← Quay lại trang sách

Chương chín

Chúng ta vĩ đại, và - tôi sắp nói ra trong nỗi sợ hãi - phát triển vũ bão!

- John Caldwell Calhoun[1], 1817

Thỉnh thoảng tôi xỉn vi Eustace Conway. Đó là một trong những điều tôi thích làm với anh. Ừ thì đó là một trong những điều tôi thích làm với hầu hết mọi người, nhưng tôi đặc biệt ưa làm thế với Eustace. Bởi vì có một mức độ thanh thản nào đó mà rượu mang đến cho anh - những đặc tính xoa dịu của rượu phát huy tác dụng, tôi nghĩ thế - để vùi đi những ngọn lửa nội tâm. Cơn say giúp dập tắt những bếp lò rừng rực trong anh trong một lát, điều này giúp ta đứng được gần anh mà không bị cháy sém vì những ngọn lửa tham vọng của anh và không bị bỏng rộp dưới sức nóng lan tỏa của những nỗi lo âu và niềm tin và động lực của cá nhân anh. Với một chút whiskey trong cơ thể, Eustace Conway dịu nguội đi, trở nên vui vẻ hơn, nhẹ nhàng hơn, giống... Judson Conway hơn.

Với một chút whiskey, ta có thể yêu cầu Eustace kể những câu chuyện hay nhất của anh, và anh sẽ hò reo trong vui sướng khi nhớ lại những câu chuyện ấy. Anh sẽ nhại bất cứ chất giọng nào và kể những câu chuyện kỳ lạ nhất.

Anh sẽ cười ầm lên với những câu đùa ngớ ngẩn nhất của tôi. Khi Eustace Conway uống rượu, rất có thể anh sẽ khoe khoang bản thân bằng cách chêm vào lời nói những từ ngữ hiện đại phi-Eustace mà anh đã thu lượm được qua nhiều năm, kiểu như “blah blah blah,” hay “Cô tuyệt bỏ xừ!” hay “Ngon cả đôi đường,” hay - tôi thích nhất - khi được khen, “Thế thiên hạ mới trả tôi cả xấp Benjamin[2] chứ!”

“Thế đấy, một hè nọ tôi đang đi bộ vòng quanh Công viên Quốc gia Glacier,” anh nói, chẳng bao lâu sau khi chai rượu được khui, và tôi sẽ mỉm cười ngả người ra trước sẵn sàng lắng nghe. “Tôi đang ở cao hơn vành đai cây nhiều, đang băng qua vành đai tuyết. Chẳng ai biết tôi ở đâu, mà tôi thậm chí cũng không đi trên đường mòn; ngút tầm mắt chỉ là một rặng núi phủ đầy băng tuyết, cả hai bên là sườn dốc thẳng đứng. Tất nhiên, tôi không có bất cứ một trang bị tử tế nào; tôi lên đó chơi cho vui thôi. Thế là tôi cứ đi, rồi đột nhiên tôi trượt chân. Chỗ đó dốc kinh lên được, khiến tôi bị trượt ngay xuống sườn núi, nằm ngửa mặt lên trời lao nhanh trên lớp băng mỏng. Hầu hết những người đi bộ lên đây đều mang theo một cái rìu phá băng, nhưng tôi không có cái nào nên không thể níu mình lại được. Tất cả những gì tôi có thể cố làm là ghì người hết sức xuống cái ba lô để giữ mình trượt chậm lại, nhưng chẳng ích gì. Tôi cắm gót giày vào băng, nhưng cũng chẳng ích gì nốt! Thế rồi tuyết và băng biến thành sỏi và đá lở, và tôi đang lao bình bịch bình bịch bình bịch qua những phiến đá nhẵn với vận tốc tối đa. Tôi cứ thế trượt đi trượt đi, và tôi nghĩ, Lần này thì mình chết chắc! và rồi - THỊCH. Tôi va đánh rầm rồi dừng khựng lại. Cái khỉ gì thế nhỉ? Tôi nhấc đầu lên và nhận ra mình vừa mới đâm vào một con la chết. Thề có Chúa! Đây là một la chết toi chết giẫm! Đây là xác ướp đông lạnh của một con la, và nó lại là thứ đã chặn cú trượt của tôi. Chầm chậm tôi đứng dậy nhìn qua con la và thấy, ở ngay đó, bên kia tấm thân nó là một vách đá dựng đứng đâm thẳng xuống khoảng sáu trăm mét vào giữa lòng Công viên Quốc gia Glacier. Tôi cất tiếng cười vang, cười mãi, gần như ôm ghì con la. Trời ơi, con la chết này là người anh hùng của tôi. Nếu tôi rơi xuống đó, thậm chí sẽ chẳng có ai tìm thấy xác tôi! Nghìn năm nữa cũng không tìm thấy, cho đến khi những người đi bộ nào đó tình cờ thấy và rồi viết một bài ra trò về tôi cho tờ National Geographic!”

Thêm vài ngụm rượu nữa, thế là Eustace sẽ kể chuyện Dorothy Hamilton, người phụ nữ da đen chạy từ trong một tiệm đồ ăn nhanh ở vùng nông thôn Georgia ra khi Kỵ sĩ Đường trường phi qua, vẫy tạp dề rồi hôn mấy anh em nhà Conway và đòi được nói vào nhật ký ghi âm của họ. Bà biết Kỵ sĩ Đường trường đang phi ngựa cả chặng đường tới California - bà đã xem họ trên ti vi - và bà có một thông điệp nhiệt liệt dành cho bờ Tây: “Xin chàoooo tất cả các bạn lướt sóng ngoài biển khơi California!” Eustace khào khào trong căn nhà gỗ của mình, dồn hết sức nhại giọng nói đầy vui sướng của người phụ nữ này. “Đây là lời chào hoành tráng từ người bạn của chúng ta, Dorothy Hamilton, cô gái trong tiệm GÀ!”

Một đêm tuyết rơi, Eustace và tôi đi bộ xuống thung lũng để thăm những người hàng xóm già Appalachia thân mến, Will và Betty Jo Hicks. Will và Eustace bắt đầu nói về khẩu súng săn “hai-lòng” nào đó mà Will vẫn hay sử dụng. Tôi cố lắng tai nghe, nhưng rồi cũng như bao lần khác đến nhà Hicks, tôi nhận ra rằng mình không thể hiểu lấy một phần mười số từ mà Will Hicks lè nhè nói. Ông luôn nói “hit” thay vì “it” và “far” thay vì “fire” và “vee-hickle” thay vì “car”, ngoài ra tôi không thể giải mã được nhiều hơn thế là bao. Giữa những chỗ răng sún và lối nói trại kiểu nông thôn và kiểu luyến láy của ông, cách nói của ông vẫn còn là một bí ẩn đối với tôi.

Quay trở lại gian nhà gỗ của Eustace tối hôm đó, vừa uống chai whiskey tôi vừa phàn nàn, “Tôi chẳng tài nào hiểu nổi giọng Appalachia quái quỷ ấy. Làm sao anh giao tiếp được với ông Will nhỉ? Tôi nghĩ chắc tôi cần học thứ ngôn ngữ-Appa đó cụ thể hơn một chút.”

Eustace la lên, “Nè cô! Cô chỉ cần nghe-Apipa kỹ hơn!”

“Tôi không biết nữa, Eustace. Tôi nghĩ chẳng mấy chốc tôi sẽ Appa-ngay thôi và sẽ hiểu được những người như Will Hicks.”

“Ôi, không! Ông già thôn quê đó chỉ đang cố dạy cô nghiên cứu-Appa!”

“Tôi nghĩ chúng ta có thể thảo luận Appa-ngày sau,” tôi nói, cười khúc khích.

“Không phải cô đang ngặt nghẽo cười-Appa ông cụ Will Hicks đấy chứ?” Eustace nói.

Tới đó thì cả hai chúng tôi cùng ngặt nghẽo cười-Appa đến rung cả cái đầu ngốc nghếch của mình. Eustace đã ngà ngà, nụ cười rộng mở của anh đang sáng bừng lên trong ánh lửa, và tôi thích nhìn thấy anh như thế. Tôi cầu trời mình có thêm mười chai rượu nữa và cũng chừng đó tiếng đồng hồ ngồi trong căn nhà gỗ ấm áp này để vui thú quan sát Eustace Conway dẹp chương trình khắc nghiệt của mình đi mà nghỉ ngơi-Appa thả phanh lấy một lần

Tôi nói, “Ở bên anh những lúc như thế này thấy vui vẻ hơn rất nhiều, Eustace ạ. Anh nên cho mọi người thấy mặt này trong con người mình thường xuyên hơn.”

“Tôi biết, tôi biết. Patience cũng thường nói với tôi như thế. Cô ấy bảo những người học việc sẽ không sợ tôi triền miên nếu tôi để cho họ thấy mặt thoải mái và vui vẻ trong tôi. Tôi thậm chí đã tính chuyện cố gắng nghĩ cách làm như thế. Có lẽ mỗi sáng trước khi chúng tôi bắt tay vào việc, tôi nên bắt đầu hình thành thói quen có năm phút tự do thoải mái vui vẻ.”

“Năm phút thoải mái vui vẻ ấy à Eustace? Chính xác năm phút sao? Không phải bốn? Không phải sáu?”

“Àaa...” Anh ôm đầu mình lắc qua lắc lại. “Tôi biết, tôi biết, tôi biết... thật điên rồ. Thấy chuyện này ra sao với tôi chưa? Thấy chuyện này thế nào trong não tôi chưa?”

“Này, Eustace Conway,” tôi nói, “cuộc đời chẳng thật dễ dàng phải không?”

Anh mỉm cười quyến rũ và nốc thêm một hơi rượu dài. “Tôi chưa bao giờ thấy dễ.”

Vẫn tồn tại tham vọng trong con người Eustace. Anh vẫn chưa xong. Thời còn thật sự trẻ trung, thời lần đầu đi bộ quanh Đảo Rùa với cô bạn gái Valarie, anh đã chỉ ra, như thể đang đọc từ một bản thiết kế, những gì anh sẽ làm cho lãnh thổ của mình. Nhà ở đây, cầu ở kia, một cái bếp, một đồng cỏ, một bãi thả gia súc. Và anh đã kiến tạo nơi này như thế. Giờ đây trên khắp mảnh đất của anh, đứng sừng sững đó, rành rành có thật, là bằng chứng cho những gì Eustace đã thấy trong tâm trí ngay từ phút đầu. Nhà, cầu, bếp - đâu ra đấy.

Tôi nhớ đã đứng cùng Eustace nhìn ra một bãi đất gần như trơ trụi lần đầu tôi tới Đảo Rùa. Nó chỉ là một cánh đồng đầy bùn lầy và gộc cây, nhưng Eustace nói, “Lần tới cô đến đây, sẽ có một khu chuồng trại thật lớn ở giữa bãi đất đó. Cô không thấy được sao? Cô không thể hình dung ra cỏ đang mọc xanh mơn mởn và đàn ngựa đứng nhởn nha vô cùng đẹp xung quanh đây à?” Lần sau đó khi tôi lên Đảo Rùa, thật như thể có phép màu, ngay chính giữa bãi đất ấy mọc lên một khu chuồng trại to lớn tuyệt vời, cỏ mọc xanh mơn mởn, và đàn ngựa đang đứng nhởn nha vô cùng đẹp mắt xung quanh. Eustace đưa tôi lên một ngọn đồi để cho tôi một cái nhìn bao quát hơn về nơi này, rồi anh nhìn quanh và nói, “Một ngày nào đó sẽ có một vườn cây ăn quả ở ngay đây.”

Và tôi biết người đàn ông ấy đủ rõ để chắc chắn rằng sẽ đúng là như thế.

Thế nên, không, anh chưa xong với Đảo Rùa. Anh muốn xây một thư viện, và anh đang tìm mua một cái máy cưa lớn để tự sản xuất gỗ xẻ. Và rồi còn có ngôi nhà mơ ước, ngôi nhà nơi anh sẽ sống. Bởi vì sau tất cả ngần ấy thời gian - sau hơn hai mươi năm trong rừng thẳm, sau khi vắt kiệt sức mình để giành được một nghìn mẫu đất, sau khi đã xây dựng mười mấy công trình trên lãnh thổ của mình - Eustace vẫn chưa có một mái nhà cho riêng anh. Trong suốt mười bảy năm, anh sống trong lều vải. Rồi anh sống hai năm trong gác xép của một kho dụng cụ. Và gần đây anh bắt đầu sống trong một ngôi nhà gỗ đơn sơ nhỏ bé mà anh gọi là Nhà Khách - một chốn công cộng hoàn toàn, ở đó vào mùa đông khi nhà bếp ngoài trời đóng cửa thì tất cả những người học việc và khách khứa đều tới tụ tập mỗi ngày hai lần để ăn uống. Với một người luôn tuyên bố khao khát sự riêng biệt hơn bất cứ thứ gì, Eustace chưa bao giờ cho bản thân mình một nơi riêng tư thật sự ở Đảo Rùa. Tất cả những cái khác, từ đàn lợn cho tới người học việc cho tới dụng cụ cho tới sách vở, phải có nhà có cửa cho chúng trước.

Nhưng có một mái nhà anh đã thiết kế trong đầu suốt mấy chục năm. Và bởi vậy ta có thể tin chắc rằng một ngày nào đó nó sẽ ra đời. Anh đã thiết kế những bản vẽ đầu tiên về căn nhà đó khi anh ở Alaska, bị mắc lại trên một hòn đảo trong hai ngày trời, chờ cho biển động lắng dịu xuống đủ để có thể an toàn chèo xuồng kayak trở lại đất liền. Và một chiều nọ khi tôi hỏi xem liệu anh có thể miêu tả chi tiết ngôi nhà đó cho tôi, anh bảo, “Ồ, được chứ.”

“Triết lý nền tảng của ngôi nhà mơ ước của tôi,” anh bắt đầu, “rất giống với cảm nhận của tôi về ngựa của mình - ta vượt lên trên cảm giác cần thiết bởi vì ta có một tình yêu cái đẹp. Ngôi nhà này hơi phô trương, nhưng tôi sẽ không đánh đổi chất lượng lấy bất cứ thứ gì. Nếu tôi muốn đá phiến lợp mái, tôi sẽ có đá phiến lợp mái. Cũng như thế với kính mài cạnh, đồ trang trí bằng đồng, đồ sắt rèn thủ công - bất cứ thứ gì tôi muốn. Ngôi nhà sẽ được xây với những tấm gỗ xẻ rộng, và tôi đã chọn sẵn một ố tấm như thế từ các khu rừng quanh đây. Những khúc gỗ thật lớn và rất nhiều đá, mọi thứ phải chắc và bền.

“Khi tôi mở cửa trước, cái đầu tiên tôi sẽ thấy là một đài nước bằng đá cao hơn mười mét, với một bể nước bằng đá dưới đáy. Đài nước hoạt động nhờ điện mặt trời, nhưng đồng thời cũng được đun nóng nên góp phần sưởi ấm ngôi nhà. Sàn nhà sẽ bằng đá phiến hoặc đá lát, loại nào đó tạo cảm giác dễ chịu cho mắt và chân. Phòng khách nhìn thẳng lên trần nhà kiểu thánh đường cao mười hai mét. Sâu trong gian phòng đó sẽ có một lò sưởi tròn bằng đá thụt sâu hơn sàn, với những chiếc ghế đá dài xây hẳn vào trong đó. Tôi sẽ nhóm lửa trong đó, rồi những đêm đông bạn bè tôi có thể đến sưởi mình sưởi lưng sưởi mông trên những phiến đá ấm áp đó. Bên trái gian phòng rộng lớn ấy là cánh cửa dẫn đến gian xưởng của tôi, rộng tầm bốn chục mét vuông. Tường ngoài thật ra chỉ là hai cánh cửa khổng lồ lắp vào những cái bản lề bằng sắt dài một mét rưỡi có thể mở toang ra ngoài trời, như thế để khi làm việc trong xưởng vào mùa hè tôi sẽ có không khí, ánh nắng và tiếng chim hót.

“Bên cạnh phòng lớn là hai phòng bằng kính. Một phòng là nhà kính, nhờ nó tôi sẽ có vô số rau xanh tươi quanh năm. Phòng còn lại là phòng ăn, đơn giản và hoàn hảo. Có một nơi dành cho mọi thứ, y như trên một con tàu. Một bàn gỗ rộng, nhiều ghế dài và một chiếc ghế quây tròn. Và cửa sổ ở khắp mọi nơi để tôi có thể nhìn xuống thung lũng, ở đó tôi sẽ thấy chuồng trại, bãi chăn thả và vườn tược. Phía sau lối vào phòng ăn là cánh cửa dẫn tới nhà bếp. Quầy bếp bằng đá cẩm thạch, tủ bếp làm thủ công với móc cửa làm bằng gạc nai, giá mở, bếp lò đun củi - nhưng cũng có cả bếp ga. Những cái bồn rửa với cả nước nóng và nước lạnh, hoàn toàn dùng năng lượng mặt trời, rồi tất cả những thứ làm thủ công này, những thứ tự rèn lấy nọ và bộ đồ bếp bằng gang. Và còn có một cánh cửa khác dẫn tới khu bếp ngoài trời, ở đó tôi có thể nấu nướng ăn uống vào mùa hè, với thềm có mái che, một bộ bàn ghế, nhiều bồn rửa ngoài trời có vòi nước, giá để đồ và bếp lò, nhờ thế tôi không phải liên tục vào nhà lấy thứ nọ thứ kia. Khu thềm nhìn ra một con dốc tuyệt đẹp trong hẻm núi, và có lẽ sẽ có hệ thống đèn thắp bằng khí prôpan chiếu sáng ngoài đó.

“Trên gác là hai phòng ngủ nhỏ áp mái và - cái này có thể nhìn thấy từ phòng lớn - một ban công mở ra từ phòng ngủ chính. Phòng ngủ chính bằng kích thước của gian xưởng phía dưới, nhưng nó sẽ không hoàn toàn đóng khung. Chỉ là một không gian mở, sạch và đẹp. Cuối sảnh từ phòng ngủ chính là một nhà vệ sinh tự hoại, một phòng tắm hơi và các phòng ngủ áp mái. Còn có cả một hàng hiên để ngủ ngoài trời với một cá ở đó, nhưng nếu tôi phải ngủ trong nhà thì sẽ có một chiếc giường thật lớn với ô cửa sổ áp trần phía trên để đêm nào tôi cũng có thể ngắm sao trời. Và, tất nhiên, sẽ có những phòng đựng áo quần khổng lồ.

“Khắp nơi trong nhà tôi sẽ là các tác phẩm nghệ thuật. Trên các ban công sẽ treo những tấm thảm của người Navajo. Nó sẽ hơi giống với phong cách Santa Fe mà ngày nay mọi người rất ưa chuộng, nhưng đầy ắp giá trị nghệ thuật đích thực - không phải thứ nghệ-thuật-rởm mà người ta sưu tầm về chỉ vì người ta không biết gì hơn. Ngôi nhà này sẽ có rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, rất nhiều ánh sáng rất nhiều không gian, thanh bình, an toàn, kín đáo, khắp cả ba mặt, tiện dụng và tuyệt đẹp. Để tôi bảo cô, tờ Architectural Digest chắc chắn sẽ thích đặt tay vào nơi này. Và tôi biết tôi có thể tự mình xây dựng nó, nhưng tôi thậm chí sẽ không động thổ chừng nào chưa có vợ, bởi vì sẽ thật ngu xuẩn nếu tôi xây ngôi nhà này mà không có người phụ nữ phù hợp bên cạnh.”

Anh ngừng lời. Ngồi dựa ra và mỉm cười.

Bản thân tôi chẳng biết phải nói gì.

Chẳng phải là tôi đang băn khoăn không biết Eustace có đã bao giờ nhặt lấy một tờ Architectural Digest chưa. Chẳng phải tôi kinh ngạc vì Eustace, người hàng mấy chục năm nay vẫn rao giảng rằng để sống hạnh phúc chúng ta chẳng cần nhiều môi trường vật chất bao quanh, vừa mới miêu tả mơ ước xây dựng một dinh thự miền quê với những tiêu chuẩn thẩm mỹ của một triệu phú dầu mỏ nghỉ hưu. Không phải tôi đang suy ngẫm rằng đột nhiên với tôi Eustace nói nghe mới giống Thomas Jefferson làm sao - một nhà mộng tưởng rất quan tâm đến lợi ích cộng đồng nhưng cũng rất cô độc, trong phút chốc rũ bỏ mọi bổn phận đối với nền Cộng hòa để chìm đắm vào sự mơ màng hoang tưởng về ngôi biệt thự được thiết kế mỹ mãn hoàn toàn rời xa xã hội. Thậm chí cũng chẳng phải tôi đang băn khoăn không biết mười ba đứa trẻ mà Eustace vẫn dự định sinh ra rồi đây sẽ ngủ ở đâu trong ngôi nhà chỉ có hai phòng ngủ còn trống đó. Tôi có thể xử lý được tất cả thắc mắc này. Chẳng làm tôi lúng túng chút nào.

Nỗi kinh ngạc của tôi căn bản hơn nhiều.

Đơn giản là, bất chấp tất cả những bước ngoặt tính cách lạ lùng mà rốt cuộc tôi đã đâm quen suốt nhiều năm qua ở kẻ sơn nhân hiện đại và phức tạp nhất trong mọi sơn nhân này, tôi vẫn không tài nào tin nổi mình vừa nghe Eustace Conway thốt ra cái cụm từ “những phòng đựng áo quần khổng lồ”.

Đây là Eustace Conway, nhìn xuống lòng khẩu súng săn đã bốn mươi năm tuổi. Nếu những biểu đồ thống kê của ngành kinh doanh bảo hiểm là đáng tin, anh đã sống hết nửa đời rồi. Anh đã đạt được nhiều thành tựu. Anh đã tận mục sở thị nhiều thứ trên thế giới này hơn những gì hầu hết chúng ta từng đọc được. Anh đã, khoảng bảy mươi lăm lần mỗi năm, hoàn thành những việc mà người ta bảo anh là không thể làm được. Anh đã giành và bảo vệ được mảnh đất mà anh luôn khao khát. Anh đã để tâm đến những luật lệ của tự nhiên, và sự chú ý đó đã tưởng thưởng anh bằng sự thành thạo đáng kinh ngạc trong hàng loạt công việc. Anh đã xây dựng một tổ chức giáo dục và truyền dạy dựa theo đúng hình tượng của anh. Anh đã trở thành một nhân vật tiếng tăm của công chúng. Anh được sùng bái và anh được kính sợ. Anh đang ở trên đỉnh cao sự nghiệp của mình. Anh thậm chí tự gọi mình là Sơn Nhân Hạng Nhất, và quả thực anh đã trở thành một Người Mang Sứ Mệnh đang hành động, Ẩn Sĩ Nổi Tiếng Nhất Thế Giới, Tổng Giám Đốc Của Rừng Xanh.

Nhưng cũng tồn tại những kẻ nứt. Và anh có thể cảm nhận gió lùa qua đó. Cũng như hồi ba mươi tuổi, anh dường như không thể làm cho mối quan hệ với người khác diễn ra tốt đẹp như mong muốn. Những người mà anh làm việc cùng ở Đảo Rùa luôn giận anh hoặc hiểu lầm anh. Hầu hết những người học việc tôi gặp ở Đảo Rùa rốt cuộc đều rời bỏ Eustace rất lâu trước khi thời gian học tập của họ chính thức kết thúc, và thường là trong nước mắt. Ngay cả Candice, cô gái đã nhất quyết không trở thành một cựu thành viên bất mãn của Đảo Rùa nữa, cũng đã đột ngột bỏ núi mà đi như một DETI, thất vọng não nề vì Eustace từ chối trao cho cô thêm quyền trông coi khu vườn.

Và Eustace vẫn không gần gũi hơn với gia đình. Đứng hàng đầu trong mọi suy nghĩ của anh tất nhiên vẫn là người cha lúc nào cũng đầy khinh miệt - chế ngự từng hơi thở của anh, chỉ trích và kinh tởm và tức giận. Một câu chuyện diễn đi diễn lại bất tận trong cuộc đời Eustace Conway là mỗi khi anh tìm kiếm tình yêu và sự công nhận từ cha mình, anh luôn gần như chói mắt trước sự trống lốc anh thấy ở đó.

Tuy nhiên có một điều lạ thực sự thay đổi vào năm nay gọi cho tôi hôm sinh nhật thứ ba mươi chín của anh. Chúng tôi trò chuyện bình thường, nói chuyện khoảng một giờ đồng hồ về công việc ở Đảo Rùa và tán gẫu. Anh kể cho tôi nghe về những người học việc mới, về công việc ở chuồng trại và sự chào đời của một con ngựa non tên là Luna.

Và rồi anh nói, với một giọng rất lạ. “À, còn một chuyện nữa. Tuần này tôi nhận được một tấm thiệp chúc mừng sinh nhật.”

“Ồ, thế à?” tôi hỏi. “Từ ai vậy?”

“Từ bố tôi.”

Có một khoảng lặng dài. Tôi đặt cốc trà đang uống dở xuống và tìm cho mình một cái ghế.

“Kể tôi nghe,” tôi nói. “Kể tôi nghe mọi chuyện đi.”

“Tôi đang cầm tấm thiệp ngay trên tay đây này.”

“Đọc cho tôi nghe đi, Eustace.”

“Nó thú vị lắm, cô biết không? Bố tôi... ừm... ông ấy tự tay vẽ tấm thiệp. Nó là một bức vẽ ba quả bóng bay nhỏ trôi lên bầu trời. Ông ấy vẽ những quả bóng bay bằng bút đỏ và vẽ một cái nơ buộc quanh mấy sợi dây bằng bút xanh lục. Ông dùng bút xanh dương để viết lời nhắn.”

“Lời nhắn thế nào?”

Eustace Conway hắng giọng rồi đọc: “Thật khó tin được rằng ba mươi chín năm đã trôi qua kể từ khi con sinh ra và hình thành gia đình chúng ta. Cảm ơn bao nhiêu hạnh phúc con đã mang cho cả nhà qua chừng đó thập kỷ. Cả nhà ta mong thật nhiều hơn nữa. Yêu con. Bố.”

Lại thêm một khoảng im lặng dài.

“Đọc lại lần nữa đi,” tôi nói, và Eustace đọc

Chẳng ai trong hai chúng tôi nói gì trong một lúc lâu. Rồi Eustace nói với tôi rằng anh nhận được tấm thiệp này hai ngày trước. “Tôi đọc nó một lần rồi gấp lại bỏ vào phong bì. Nó khiến tôi buồn xa xót, tay tôi run rẩy. Đó là những lời tử tế đầu tiên bố từng nói với tôi. Tôi không nghĩ có ai hiểu nổi điều đó khiến tôi cảm thấy thế nào. Mãi đến giờ tôi mới nhìn lại tấm thiệp. Phải mất hai ngày tôi mới có đủ can đảm để mở nó ra lần nữa và đọc lại. Tôi thậm chí sợ chạm vào nó, cô hiểu không. Tôi không chắc nó có thật không. Tôi nghĩ biết đâu mình mơ thấy nó.”

“Anh ổn chứ?” tôi hỏi.

“Tôi không biết nữa. Ôi Chúa ơi, tôi không biết làm cách nào mở trái tim đầy sợ hãi của mình ra để dù chỉ để nghĩ về nó. Sao chứ, thứ này là có ý gì vậy? Thứ này có nghĩa gì hả bố? Bố đang làm cái quái quỷ gì vậy?”

“Có thể ông không có ý đồ gì đâu, Eustace.”

“Tôi nghĩ tôi sẽ giấu tấm thiệp này đi một thời gian.”

“Làm vậy đi,” tôi nói. “Có lẽ ngày mai anh có thể đọc lại.”

“Có lẽ tôi sẽ làm thế,” Eustace nói, rồi anh gác máy.

Chút băng tan tuy nhỏ xíu nhưng chấn động này trong mối quan hệ giữa hai Eustace làm tôi nghĩ đến một từ khó hiểu tôi vừa mới học được. Một hôm khi đang lật giở cuốn từ điển thì tôi tình cờ khám phá ra nó, khi cố tìm tên Eustace, để xem có biết được xuất xứ của nó không. Không có từ Eustace nào trong từ điển của tôi, nhưng tôi lại khám phá ra từ Eustasy, nó là một danh từ. Và đây là nghĩa của từ Eustasy: “sự thay đổi mực nước biển trên phạm vi toàn thế giới, xảy ra qua nhiều thiên niên kỷ do tác động của sự dâng lên hoặc hạ xuống của các sông băng.”

Dùng cách nói khác là, một sự tan chảy chầm chậm và hùng tráng. Tôi nghĩ đây sẽ là cách tạo ra dù chỉ một thay đổi nhỏ trong mực nước bi

Và rồi cũng phải xét đến những thành viên khác trong gia đình Conway. Các mối quan hệ của Eustace với họ cũng không ổn định. Anh yêu mẹ mình, nhưng anh khóc thương cho nỗi buồn cũng như cuộc sống hôn nhân khốn khổ của bà với một cảm xúc mãnh liệt tới độ bào mòn khả năng tìm kiếm hạnh phúc của chính bản thân anh. Anh quan tâm đến cậu em trai nhỏ Judson nhiều hơn quan tâm tới bất kỳ ai, nhưng ngay cả người quan sát tình cờ nhất cũng có thể thấy rõ mồn một rằng hai anh em không còn thân thiết như trước nữa. Không còn như vậy nữa kể từ hành trình Kỵ sĩ Đường trường. Giờ đây Judson sống gần Eustace, cư trú chỉ ngay bên kia thung lũng đối diện Đảo Rùa, trong một ngôi nhà gỗ nho nhỏ mà anh xây cho mình và giờ thì chia sẻ với cô vợ chưa cưới cực kỳ thú vị của mình (một cô gái tự chủ và bền bỉ, biết săn nai bằng cung tên, là thợ đốn gỗ, và có tên là - nghe nhé! - Eunice). Judson có thể dễ dàng phi ngựa lên thăm Eustace hằng ngày nếu anh thích thế, nhưng anh không thích. Hai anh em hiếm khi gặp nhau. Eustace muốn gần gũi với Judson hơn nhiều so với Judson đối với anh, nhưng Judson cẩn thận và lịch sự giữ khoảng cách không thân thiết giữa họ.

“Tôi thấy rõ điều đó khi chúng tôi cưỡi ngựa xuyên nước Mỹ,” Judson bảo tôi. “Eustace y hệt như bố tôi. Anh ấy dữ dội khủng khiếp và thật khó mà ở gần. Anh ấy và bố tôi đều hãnh diện tự cho mình là những người truyền đạt vĩ đại. Họ nghĩ họ hành xử ở trình độ trí tuệ và truyền đạt cao hơn bất kỳ ai khác. Eustace được một điều là anh thực sự cố gắng lắng nghe mọi người và đôi khi cũng hết sức nhẹ nhàng và công bằng, nhưng điểm căn bản thì chẳng khác gì nhau - anh ấy lúc nào cũng phải làm theo ý mình và không bao giờ bàn luận phải quấy gì hết. Này, tôi yêu anh mình, nhưng tôi không biết phải đối phó với chuyện này ra sao nữa. Đó là lý do tại sao tôi giữ khoảng cách. Tôi chẳng còn cách nào. Chuyện này khiến tôi thực sự buồn.”

Walton Conway, người em trai thứ, cũng sống gần đó, chưa đầy một giờ lái xe từ Đảo Rùa. Thông minh sáng láng, thông thạo nhiều ngôn ngữ và dè dặt, anh sống trong một ngôi nhà hiện đại thoải mái, giá sách của anh đầy ắp các tác phẩm của Nabokov và Dickens. Walton dạy Anh văn và viết thứ văn xuôi lặng lẽ. Anh điều hành một cơ sở kinh doanh ở ngoài nhà, nhập khẩu và bán hàng thủ công mỹ nghệ từ Nga. Vợ anh là một phụ nữ hoạt bát và phóng khoáng có hai con gái riêng từ cuộc hôn nhân trước, và hai vợ chồng họ vừa có thêm một cô con gái nữa. Cuộc sống của Walton hiện nay rất bình lặng, nhưng thời trẻ anh đã thực hiện nhiều cuộc hành trình gian khó. Hồi đó, anh thường xuyên viết thư về nhà c người anh cả Eustace, anh luôn ngưỡng mộ sâu sắc và rất mong mỏi có được sự xem trọng từ anh trai.

“Em chẳng thích nói thế này đâu,” Walton viết cho Eustace vào năm 1987, sau một thời gian dài sống trong một trang trại ở Đức noi anh đã tìm được công việc, “nhưng có thể anh sẽ tự hào về em. Khi em đang làm việc, hai bàn tay em sẽ trở nên rắn rỏi và đầy cáu ghét, và giờ đây em mới có vết chai sần ở những chỗ mà trước kia em chưa bao giờ thấy.”

Hoặc lá thư này từ Nga năm 1992: “Có một sự thay đổi lớn trong vận tốc đào thửa vườn dưa chuột ở ngoài thành phố cuối tuần vừa rồi. Làm việc với xẻng rất hiệu quả suốt cả ngày. Nghĩ về anh và Tolstoy và về cái mùa hè anh đi xây dựng ở dưới tiểu bang Alabama nóng hơn hỏa ngục. (Anh thấy đấy, em đã gián tiếp trải nghiệm mọi cuộc phiêu lưu của anh, thông qua những cái lỗ nhòm bé tí trên cánh cửa.) Tuy nhiên, nhìn chung thì có lẽ anh sẽ ghét ở Moscow này. Vây quanh em toàn cặn bã. Thật xót xa khi nhìn thành phố này, những gì con người đã làm với chính bản thân họ, những gì con người được bố thí khi lên được tới đầu dòng người xếp hàng chờ. Em không thể tưởng tượng anh có thể ở đây. Em mơ về Đảo Rùa.”

Nhưng giờ khi sống rất gần Đảo Rùa, Walton lại hiếm khi tới thăm anh trai. Điều này đánh gục Eustace, anh tha thiết muốn có thời gian bên Walton và cảm thấy tổn thương vì người em trai sẽ không đóng một vai trò quan trọng hơn trong cuộc đời anh.

“Là bởi bản ngã mà tôi phải tránh xa,” Walton giải thích. “Tôi không thể chịu đựng nổi. Có những buổi sáng thức giấc tôi chợt nghĩ, Chúa ơi, chẳng phải sẽ tuyệt vời lắm sao nếu có một người anh như Eustace với mọi kỹ năng và sự thú vị đó, nhưng đồng thời cũng khiêm tốn nữa? Tôi sẽ thích ở bên một ai đó như thế để được học hỏi. Tôi thích một ngày nào đó được đi bộ đường trường với Eustace và có một tương thông nhẹ nhàng, nhưng cái vấn đề bản ngã này thực sự khó mà tránh được. Tôi luôn muốn nói với anh ấy, 'Thử tưởng tượng có một ngày anh khởi hành một chuyến đi ngựa mà không phải nói với tất cả mọi người về điều đó xem? Mọi khoảnh khắc trong cuộc đời anh cứ phải luôn luôn là một trò công diễn thế à?'”

Còn với Martha cô em gái duy nhất của Eustace thì sao? À, tôi xem cô là nhân vật bí hiểm nhất trong cả gia đình Conway. Cô sống rất xa bên ngoài thế giới phiêu lưu và liều lĩnh của các anh em trai đến mức đôi khi thật dễ mà quên đi sự tồn tại của cô. Nhà Conway rất hay đùa rằng thần tiên đã bắt cóc đứa con thật của gia đình đi rồi để Martha thế chỗ nên chẳng có ai hiểu nổi tại sao cô “lại như thế”. Martha sống với chồng và hai con gái ở một khu ngoại ô mới khang trang, trong một ngôi nhà sạch sẽ vô trùng tới mức ta có thể sử dụng căn bếp của cô làm phòng mổ.

“Cô biết khi có con nhỏ thì hầu hết các ông bố bà mẹ phải giấu mọi thứ đồ dễ vỡ trong nhà đi để không có cái gì bị đổ bể như thế nào không?” Judson hỏi tôi, khi anh cố miêu tả về bà chị. “Ờ, trong nhà Martha thì mọi chuyện không giống vậy. Chị ấy bày những thứ đồ dễ vỡ ngay đó trên bàn uống nước rồi bảo hai cô con gái đừng có chạm vào. Và cô cứ việc tin chắc là chúng không chạm vào.”

Martha là một tín đồ Thiên Chúa giáo thuần thành, còn mộ đạo hơn nhiều so với cả bố lẫn mẹ cô. Cô cũng là một phụ nữ thông minh sắc sảo với tấm bằng thạc sĩ Đại học Duke. Tôi chắc chắn cô có thể điều hành hãng General Motors ngay lập tức nếu cô muốn, nhưng cô tập trung mọi khả năng nhạy bén và tài tổ chức vào làm một người nội trợ hoàn hảo, một bà mẹ nghiêm khắc và một thành viên quan trọng của nhà thờ nơi cô đi lễ. Tôi không biết nhiều về Martha; tôi chỉ ở bên cô có một buổi chiều. Nhưng tôi mến cô. Tôi thấy cô dịu dàng hơn tôi tưởng sau khi nghe các anh em trai cô kể về tính khắt khe nổi tiếng của cô. Tôi thật cảm động khi cô đón tôi vào nhà, bởi vì nơi đó vốn vô cùng thiêng liêng đối với cô. Tôi có thể thấy trong mắt cô rằng thật khó khăn biết bao cho cô khi để tôi vào nhà như thế. Tôi có thể thấy nỗi muộn phiền trong cô, nơi ý thức sâu sắc về lòng mến khách của người Thiên Chúa giáo đối chọi lại với ý thức về sự riêng tư mà cô vốn nâng niu.

Khi tôi đề nghị Martha kể về bản thân cô, cô nói, “Điều quan trọng nhất trong cuộc đời tôi là con đường đi bên Chúa Jesus. Điều đó phản ánh trong mọi việc tôi làm - cách tôi nuôi dạy các con, cách tôi tôn thờ lời cam kết với hôn nhân, cách tôi nỗ lực không đặt bản thân lên trước nhất, cách tôi kiểm soát các cảm xúc của mình và điều khiển giọng của mình. Mọi lựa chọn tôi đưa ra đều dựa trên đức tin của tôi. Tôi dạy các con ở nhà cũng bởi vì đức tin của tôi. Tôi không muốn các con học trường công. Tôi cảm thấy có rất nhiều điều xấu ở đó, kể từ khi người ta đưa cầu nguyện ra khỏi trường học. Tôi muốn các con tôi lớn lên với đức tin nghiêm cẩn, và chúng chỉ có thể nhận được điều đó ở đây bên tôi. Ở ngoài đời, mọi thứ đều dựa trên thuyết tương đối, và tôi không muốn các con tôi học điều đó. Ở ngoài kia, không còn gì là tuyệt đối nữa. Nhưng tôi vẫn tin vào những điều tuyệt đối. Tôi tin có một cách sống mà đúng và sai tuyệt đối tách bạch, và tôi có thể dạy các con điều đó, ngay ở đây trong

Chỉ ra Eustace và Martha khác nhau đến mức nào cũng là một câu chuyện vui thường xuyên của nhà Conway. “Cứ chờ cho đến khi thấy chị ấy sống như thế nào đi,” tôi được cảnh báo. “Cô sẽ không tin nổi chị ấy và Eustace là anh em đâu!” Nhưng tôi xin lễ phép không tán đồng. Ngay khi bước vào phòng khách nhà Martha, tôi nghĩ, Xin lỗi nhé, anh em. Hai con người này chính xác là một. Cả Eustace và Martha đều thấy thế giới “ngoài kia” thật suy đồi và bẩn thỉu, thế nên cả hai người đều thiết kế thế giới riêng của chính họ, những thế giới khăng khăng lánh mình khỏi xã hội rộng lớn hơn, riêng biệt đến như thể họ có thể sống dưới cái chao đèn cũng được. Họ điều khiển thế giới riêng tư của mình với quyền lực tuyệt đối, không bao giờ phải trải qua cảm khó chịu do thỏa hiệp. Thế giới của Eustace rộng một nghìn mẫu Anh còn thế giới của Martha chỉ gần một trăm mét vuông, tuy nhiên họ cai trị với cùng một động lực. Rốt thì đều là chủ nghĩa chuyên chế.

Chủ nghĩa chuyên chế rất tuyệt trong chuyện làm cho vô khối công việc được hoàn thành, nhưng khi các chủ nghĩa chuyên chế va chạm nhau thì đó có thể là một vụ đâm xe lửa dữ dội chết người. Đó là lý do tại sao Eustace và em gái chưa bao giờ xích lại gần nhau được. Càng buồn hơn khi cả hai người đều mong muốn có được một mối quan hệ đúng nghĩa. Nhung họ chỉ gây nỗi bực mình cho nhau. Eustace tin rằng anh đã cố gắng tận lực để tôn trọng các giá trị và cuộc sống được lập trình chặt chẽ của Martha bằng cách báo trước nhiều lần cho cô rồi mới tới thăm và đọc các câu chuyện trong Kinh thánh cho con cô và cố không làm đảo lộn ngôi nhà thân yêu của cô. Thế mà, cô buộc tội anh là thô lỗ và luôn tự cho mình là trung tâm, điều này càng khiến anh tổn thương hơn, bởi anh nhận thức được rằng Martha - vốn chỉ đưa gia đình mình lên Đảo Rùa có hai lần, bất chấp những lời mời liên tục - dường như không hề quan tâm tới cuộc sống của anh. Martha, trái lại, luôn cảm thấy tổn thương trước điều cô trông thấy: một người anh độc đoán đòi cả thế giới phải dừng lại quỳ dưới chân anh để tôn thờ anh mỗi khi anh lướt qua thị trấn. Vì lòng kiêu hãnh, vì thói quen, Martha từ chối nghiêng mình.

Thế nên, không, mối tương tác của Eustace với gia đình không lấy gì làm thỏa mãn. Trên bình diện nào cũng vậy. Anh không thể vượt qua chuyện này. Tuy nhiên, điều khiến anh thậm chí còn phiền muộn hơn là anh vẫn chưa xây dựng gia đình riêng. Từ ba mươi tuổi tới giờ, anh thường nhìn quanh đế chế của mình và bàng hoàng nhận ra rằng, mặc dù anh đã thành công rất nhiều chỉ bằng sức mạnh của ý chí, anh vẫn chưa có vợ con. Tới thời điểm này trong đời đáng lý anh đã phải ổn định trong cuộc sống gia đình, tiến xa trong quá trình nuôi dạy con cái và sung túc vui vầy với sự vững chắc của hôn nhân. Eustace đã sai ở đâu trong chuyện này? Anh không thể hiểu nổi.

Một hôm Eustace và tôi lái xe xuống núi để thăm cố vấn về ngựa của anh, ông chủ trại già miền núi và là người huấn luyện thú kỳ tài, Hoy Moretz. Chúng tôi đã có một buổi chiều vui vẻ trong gian bếp nhà Hoy, ăn bánh mì ngô với bà Bertha vợ ông, nghe những câu chuyện khoác lác ngông cuồng thời xưa, và lật giở cuốn album ảnh của Hoy chẳng có gì khác ngoài ảnh la, bò mộng, ngựa. Hoy rất vui tính và láu cá. (Khi gặp ông lần đầu, tôi nói, “Chào ông, ông thế nào ạ?” ông liền đáp, “Béo và lười. Cô thì sao?”) Ông không biết đọc sách - bố ông bắt ông chăn những đoàn bò mộng đưa gỗ về xưởng cưa từ khi ông mới lên sáu - nhưng ông là một chủ trại đầy năng lực. Ông có ba trăm mẫu đất với những bãi chăn thả và những cánh đồng gọn gàng xinh xắn nhất trần đời. Hoy không có con, thế nên bên chiếc bàn trong gian bếp ngày hôm đó, Eustace đã hỏi ông chuyện gì sẽ xảy ra cho mảnh đất tươi đẹp kia sau khi cả ông và Bertha qua đời. Hoy nói ông không biết chính xác, nhưng ông tưởng tượng “Chú Sam sẽ tiếp quản rồi bán nó cho mấy tay chủ thầu vừa mới dựng chín trăm căn nhà ngay tại sườn bên kia ngọn núi của tôi.”

Khi lái xe về, tôi hỏi Eustace liệu sau này anh có muốn đất của Hoy không. Trang trại Moretz chỉ cách Đảo Rùa bốn mươi lăm phút chạy xe, và nó rất lộng lẫy, Eustace liền nói tất nhiên là anh sẽ muốn có nó và tất nhiên anh ghét phải thấy nó phát triển thành một nghĩa địa toàn những ngôi nhà ngoại ô hiện đại.

“Nhưng đó là hình mẫu rập khuôn của thế giới,” anh nói tiếp. “Đầu tiên xuất hiện đường rồi xuất hiện nông trang rồi những người chủ trại bán đứt mảnh đất cho những tay chủ thầu rồi lũ này bằm nhỏ nó ra và xâm hại nó và xây thêm nhiều đường sá trên đó cho tới khi nó bị nhai vụn. Tôi không thể cứu mọi mẫu đất ở Bắc Carolina được. Tôi không có khả năng làm việc đó.”

“Nhưng anh sẽ làm gì với đất đai của Hoy nếu anh có?” tôi hỏi, thầm nghĩ anh có thể sử dụng mảnh đất ấy làm đồng cỏ hoặc làm nơi chăn thả vương quốc ngựa đang gia tăng không ngừng của anh.

“Tôi sẽ để dành nó rồi trao cho một trong số các con trai của tôi khi nó trưởng thành để nó có thể biến mảnh đất thành một nông trang cổ truyền,” Eustace nói.

Câu nói đó lơ lửng giữa không một lúc lâu. Có nhiều giả định xuất hiện ở đây: một ngày nào đó Eustace sẽ có một lũ con; sẽ có nhiều con trai trong số đó; một cậu con nào đó lớn lên sẽ hứng thú với việc làm trang trại cổ truyền; Eustace sẽ không xem các con trai của anh là nỗi thất vọng ê chề (“đối lập hoàn toàn với đứa con mà tôi mong đợi!”) như ông ngoại và bố anh đã xem các con trai của họ; tất cả đất đai của anh sẽ vẫn còn nguyên vẹn đó trong vòng hai lăm năm nữa. Đến cả Eustace dường như cũng thấy những nỗi băn khoăn này.

“Con trai tôi,” cuối cùng anh lên tiếng với giọng điệu tự mai mỉa bản thân. “Nghe tôi nói kìa. Tôi kiếm đâu ra con trai chứ?”

Đúng vậy, từ đâu? Và ai làm người mẹ? Đây là một câu hỏi đáng giá tỷ tỷ đô la trong cuộc đời Eustace, một câu hỏi ám ảnh không chỉ mình anh mà tất cả những người quen biết anh, đến mức chẳng khác gì một trò giải trí tầm cỡ quốc gia khi mọi người túm tụm lại đoán định xem ai là người (hoặc liệu có khi nào) Eustace sẽ kết hôn. Trong mấy năm qua, mọi thành viên trong gia đình Conway đều kéo riêng tôi ra một lúc nào đó để thổ lộ hy vọng âm thầm của họ rằng Eustace sẽ không bao giờ kết hôn và tất nhiên sẽ không bao giờ có con, bởi vì anh sẽ, như Martha vẫn lo lắng, “là một người cha quá đáng sợ.”

Nhưng có những người bạn khác của Eustace vẫn luôn cố gán ghép anh với hình ảnh một cô gái có bản tính hiện đại, làn da nâu sẫm, yêu hòa bình, giỏi trèo núi. Một số nghĩ anh nên quay lại Guatemala và cưới thiếu nữ Maya mười bốn tuổi lặng lẽ và xinh đẹp nhất anh có thể tìm thấy. Những người khác nghĩ anh cần cô gái cứng rắn và cường hào nhất thế gian tới trị anh ở Đảo Rùa một thời gian. Và anh có một người bạn, một nữ họa sĩ quen ăn nói bỗ bã không bao giờ ngừng thách thức anh với lời buộc tội này: “Ê, Eustace. Sao không thừa nhận quách đi là thật ra anh chẳng thích trẻ con? Hễ chúng ở cùng phòng với anh là anh lập tức vắt chân lên cổ chạy tránh xa chúng.”

Cũng như ai, tôi có những ý kiến của riêng mình về cuộc sống tình cảm của Eustace. Với tôi thì dường như thứ anh thực sự cần là một người phụ nữ vừa mạnh mẽ vừa chịu phục tùng. Giờ đây điều này có thể nghe như một điều mâu thuẫn, nhưng ngày xưa thì không phải lúc nào cũng thế. Mạnh mẽ kết hợp với phục tùng ở phụ nữ là điều bình thường trong suốt nhiều thế kỷ, đặc biệt là ở vùng biên nước Mỹ. Nhìn lại một lần nữa trường hợp vợ của Davy Crockett, năng lực phi thường trong rừng hoang của bà chỉ sánh được với sự phục tùng của bà trước người chồng. Đó là điều Eustace cần. Thế nhưng đó là năm 1780. Thời thế, như chúng ta ai cũng thấy, đã thay thế nên theo ý riêng của tôi thì Eustace Conway sẽ không có nhiều cơ may tìm được cho mình một người vợ (hay, như đôi khi anh vẫn gọi, “một người bạn đời”) - Như có lần một cậu bạn người thành thị của anh đã than tiếc với giọng giả lè nhè kiểu dân quê, “Một thế kỷ cái phong trào nữ quyền chết tiệt đã làm hỏng hết tất cả cô dâu rồi!”

Giống như nhiều Người Mang Sứ Mệnh phi thường trước anh, duy chỉ trong hoạt động quan hệ thân mật tinh tế nhất này Eustace mới không thành công. Tất cả sức lực và tất cả tài năng của anh đều trở nên vô dụng khi đối diện như Meriwether Lewis bất hạnh từng viết cho người bạn thân William Clark mấy năm sau khi họ chu du khắp lục địa này để lập bản đồ, “Bây giờ tôi là một kẻ góa bụa hoàn toàn trong chuyện tình yêu. Tôi cảm thấy được tất cả nỗi thao thức, sự bồn chồn, cái gì đó khôn tả rất quen thuộc với những ông lão độc thân ấy, thứ mà, người anh em thân mến của tôi, tôi không thể không nghĩ là xuất phát từ khoảng trống ấy trong tim chúng ta, cái khoảng trống mà tốt hơn có lẽ, hoặc nên, được lấp đầy. Do đâu mà thành ra thế tôi thật chẳng biết, nhưng điều này là rất rõ ràng, tôi chưa bao giờ cảm thấy mình ít giống một người hùng bằng lúc này. Chúa mới biết chuyến phiêu lưu tiếp theo của tôi có thể là gì, nhưng điều này thì tôi nhất quyết: tìm một người vợ.”

Không phải là Eustace không có nhiều sự lựa chọn. Người đàn ông này gây tác động vô cùng mạnh mẽ đến phụ nữ và có thể tiếp cận rất nhiều người trong số họ, cho dù thế giới của anh có vẻ cô biệt đến đâu. Có không biết bao nhiêu nữ nhi đầy mộng tưởng xinh đẹp mắt sáng như sao tới tung tăng khắp Đảo Rùa mỗi năm với vai trò trại viên, người học việc, người đi dạo, nhiều người trong số đó sẽ vô cùng sung sướng được ngả vào vòng tay của một sơn nhân đích thực, nếu được mời. Nếu tất cả những gì Eustace theo đuổi trong cuộc đời là sự thỏa mãn tình ái, anh có thể dễ dàng chọn cho mình một nguồn cung cấp người tình bất tận, như thể hái quả mọng từ trong bụi rậm vậy. Tuy nhiên, phải ghi nhận rằng anh không bao giờ sử dụng Đảo Rùa như một Địa Đàng Tình Ái Tự Do của cá nhân. Anh không bao giờ lợi dụng nhóm phụ nữ trẻ đẹp đó cho khoái lạc ngắn hạn. Ngược lại, anh luôn cố ý tránh xa rất nhiều những cô gái trẻ xem anh như thần tượng vì hình ảnh khắc nghiệt của anh, bởi vì anh không nghĩ rằng lợi dụng sự tôn thờ của họ là thích đáng. Thay vào đó, điều anh không ngừng tìm kiếm là sự hòa hợp một vợ một chồng bất khả xâm phạm có những chiều kích thần thánh giữa hai nhân vật anh hùng. Đó là một cuộc tìm kiếm thấm nhuần ý niệm về tình yêu lãng mạn vẫn còn giữ được một cách bền bỉ - nói cho đúng là một cách vô cùng tha thiết và khó tin và gần như bạo liệt - sự ngây thơ

“Quả thực vô cùng say đắm khi được gặp em và có cơ hội chia sẻ cùng em,” anh viết trong lá thư thuở ban đầu cho một cô gái chẳng lưu lại đủ lâu để có thể hợp thức liệt vào danh sách bạn gái của Eustace Conway. “Anh không biết chính xác em nghĩ gì về anh, nhưng anh hy vọng chúng ta sẽ có một cơ hội để hiểu nhau. Anh đang tìm kiếm một người bạn đời - một người năng nổ, thông minh, ưa phiêu lưu như em thực sự vô cùng lôi cuốn anh. Anh muốn sống mãi trong những mộng ảo của mình về một mối quan hệ thiêng liêng đầy tình yêu và sự chăm sóc yêu thương và sự thấu hiểu trọn đời. Anh muốn có mối quan hệ 'kỳ ảo' mơ mộng kiểu Mỹ 'hoàn hảo' tràn đầy tình yêu đó, nếu em sẵn lòng. Anh không đón đợi điều gì kém vẹn toàn hơn thế... Anh đã muốn kết hôn mười năm nay rồi. Anh đã tìm kiếm nhưng vẫn chưa tìm thấy 'người phù hợp'... Nếu em có nhãn kiến để nhìn và có niềm quan tâm để tìm hiểu, em sẽ thấy anh là một người sâu sắc và chu đáo, một người có thể và sẵn lòng dâng cho em nhiều hơn những gì em từng mơ ước cho một mối tâm giao giàu ý nghĩa trong suốt hành trình sống này, 'cuộc thử nghiệm nhân sinh', Anh dâng em điều đó. Xin em hãy xem xét nghiêm túc chuyện này và đừng để một cơ chế bảo vệ nào ngăn không cho em tìm thấy trong anh điều trái tim em thực sự khao khát. Với tình yêu anh có thể dâng cho em, những cảm nghĩ chân thành nhất, Eustace.”

Nhưng phương pháp tiếp cận “hãy-đứng-trong-đường-hầm-thử-nghiệm-tình-yêu-của-anh” này cũng không ăn thua. Và nó hủy hoại Eustace, sự thiếu vắng này, sự mất mát, sự thất bại trong việc tạo dựng một gia đình lý tưởng để xóa đi hình ảnh tuổi thơ tàn khốc trong anh. Anh ý thức rất rõ rằng anh đang cạn dần thời gian. Mới gần đây, anh có quan hệ với Ashley, một phụ nữ hippy hai mươi bốn tuổi anh quen đã nhiều năm. Cô ấm áp và đáng yêu hơn bất kỳ ai tôi từng gặp. Eustace gặp cô lần đầu cách đây sáu năm, tại một bữa tiệc, anh nhìn cô chằm chằm suốt đêm, quan sát cô nói chuyện với những người khác, thầm nghĩ rằng “cô ấy quá ư sống động, tràn ngập tình yêu, giống như một thác nước đổ xuống cả căn phòng với làn sương khói cuộn lên quanh cô, quá cuốn hút. Chỉ vừa nhìn thấy cô ấy tôi đã nghĩ, Đây chính là người ấy. Mình cần cưới cô gái này.”

Nhưng Ashley, bấy giờ mới tròn mười tám tuổi, đã có người yêu. Cô sắp rời thành phố, bước vào thế giới để thực hiện một số chuyến chu du và cuộc phiêu lưu ngông cuồng, và không hề sẵn sàng trở thành người phụ nữ của Eustace Conway. Nhưng mới đây cô trở về Boone và hiện nay cô chưa có ai. Eustace lại yêu cô lần nữa, và cô yêu anh.

Eustace nghĩ Ashley là một thiên thần, và chẳng khó để hiểu tại sao. Con người cô tỏa ra bản chất tốt và lòng nhân hậu. Một chiều Ashley đang chở tôi đi quanh Boone thì một người đàn ông vô gia cư tiến tới xe cô đang chờ đèn đỏ để xin tiền. Ashley, vốn chật vật sống sót suốt những năm qua nhờ vào phiếu trợ cấp thực phẩm và niềm hy vọng, liền lục khắp xe để tìm tiền, nhưng chỉ kiếm được mấy xu nhỏ.

“Tôi không thể cho ông nhiều tiền,” cô xin lỗi người vô gia cư, “nhưng tôi hứa sẽ cho ông tất cả lời cầu nguyện của tôi.”

“Cảm ơn cô,” ông ta nói, mỉm cười như thể ông vừa nhận được một trăm đô la. “Tôi tin ở cô.”

Ashley có một trái tim bao la đủ hấp thu tất cả tình yêu, nhu cầu và khao khát mãnh liệt Eustace trao cho cô mà thậm chí không hề do dự. Nhưng có một trục trặc với Ashley. Đâu đó trên các hành trình của mình, cô đã có ba đứa con nhỏ - một cậu con trai năm tuổi và hai cô con gái sinh đôi mới chập chững.

Khi nghe về bọn nhỏ, tôi nói, “Eustace, tôi nghĩ anh đã luôn muốn mười ba đứa con. Với tôi thì có vẻ như ở đây anh đã có một khỏi đầu tốt, bạn thân mến ạ. Xong ba, còn mười nữa thôi!”

Eustace cười lớn. “Chắc chắn rồi, nhưng khái niệm mười ba đứa con cực kỳ khác so với thực tế có ba đứa con.”

Ashley điềm đạm, trìu mến, vui tính, chú tâm và bền bỉ. Cô mang lại cảm giác thanh bình và mến khách vốn vô cùng cần thiết cho Đảo Rùa. Và cô có thể nhẹ nhàng xoay xở cách sống đó. Cô đã trải qua mấy năm sống ở một cộng đồng Rainbow Gathering ưa gây gổ, thế nên với cô Đảo Rùa chẳng khác gì Hilton Resort. Đây là một người phụ nữ đã trải qua hai lần mang thai mà không hề đến bác sĩ khám. (“Khi khỏe mạnh là ta biết ngay,” cô giải thích, “và tôi không cần ai nói với tôi rằng tôi đang ổn cả.”) Đây là một phụ nữ đã sinh hai cô con gái sinh đôi ngoài trời vào lúc nửa đêm trên nền đất lạnh ở Colorado, chỉ che mỗi một tấm bạt bên trên. Đây là một phụ nữ đương nhiên có thể xoay xở cuộc sống với những việc như mổ lợn và Bới Thùng Rác.

Eustace thề rằng anh sẽ cưới Ashley ngay lập tức nếu cô chưa có gia đình. Anh vô cùng e ngại chuyện nuôi những đứa con vô tổ chức của một người đàn ông khác, đặc biệt khi gã đó là một tayppy và vẫn còn hiện diện đáng kể trong cuộc sống của con cái anh ta. Eustace không muốn có một ảnh hưởng vô kỷ luật như thế ở bất kỳ nơi đâu gần những đứa trẻ mà có thể một ngày nào đó anh sẽ nuôi dạy. Tuy nhiên có thể nói, anh không thấy e ngại hai cô con gái sinh đôi của Ashley bằng cậu con trai nhỏ đầy năng lượng và ương bướng của cô.

“Làm sao tôi có thể nhận nuôi đứa con đó khi nó đã bắt đầu hình thành nhân cách? Nó đã chứng kiến quá nhiều điều xấu xa mà tôi không thể kiểm soát hay tẩy bỏ được. Tôi có quan hệ vô cùng tồi tệ với cha mình, thế nên nếu sau này có con trai, tôi phải đảm bảo rằng mối quan hệ là hoàn hảo ngay từ đầu. Tôi không muốn có một khoảnh khắc giận dữ hay rắc rối nào giữa chúng tôi. Theo những gì tôi biết, tôi có thể mất mười năm chỉ cho con trai của Ashley lối đi đúng, để rồi khi mười bốn tuổi nó sẽ quay sang chống đối tôi và nói, 'Thôi im đi bố, con sẽ hút cần sa.'”

“Eustace,” tôi nói, “chẳng ai có thể dám chắc với anh là những đứa con ruột của chính anh sẽ không nói những lời như thế một ngày nào đó. Thật ra, tôi hầu như có thể dám chắc với anh là chúng sẽ nói thế. Anh biết rõ vậy mà, đúng không?”

“Nhưng khả năng đó sẽ khó xảy ra với con ruột của tôi hơn, bởi vì tôi sẽ ở đó ngay từ đầu để dạy dỗ chúng hành vi nào được chấp nhận còn hành vi nào không thể chấp nhận. Khả năng đó chỉ có vẻ không sáng sủa với các con của Ashley. Giờ chúng đã vô kỷ luật lắm rồi. Ashley là một người mẹ tuyệt vời nhưng các con cô điều khiển cô và gây ra đủ kiểu phá phách và hủy hoại. Thực sự rất khó thở nếu lúc nào cũng có mấy đứa nhỏ đó bên cạnh, bởi vì chúng không được huấn luyện. Chúng luôn quấy nhiễu mọi thứ và đòi Ashley phải chú ý. Cô ấy đưa bọn chúng lên đây và tôi làm một số việc với chúng, ví như cho chúng cưỡi ngựa, nhưng không vui. Vui với chúng nhưng không vui với tôi.”

Eustace không thể dứt hẳn với Ashley, bởi vì cô xinh đẹp và tốt bụng, cô trao cho anh tình yêu vô điều kiện tuyệt vời mà anh hằng khao khát. Nhưng Eustace cũng không thể giữ cô bên mình, bởi vì cô mang quá nhiều thay đổi dữ dội vào vũ trụ nghiêm khắc và vô cùng trật tự của anh. Anh đã cố giúp cô tạo thêm trật tự và kỷ luật trong gia đình cô; anh cho cô mượn những cuốn sách trong thư viện của anh do người Amish viết về “huấn luyện” một đứa trẻ đúng cách, rất giống với cách người ta huấn luyện ngựa. Vốn thực tình cũng đã rối bời với mấy đứa con, Ashley nghiên cứu những cuốn sách đó cẩn thận và đầy biết ơn, và cô đã nhập tâm nhiều phần những chỉ bảo đó. Cô thậm chí còn trao những bài học kiểu nghệ thuật nuôi con này cho mấy cô bạn hippy nay cũng đã thành mẹ để giúp họ tạo ra sự ổn định trong gia đình rối như tơ vò của họ. Và đó là một sự giáo dục hết sức thành công. Sử dụng hệ thống quy tắc hết sức nghiêm khắc của cộng đồng người Amish ngày xưa, Ashley đã khép các con cô vào một chương trình vững chắc hơn, và những cơn thịnh nộ và nổi đóa cũng dần giảm bớt. Nhưng tất nhiên, bọn trẻ vẫn là một vấn đề nan giải. Bởi vì chúng có ba đứa và bởi vì chúng là trẻ con.

Thế nên Eustace không biết phải làm gì với Ashley. Cuối cùng, quyết định của anh hầu như rõ ràng sẽ là trận đấu cuối cùng giữa hai thứ mà anh khao khát nhất: tình yêu tuyệt đối và sự điều khiển tuyệt đối. Đó là một đòi hỏi vô cùng khó khăn. Xưa nay, tình yêu luôn là một đối thủ rất đáng sợ, nhưng một số người trên thế gian này cần nhiều hơn tình yêu. Trước đây Eustace đã từng sống không có tình yêu; đó là một cảm giác quen thuộc đối với anh. Nhưng ngược lại, anh chưa bao giờ sống một giây trong cuộc sống trưởng thành của mình mà không điều khiển.

Thế nên anh vẫn cô đơn một mình. Và ngập tràn câu hỏi về chuyện đâu là kiểu phụ nữ anh nên tìm kiếm. Sau tất cả chừng ấy năm, anh đã bắt đầu nghĩ rằng anh nên cẩn thận hơn về người anh chọn yêu. Có thể anh đã quá ngẫu hứng trong lựa chọn; có thể đó là lý do nó không bao giờ ổn thỏa. Đón nhận thử thách này như đón nhận bất kỳ nhiệm vụ tổ chức nào, gần đây Eustace đã ngồi lại để liệt kê ra một cách hiệu quả các yêu cầu đối với người phụ nữ hoàn hảo của anh. Nếu có thể định giá những ứng viên tương lai trong từng hạng mục thì có lẽ anh sẽ lựa chọn được một cách thông minh, và chắc chắn anh sẽ không phải tổn thương hay cô đơn lần nữa.

Rất mạnh khỏe, danh sách (trình bày không theo trật tự cụ thể) của anh bắt đầu. Rồi:

Có khả năng gần gũi thân mật.

Đẹp.

Tự tin với tình dục và say mê tình dục.

Có đức tin/đường hướng tâm linh.

Hăng hái nhiệt tình sống từng ngày trọn vẹn và với sự cảm kích thiêng liêng dành cho nó.

Cá tính có các mặt của một phụ nữ truyền thống, quán xuyến, dâng hiến, toan lo.

Thiên về phía lối sống và các giá trị 'phi vật chất'.

Ủng hộ tích cực, đầy năng lượng, tập trung, tự tin, giàu cảm xúc, và các kỹ năng xã hội.

Là người có nội lực tự lập, có khả năng ràng buộc sâu sắc vào sự hòa hợp thiêng liêng của hôn nhân.

Biết nhiều thứ tiếng.

Có tham gia hoặc biết thưởng thức nghệ thuật - nhảy múa, hát xướng, văn học, biểu diễn, v.v.

Tha thiết xem gia đình là số một.

Đánh giá cao kh