tôi là một cổ đông của một công ty hằng năm có tới 90 phần trăm nhân viên bỏ việc hoặc bị sa thải, có lẽ tôi sẽ nghĩ tới chuyện đặt ra cho giám đốc điều hành một số câu hỏi nghiêm túc về đường lối quản lý của anh ta.
Mặt khác, có lẽ bản thân con số đó cũng hết sức có ý nghĩa. Có lẽ chẳng dễ dàng gì trụ được ở Đảo Rùa. Có lẽ chỉ 10 phần trăm dân số có thể làm được điều đó. Sẽ như thế nào nếu mẫu so sánh là chương trình luyện tập của Lực lượng Biệt Hải? Mỗi năm họ mất bao nhiêu người trong số các chàng trai đó? Và ai là người ở lại sau khi tất cả những người khác bỏ đi? Người mạnh nhất, phải không? Tuy nhiên, những người lên Đảo Rùa không nhất thiết phải là người phù hợp nhất cho nơi ấy.
“Hết lần này tới lần khác,” Eustace nói, “tôi mời mọc những người có mơ ước về thiên nhiên nhưng lại hoàn toàn không có kinh nghiệm với thiên nhiên. Họ lên đây, và câu so sánh duy nhất của họ là, 'Ôi, nơi này trông giống y như trên kênh Thiên Nhiên vậy.' “
Một trong những người học việc ở Đảo Rùa mà tôi yêu mến là Jason, một cậu thanh niên thông minh, ăn nói nhẹ nhàng. Cậu xuất thân từ một gia đình giàu có, lớn lên trong điều kiện đầy đủ, và được giáo dục cẩn thận trong những trường tư thục hạng sang. Khi tôi hỏi Jason tại sao cậu muốn dành hai năm tới trong đời mình theo học Eustace Conway, cậu nói, “Bởi vì tôi đã không hạnh phúc, và tôi không biết đi đến nơi nào khác để tìm hạnh phúc.”
Đau buồn trước cái chết bất ngờ của người cha thân yêu, giận mẹ vì đầu óc “Thiên Chúa giáo thiển cận”, bực mình với “những vị giáo sư vô dụng”, chán ghét đám bạn bè đồng trang lứa “ngu dốt không chịu lắng nghe những bài hát của tôi và lời cảnh báo trong những bài hát đó về sự hủy hoại môi trường”, Jason bỏ đại học giữa chừng. Khi nghe về Eustace, cậu nghĩ rằng ở Đảo Rùa một thời gian sẽ mang lại sự khai sáng mà cậu kiếm tìm. Cậu thấy Eustace là một người hùng phi thường “bước ra thế giới và đón nhận sứ mệnh của mình mà không hề sợ chướng ngại, và là người có thể làm mọi việc đâu ra đó khi mà hầu hết mọi người bằng lòng đứng chống mắt xem mọi thứ hỏng hoại.” Một cách đầy ấn tượng, Jason quyết định đi bộ một mạch từ Charlotte lên Đảo Rùa đúng vào dịp Giáng sinh, thế nhưng cậu chỉ đi được có năm dặm. Trời đổ mưa băng, cậu lại mang quá nhiều hành lý và không thể nghĩ ra chỗ nào để cắm trại đêm đó hoặc phải làm sao để được khô ráo. Nản chí và đói lả, cậu gọi cho bạn gái từ một trạm xăng, thế là cô gái lái xe tới chở cậu nốt phần đường còn lại tới Đảo Rùa.
Mơ ước của Jason là sống được lối sống hoàn toàn tự cấp tự túc. Cậu không muốn đối mặt với những người Mỹ rởm rít và sự mê muội vật chất của họ. Cậu dự định chuyển tới Alaska và xây nhà dựng cửa ở đó giữa vùng biên cuối cùng của nước Mỹ. Cậu muốn sống hoàn toàn dựa vào đất đai, và cậu hy vọng rằng Eustace sẽ dạy cho cậu cách làm điều đó. Cậu mong là cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn ở Alaska, nơi “một người đàn ông vẫn có thể săn bắn tìm kiếm thức để nuôi sống gia đình mà không cần phải chịu đựng sự quan liêu để có một giấy phép săn bắn.”
“Cậu đã bao giờ săn bắn chưa?” tôi hỏi Jason.
“À, chưa,” Jason nói, cười bẽn lẽn.
Jason chính là hình mẫu của những thanh niên đến với Eustace Conway để được dìu dắt. Cậu đang cố gắng tìm cách trở thành một người đàn ông trong cái xã hội đã không còn lấy một lối đi quang đãng dành cho cậu. Cũng hệt như Eustace Conway thời niên thiếu đã nỗ lực tìm kiếm những nghi thức dẫn anh vào tuổi trưởng thành, Jason đang nỗ lực tìm kiếm một nghi lễ hoặc ý nghĩa nào đó có thể giúp vạch định con đường tiến bước của chính cậu. Nhưng cậu không có hình mẫu, nền văn hóa của cậu không có nghi lễ bước vào tuổi trưởng thành nào vừa ý cho cậu, và nền tảng tri thức của cậu không cung cấp cho cậu những kỹ năng đàn ông vốn dĩ vô cùng lôi cuốn cậu. Như cậu thừa nhận, cậu lạc lối.
Đây cũng chính là câu hỏi về văn hóa gây bất an mà Joseph Campbell[1] đã đặt ra trong suốt bao nhiêu năm. Điều gì sẽ xảy ra với những người trẻ trong một xã hội đã đánh mất mọi dấu vết của nghi thức? Bởi vì thời niên thiếu là một giai đoạn chuyển tiếp, đó là một hành trình vốn dĩ mang nhiều hiểm họa. Nhưng văn hóa và nghi thức được cho là bảo vệ chúng ta qua những giai đoạn chuyển tiếp của cuộc đời, giữ chúng ta an toàn giữa hiểm nguy và trả lời những câu hỏi hóc búa về căn tính và về sự thay đổi, để giữ chúng ta không xa rời cộng đồng trong những hành trình gian khó nhất của bản thân.
Trong những xã hội nguyên thủy hơn, một cậu bé có thể phải trải qua một năm trời thực hiện các nghi thức kết nạp để đưa cậu vào tuổi trưởng thành. Cậu sẽ chịu sự đày đọa mang tính nghi thức hoặc những thử thách sức chịu đựng khắt khe, cũng có thể cậu sẽ phải rời khỏi cộng đồng để trải nghiệm một giai đoạn trầm tư và cô độc, sau giai đoạn đó cậu sẽ trở về với gia đình và mọi người sẽ nhìn cậu như một con người đã hoàn toàn thay đổi. Cậu sẽ chuyển tiếp an toàn từ thời thiếu niên sang tuổi trưởng thành, và cậu sẽ biết chính xác khi điều đó xảy ra và biết từ đấy người ta chờ đợi điều gì ở cậu, bởi vì vai trò của cậu đã được ghi thành điển lệ rõ ràng. Nhưng làm thế nào một thiếu niên Mỹ hiện đại biết được khi nào cậu bước qua ngưỡng cửa trưởng thành? Khi cậu nhận bằng lái xe chăng? Khi cậu hút ma túy lần đầu? Hay khi cậu trải nghiệm tình dục không an toàn với một cô gái trẻ mà bản thân chẳng biết giờ mình đã là phụ nữ hay chưa?
Jason không biết. Tất cả những gì cậu biết là cậu khao khát một kiểu thừa nhận nào đó đối với sự trưởng thành của cậu, và cuộc sống ở trường đại học không trao cho cậu điều ấy. Cậu chẳng biết phải tìm điều cậu đang tìm kiếm ở đâu, nhưng cậu bị thôi thúc bởi ý nghĩ Eustace có thể giúp được. Jason có một người bạn gái xinh đẹp, và cậu nuôi ý tưởng lãng mạn rằng một ngày nào đó hai người sẽ cùng nhau định cư ở Alaska, nhưng rõ ràng cô gái có những ý tưởng của riêng mình. Cô trẻ trung, giàu có, là một sinh viên xuất sắc, luôn bê vực nữ quyền như hầu hết những người thuộc thế hệ cô, và cô khao khát được thấy thế giới. Cô có những triển vọng bất tận trước mắt. Jason hy vọng cuối cùng cô sẽ “ổn định” với cậu, nhưng tôi cảm thấy nghi ngờ điều đó, và quả nhiên mấy tháng sau cô rời bỏ cậu. Và điều đó khó lòng khiến Jason cảm thấy dễ chịu hơn về bản thân mình như một người đang trong quá trình chuyển hóa thành đàn ông.
Đối với tôi thì dường như nỗi bức bối của Jason là điển hình cho rất nhiều nam thanh niên Mỹ, những người cứ nhìn các bạn gái đồng trang lứa bay vào một thế giới mới và thường khó mà bắt kịp được. Rốt cuộc, khi trông ra xã hội Mỹ, Jason thấy gì? Ngoài những khủng hoảng về tiêu thụ và về môi trường vốn gây bực mình sâu sắc cho sự nhạy cảm của cậu, cậu đang đối mặt với một thế giới đang trải qua biến chuyển toàn diện về văn hóa và về giới. Đàn ông chủ yếu vẫn nắm quyền, xin nhớ cho, nhưng họ đang tuột dốc rất nhanh. Nước Mỹ hiện đại là một xã hội mà đàn ông tốt nghiệp đại học đã chứng kiến thu nhập của họ giảm sút 20 phần trăm trong hai mươi lăm năm trở lại đây. Một xã hội mà tỉ lệ phụ nữ học xong trung học và đại học cao hơn nhiều so với nam giới, và những cánh cửa cơ hội mới mở ra cho họ mỗi ngày. Một xã hội mà một phần ba tổng số bà vợ kiếm được nhiều tiền hơn ông chồng. Một xã hội mà phụ nữ ngày càng kiểm soát được vận mệnh kinh tế cũng như số mệnh sinh học của họ, thường lựa chọn đơn thân nuôi con hoặc không sinh con hoặc hoàn toàn gạt bỏ một người đàn ông có danh tính cụ thể ra ngoài chuyện sinh nở, thông qua phép lạ của ngân hàng tinh trùng. Nói cách khác, một xã hội mà người đàn ông không còn thiết yếu theo cách nhân loại cần họ trước đây - để bảo vệ, để cung ứng, để truyền giống.
Gần đây tôi có tới xem một trận bóng rổ nữ nhà nghề ở New York. Thời thiếu nữ tôi từng là một vận động viên bóng rổ đáng mặt, nhưng hồi đó không có cái gì như WNBA[2], thế nên tôi rất quan tâm theo dõi liên đoàn này phát triển trong những năm gần đây. Tôi thích đến các trận đấu xem các vận động viên nữ xuất sắc thi đấu để giành những khoản lương không hề nhỏ. Tuy nhiên chủ yếu tôi thích quan sát khán giả, thường là những cô gái mười một mười hai tuổi đời đầy nhiệt tình và sung mãn. Vào một tối có đội New York Liberty thi đấu, tôi đã thấy một điều thật đáng ngạc nhiên. Một nhóm thiếu nữ mười hai tuổi chạy tới rào chắn trước ghế ngồi của các em và giăng ra một tờ giấy có viết:
W.N.B.A: WHO NEEDS BOYS, ANYHOW?
Khi tiếng reo hò cổ vũ dậy lên khắp khán đài, tất cả những gì tôi nghĩ được là ông ngoại của Eustace Conway hẳn đang quay cuồng đầu óc dưới nấm mồ.
Thế đấy, xét trên nền văn hóa đương đại, không có gì đáng ngạc nhiên khi một thanh niên như Jason muốn chuyển đến Alaska và giành lại ý niệm cổ xưa cao quý nào đó về chí nam nhi. Nhưng cậu có một khoảng cách mênh mông phải vượt - không phải về địa lý - trước khi cậu có thể nghĩ tới chuyện trở thành người khai hoang, trước khi cậu có thể hiểu một cách đúng đắn cậu sinh ra “để làm gì”. Jason rất thiết tha và, có trời chứng giám, rất chân thành. Cậu có nụ cười vô cùng dễ thương, và Eustace thích sự bầu bạn cũng như những bài hát cảnh báo nguy cơ hủy hoại môi trường của cậu. Nhưng Jason có bản tính yếu mềm và dễ tổn thương như một vết bầm tím vừa va đập, và cậu lại xử sự có phần tự kiêu thành thử rất khó mà dạy cậu. Và, xét trên nền tảng giáo dục thành thị luôn được bảo vệ che chở của cậu, cậu có một lỗ hổng lớn, rất lớn về thường thức. Chẳng bao lâu sau khi tới Đảo Rùa, cậu mượn một chiếc xe tải của Eustace để đi xuống Nam Carolina và vô tình chạy xe suốt cả chặng đường với vận tốc bảy mươi lăm dặm một giờ trong khi hệ dẫn động bốn bánh vẫn khóa.
Như về sau Eustace kinh ngạc nói, “Tôi không tin nổi là chiếc xe tải của tôi tồn tại được qua chặng đường đó trong tình trạng như thế.”
Quả nhiên, khi Jason về tới Đảo Rùa, động cơ đã hỏng.
“Cậu chẳng hề để thấy chút gì khác lạ khi chiếc xe đang chạy à?” Eustace hỏi Jason, khi anh chàng gọi cho anh để thông báo rằng động cơ của chiếc xe “đột nhiên” gãy rắc.
“Lúc nãy nó kêu to kinh khủng,” Jason thừa nhận, là lạ lắm. “Động cơ gầm rú ầm ĩ. Em đã phải bật nhạc suốt đường để át tiếng ồn.”
Eustace mất hàng nghìn đô la để đưa chiếc xe tải tốt nhất của anh hoạt động trở lại.
Suốt chín tháng tiếp theo thời gian học việc của Jason (rồi đây cậu sẽ từ bỏ rất sớm trước khi đến hạn hai năm theo cam kết của cậu do ngày càng cảm thấy không hài lòng với sự lãnh đạo của Eustace), cậu đạt được sự thành thạo rất ấn tượng trong việc làm nông theo phương thức nguyên thủy và trong nhiều kỹ năng phức tạp khác, nhưng cậu cũng phá hỏng thêm hai chiếc xe khác của Eustace. Và khi Eustace đề nghị Jason nghĩ đến chuyện bồi thường phần nào tổn thất, Jason cảm thấy hết sức khó chịu. Sao kẻ được gọi là người của thiên nhiên này lại dám thể hiện sự tham luyến của cải vật chất kia chứ! Eustace quả là một kẻ đạo đức giả!
“Đừng có mà xử tệ với tôi, Eustace,” Jason viết chẳng bao lâu sau khi rời Đảo Rùa. “Tôi không muốn cảm nhận theo cách này. Tôi muốn những mối quan hệ làm phong phú cuộc đời tôi, không phải những quan hệ hạ nhục tôi đâu. Tôi cảm thấy với anh cái xe tải quan trọng hơn tôi. Xin mượn lời của Lester, nhân vật người cha trong phim Vẻ đẹp Mỹ, 'Nó chỉ là một cái ghế chết tiệt!' “
Hết lần này tới lần khác, sự thay đổi kiểu này diễn ra trong đời Eustace. Anh được tôn thờ, và rồi những người tôn thờ anh khiếp sợ nhận ra rằng anh chẳng phải hình mẫu thần thánh của họ. Thông thường, những người đến với Eustace đều là những người tìm kiếm, và khi họ gặp biểu tượng đầy sức hút này, họ tin chắc công cuộc tìm kiếm của mình đã xong xuôi, rằng tất cả những câu hỏi của họ sẽ được trả lời, đó là lý do tại sao họ ngay lập tức trao trọn cuộc đời mình vào tay anh một cách vô điều kiện. Và chẳng phải chỉ có những nam thanh mới mắc phải câu chuyện rập khuôn này.
“Tôi vui sướng cực độ suốt năm ngày trời,” một cô gái với nỗi kinh ngạc điển hình viết cho Eustace sau chuyến thăm ngắn tới Đảo Rùa. “Những mảnh hơi thở nhỏ xíu của tôi tản mác khắp nơi trong những cây thông trắng và cây de vàng. Cảm ơn Người, Đấng Tạo hóa! Cảm ơn anh, Eustace! Nó để lại ảnh hưởng trong tôi mãi mãi. Tôi biết dây là nơi duy nhất tôi muốn sống. Nếu có khi nào anh cần thêm một tay, tôi sẽ trao anh cả hai tay mình!”
Sau một lời giới thiệu đầy ắp tán dương như thế, có thể sẽ rất xấu hổ khi nhận ra rằng cuộc sống ở Đảo Rùa vắt kiệt sức lao động và Eustace cũng là một con người không toàn mỹ, với những ấp ủ đầy câu hỏi chưa lời đáp của riêng anh. Chẳng mấy người tìm kiếm qua được nỗi choáng váng đó, nỗi choáng váng mà cuối cùng tôi đã phải gọi là Hiệu ứng Roi da Eustace Conway. (Nhân tiện xin nói, từ khi chính Eustace áp dụng cụm từ đó, anh đã đi xa tới mức băn khoăn không biết anh có nên phân phát nẹp cổ cho tất cả người học việc như một biện pháp phòng ngừa giúp họ sống sót qua chấn thương vỡ mộng không thể tránh khỏi hay không. Anh đùa, “Mọi người sẽ hỏi, 'Tại sao tôi phải đeo cái nẹp cổ này hả Eustace?' và tôi sẽ gật đầu đầy thông hiểu mà đáp, 'Ô, rồi bạn sẽ thấy.' “)
Đây cũng là lý do tại sao duy trì được những tình bạn lâu bền là một thử thách với Eustace. Có hàng trăm, có lẽ là hàng nghìn người có quan hệ mật thiết với cuộc sống của anh, nhưng nhiều người trong số họ dường như rơi vào một trong hai nhóm: những môn đệ đầy háo hức hoặc những kẻ dị giáo vỡ mộng. Hầu hết mọi người thấy chẳng thể nào từ bỏ được ý niệm về Eustace như một biểu tượng trong thời gian đủ dài để có thể kết bạn với anh như một con người. Có lẽ anh chỉ đếm được trên một bàn tay số người anh xem là bạn thân, và thậm chí những mối quan hệ ấy cũng thường căng thẳng, vừa bởi nỗi sợ dai dẳng cả đời Eustace, sợ bị phản bội (khiến anh không theo đuổi sự thân thiết tuyệt đối trong tình bạn) vừa bởi anh khăng khăng rằng không ai có thể hiểu đúng về anh cả (điều này cũng chẳng ích hơn gì). Eustace thậm chí không tin người mà anh gọi là bạn thân nhất - một sơn nhân thuần thục, tốt bụng và nhạy cảm tên là Preston Roberts anh gặp ở cao đẳng - hoàn toàn hiểu được anh.
Thời học cao đẳng, Preston và Eustace thường mơ họ sẽ cùng nhau thành lập một khu bảo tồn thiên nhiên, xây dựng gia đình bên nhau, cùng với cậu bạn thân Frank Chambless của họ, người đã đi bộ trên Đường mòn Appalachia với Eustace. Nhưng đến lúc mua Đảo Rùa, Preston và Frank chỉ tham gia qua loa trong hoạt động đó. Frank mua một mảnh đất nhỏ gần khu bảo tồn nhưng rồi mấy năm sau lại bán đi lấy tiền trong nỗi thất vọng ê chề của Eustace. Sau cuộc buôn bán đó, Frank gần như mất hút khỏi cuộc đời Eustace, và Eustace chẳng bao giờ hiểu tại sao.
Preston Roberts mua đất gần Đảo Rùa và giữ mảnh đất ấy. Anh góp phần xây dựng nhiều công trình ở Đảo Rùa và đã giảng dạy tại trại hè trong nhiều năm. Anh và Eustace thỉnh thoảng lại làm một chuyến phi ngựa hoặc một hành trình đi bộ, qua đó họ có thể thả hồn trong tình bầu bạn và trong sự tráng lệ của thiên nhiên. Preston vô cùng ngưỡng mộ Eustace và sẽ rất sẵn lòng lãnh đạn che chở cho anh. Nhưng bất chấp những lời mời mọc triền miên của Eustace, anh vẫn chưa quyết định đưa gia đình vào sống hẳn trong Đảo Rùa. Theo vợ của Preston giải thích thì, “Chồng tôi luôn có hơi lo rằng anh ấy sẽ đánh mất tình bạn với Eustace nếu phải làm việc với Eustace hằng ngày.” Thực ra kiểu gần gũi đó dường như thật sự thách thức hầu hết mọi người. Đặc biệt là trong quá trình học việc. Tất nhiên, chẳng tránh được rằng ngay từ đầu những người học việc hăm hở tới Đảo Rùa đã là những người dễ tổn thương tình cảm.
“Một số người muốn tới sống ở đây là những người khổ sở bất mãn xã hội và khó hòa nhập nhất trong xã hội,” một lần Eustace bảo tôi. “Họ nghĩ Đảo Rùa là nơi rốt cuộc sẽ khiến họ hạnh phúc. Họ viết thư cho tôi nói họ ghét nhân loại tới mức nào... Chúa ơi, cô có tưởng tượng nổi phải nỗ lực sắp xếp một chi tiết công việc cho kiểu người ấy là trần ai khoai củ như thế nào không? Đám thiếu niên bỏ nhà đi bụi muốn tới đây. Có người ở hệ thống nhà tù của bang viết thư cho tôi bảo muốn tới đây. Tôi thu hút những kiểu người bị xã hội ruồng bỏ bất mãn như vậy đó.”
Khi tôi tới thăm Eustace vào tháng Tám năm 1999, anh có một cậu thanh niên học việc có biệt danh là Nhánh Cây. Nhánh Cây tới đây là do một thảm họa của một gia đình bất thường nào đó ở Ohio, cậu liên tục bị ném ra khỏi nhà và gặp rắc rối với pháp luật. Eustace chấp nhận Nhánh Cây vì triết lý căn bản nhất của anh là ai cũng có thể xoay xở sống cuộc sống nguyên thủy này nếu anh ta hoàn toàn sẵn lòng và được chỉ dạy đúng cách. Tuy nhiên, Nhánh Cây là một kẻ chuyên gây rối. Cậu ta là một tay du côn hung hăng và không thể tin cậy được, và nhiều người học việc khác (lúc bấy giờ còn có ba chàng trai cô gái khác, con số thông thường mỗi năm) đề nghị Eustace đuổi cổ cậu ta bởi vì cậu ta làm hỏng tinh thần sự nghiệp của họ. Và chẳng cần phải nói, Nhánh Cây chẳng có lấy một kỹ năng làm việc nặng. Nhưng Eustace muốn cho Nhánh Cây một cơ hội, và anh đầu tư nhiều thì giờ làm việc với cậu ta, giúp cậu ta dịu xuống, dạy cậu ta cách sử dụng công cụ và cố gắng chỉ cho cậu ta cách sống chung với mọi người.
Có một số tiến bộ rõ rệt. Khi tới Đảo Rùa, Nhánh Cây yếu ớt, xanh xao và biếng nhác. Cuối cùng, ta có thể thấy từng múi cơ trên ngực và lưng cậu mỗi khi cậu làm việc nặng. (Sự chuyển biến từ bạc nhược sang sung sức này diễn ra thường xuyên ở Đảo Rùa, và có lẽ đây là điều Eustace thích chứng kiến nhất.) Và cậu bé kém cỏi này giờ đây biết buộc cày vào ngựa, biết chăm sóc lợn, biết nấu ăn trên lửa trại. Một tối cậu thậm chí còn nấu cho tôi một bát xúp nhộng, món ăn của người Cherokee cổ đại. Nhưng quả là hết sức kinh khủng khi nghĩ đến số lượng những điều Nhánh Cây còn chưa học được.
Một buổi hoàng hôn, tôi đi tới một cánh đồng xa với Eustace để quan sát anh chỉ dạy Nhánh Cây cách sử dụng cày đĩa. Họ phải kéo cái cày ra cánh đồng này qua nửa dặm đường rừng với một con la và một con ngựa thồ, sử dụng một chiếc xe trượt tuyết cứng cáp kiểu cũ của người Appalachia để chở cái máy đó. Mọi khía cạnh của công việc này đều cho thấy nguy hiểm thương vong tiềm tàng - những con vật vụng về ngang bướng, chiếc xe trượt tuyết tròng trành, những sợi xích và dây đai da và dây thừng giật liên hồi, mấy cái lưỡi sắc như dao lam của cái máy cày cũ kỹ nặng nề. Thế mà, dù đã biết hết mọi điều này, và đã sống ở Đảo Rùa được sáu tháng, Nhánh Cây lại quyết định đi dép tông để ra làm công việc này.
“Cá nhân tôi mà nói thì tôi sẽ không điều khiển cày đĩa trên một đồng cỏ lởm chỏm đá với con la tính khí thất thường như Thỏ Peter mà lại đi dép tông đâu,” Eustace nói với tôi trong khi chúng tôi quan sát Nhánh Cây làm việc, “nhưng nếu cậu ta muốn mất chân thì tôi sẽ giao việc này cho cậu ta.”
“Anh sẽ không nói gì với cậu ấy sao?” tôi hỏi.
Eustace tỏ vẻ mệt mỏi. “Mười năm trước thì hẳn tôi sẽ nói. Tôi hẳn sẽ lên lớp cậu ta một trận về việc đi giày dép hợp lý khi làm đồng và về việc tự bảo vệ mình khi ở cạnh loài vật và máy móc nặng, nhưng giờ thì tôi oải lắm rồi, tôi mệt mỏi khi cứ phải gặp những người không có mảy may kiến thức phổ thông nào. Tôi có thể sửa cho Nhánh Cây trong chuyện này, và tôi có thể sửa cho cậu ta bảy trăm lần mỗi ngày về những thứ kiểu này, nhưng giờ đây tôi phải dồn tất cả sinh lực để ngăn không cho mọi người tự giết mình hoặc giết tôi hoặc giết nhau. Cô biết không, khi Nhánh Cây lần đầu đến đây, cậu ta nài nỉ tôi quẳng thẳng cậu ta vào rừng thẳm, bởi vì cậu ta muốn sống gần thiên nhiên. Sự thật là cậu ta quá dốt nát. Cậu ta sẽ chẳng sống nổi năm phút trong vùng hoang dã thực. Cậu ta thậm chí không biết bản thân cậu ta hiểu biết được bao nhiêu. Và tôi phải liên miên đối phó với kiểu chuyện này, chẳng phải chỉ từ Nhánh Cây mà còn từ hàng trăm người như cậu ta.”
Rồi, với Nhánh Cây, kẻ lúc này đã bắt đầu cày cánh đồng rộng lớn với những vòng tròn bé tí kỳ quái, Eustace nói: “Có một ý tưởng đây, Nhánh Cây. Mỗi lần quay đầu gia súc, cậu đang dồn sức ép lên miệng chúng và sức ép lên chính cậu cũng như cái máy. Hãy cố nghĩ ra một cách cày hợp lý hơn thay vì cứ cua gắt nhiều như vậy. Cày những chặng thật dài thì sao, đi hết một đường từ đầu này tới đầu kia cánh đồng, giữ nguyên một hướng chừng nào cậu còn có thể duy trì sức đẩy? Cậu hiểu tôi đang nói gì chứ? Có thể cậu muốn cày con dốc ở đây, nhưng tôi khuyên cậu đi từ dưới lên, vì cậu còn thiếu kinh nghiệm và cậu sẽ không muốn phải lo lắng chuyện cán máy cày lên gia súc đâu.”
Khi Nhánh Cây đi xuống phía dưới, kiểu như làm theo lờ của Eustace, anh bảo tôi, “Cậu ta sẽ tốn vô tận thời gian với việc này mất thôi. Ngay lúc này tôi chỉ muốn ở trong văn phòng của mình để lo bảy trăm lá thư tôi cần phải viết và bảy trăm hóa đơn thuế tôi phải thanh toán. Nhưng tôi phải ở đây quan sát cậu ta, bởi vì tôi chưa thể giao phó gia súc hay cái máy của tôi cho cậu ta. Thế tại sao tôi phải bận lòng? Bởi vì hy vọng của tôi là một ngày nào đó cậu ấy sẽ học được cách xử lý công việc này, rồi tôi có thể để cậu ấy ra ngoài mà bảo, 'Đi cày cánh đồng đó đi,' và cậu ấy sẽ biết chính xác phải làm gì và tôi có thể tin tưởng công việc đó sẽ được làm đúng. Nhưng còn lâu chúng ta mới tới được điều đó. Ý tôi là, cậu ta đang đi dép tông! Nhìn cậu ta kìa.”
Quả thực, cậu đang đi dép tông, mặc quần soóc, cởi trần, và gài một điếu thuốc sau tai.
“Tôi thích nghĩ rằng mình đang dạy những người này các kỹ năng mà một ngày nào đó họ sẽ sử dụng trong đời họ, nhưng khi nghĩ về hàng trăm người đã tới đây trong những năm qua, tôi không thể hình dung ra có người nào hoàn toàn một mình mà lo liệu được một cuộc sống nguyên thủy ngay lúc này. Có khi một ngày nào đó Christian Kaltrider sẽ làm được. Cậu ấy xuất sắc. Hiện nay cậu ấy đang xây một căn nhà gỗ trên đất của chính mình, trông đẹp lắm. Cậu ấy học được tất cả điều đó ở đây. Có một cậu bé tên là Avi Aski, một người học việc cừ khôi. Cậu ấy đang tìm mua đất ở Tennessee, và có thể cậu ấy sẽ xoay xở được. Có thể.”
Nhánh Cây đi lại chỗ chúng tôi với cái cày, xới được một rãnh đất xiêu vẹo.
“Cậu đang làm tốt đấy,” Eustace nói với cậu. “Tốt hơn tôi mong đợi nhiều.”
Eustace đưa ra lời nhận xét ấy với khuôn mặt không biểu lộ gì và giọng nói bằng lặng. Nhưng ẩn dưới câu tán dương đó tôi có thể nghe thấy những dấu vết đáng sợ của cơn giận,