← Quay lại trang sách

Chương XIII MỌI ĐIỀU DƯỜNG NHƯ ĐÃ MUỘN

Bài báo "Sự thật ở khách sạn Hà Thành" như một quả bom hẹn giờ, nổ đúng vào thời điểm bất ngờ nhất; thời điểm mà người ta đang hối hả chuẩn bị cho Năm du lịch, vì thế sức chấn động của nó thật không ngờ. Không chỉ riêng ngành du lịch mà cả nước đều xôn xao lên. Những cú điện thoại từ Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, từ Ban Thanh tra, Bộ Nội vụ... tới tấp gọi về Tổng cục du lịch và Hãng Tourism.

Toàn bộ sự bê bối của khách sạn Hà Thành và cuộc đấu tranh để chống lại sự bê bối đó của Hoàng Dạ Nguyệt đã được bài báo trình bày một cách rành mạch và trung thực.

Tác giả bài báo là Lê An. Anh đã kỳ công bỏ ra một tháng trời đi thu thập các chứng cớ, tư liệu và gặp gỡ các nhân chứng. Những tư liệu gốc: hoá đơn, chứng từ và băng ghi âm trực tiếp những cuộc đối thoại, những cuộc họp kín... anh đều có đủ. Bằng kinh nghiệm đã từng phải trả giá, thậm chí nhiều phen còn bị quy chụp, doạ truy tố trước pháp luật, Lê An chỉ mới viết một phần sự thật mà anh có trong tay. Anh thừa khôn ngoan và ý chí để đề phòng các cuộc phản ngôn trở lại.

Khởi đầu của bài báo có lẽ bắt đầu từ cái buổi tối Lê An gặp Nguyệt đi trên đường Hoàng Diệu. Một người đàn bà một mình đi gõ cửa tìm chân lý, khiến anh không thể dửng dưng đứng ngoài cuộc. Hầu như tất cả những bài báo, có sức lay động lương tri con người mà Lê An viết gần đây đều xuất phát từ nỗi đau và sự bất bình của anh trước thực tại. Lần này cũng vậy, nỗi đau của Nguyệt, sự giả trá và biển lận... đã thực sự khiến anh đồng cảm, thôi thúc anh phải phanh phui sự thật. Người mà Lê An gặp đầu tiên trong cuộc tìm kiếm các nhân chứng là ông Phạm Lẫm. Khi người ta về hưu, tách ra khỏi bộ máy quyền lực, người ta dễ trở lại với tính bản thiện. Ông Phạm Lẫm đã khóc và thú nhận tất cả. "Tôi ân hận vì không ngờ cuối đời mình lại bất nhân và hèn hạ đến thế. Chính tôi là người đề nghị cô Nguyệt về khách sạn Hà Thành. Chính tôi từng than thở với cô Nguyệt về tình trạng lộng quyền của cô Kim Thanh và những việc làm sai trái của cô ta. Tôi ủng hộ quan điểm của cô Nguyệt trong việc khôi phục lại uy tín và lòng tin đối với khách, thay đổi hoàn toàn bộ mặt và lề lối kinh doanh của khách sạn. Nhưng tôi có ngờ đâu rằng mình đã chỉ làm một cái công việc đẩy một người lính xung kích lên khỏi chiến hào, còn mình thì lại ẩn nấp trong công sự. Sự nhu nhược trong trường hợp này là đồng nghĩa với tội ác và sự phản bội. Cô Nguyệt bị phản kích lại. Và tôi có phần a dua với công cuộc phản kích ấy. Họ bảo cô Nguyệt cố tình chống lại sự lãnh đạo của Đảng, bôi nhọ uy tín của ngành. Sau này tôi mới heieủ ra rằng đó là một mưu chước khá quen thuộc và thâm độc của bọn đội lốt Đảng để hãm hại những người dám dũng cảm vạch mặt chúng. Nhưng mà khi nhìn nhận ra điều đó thì đã quá muộn, vì chính mình cũng đã từng a dua với họ kia mà. Tôi xin nghỉ hưu chính vì không thể tiếp tục đồng lõa với bọn người thoái háo ấy được. Chỉ thương cho cô nguyệt. Một mình dám chống lại bọn tham nhũng. Đúng là như vậy đấy. Đảng ta đang bị một bọn cơ hội phá hoại ngầm mà không biết, ở đâu cũng óc những đường dây. Chúng len lỏi, nắm giữ quyền lực ở mọi lĩnh vực. Tôi đã bốn mươi tuổi đảng, tôi dám nhân danh một đảng viên mà công khai nói những điều ấy. Chú cứ viết lên báo. Bây giờ thì chẳng còn gì để sợ hãi nữa rồi. Muốn cho ngành du lịch ta tiến bộ, phải thẳng tay trừng trị hết những bọn cơ hội ấy. Nó làm ly tán Đảng với dân, nó tiêu diệt hết những cán bộ có tài năng và trung thực."

Những lời bộc bạch của ông Phạm Lẫm đã được Lê An đưa nguyên xi vào bài báo của mình, như một lời sám hối hết sức thành khẩn.

Trước ngày đưa bài báo đi in, Lê An tìm đến nhà Nguyễn Tuấn.

- Lẽ ra đây là công việc của cậu. Nhưng cậu đã cố tình chối bỏ trách nhiệm một người chồng, chối bỏ trách nhiệm một người cầm bút chân chính. - Vừa nói Lê An vừa quăng tập bản thảo đã đánh máy sẵn lên bàn. - Cậu đọc đi. Mình viết, trước tiên là muốn dành cho cậu đọc.

Bỏ mặc Tuấn với tập bản thảo, Lê An gieo mình trên ghế đi văng vừa vắt tay lên trán vừa thở khói thuốc như khói bễ lò. Anh thấy mình hoàn toàn thanh thản khi đã làm xong một công việc, giống như một người vay nợ đã hoàn toàn trả xong cả vốn lẫn lãi.

Tuấn đọc liền một mạch. Càng đọc anh càng toát mồ hôi. Đến cái dấu chấm cuói cùng của bài báo thì anh thở hắt ra một tiếng, rồi vùng đến ôm ghì lấy bạn:

- Những tư liệu này là thực hay mày bịa ra để an ủi tao? Có thực là mày đã gặp bà Bích San và bà ta đã thú nhận rằng chính cô Mỹ Lệ đã ăn cắp những bức ảnh của Pôn và dựng lên câu chuyện mối quan hệ trăng gió giữa Pôn với Nguyệt?

- Mày có muốn nghe băng ghi âm những cuộc nói chuyện đó không? - Lê An ngồi dậy nhìn Tuấn đầy thương hại. - Bất cứ một thằng đàn ông hạng bét nào cũng hiểu rằng cái trò vu khống một người đàn bà lăng nhăng chỉ bằng những bức ảnh và những lời đồn thổi thì thật ấu trĩ và ngây thơ hết sức. Chỉ có những thằng chồng mà cái máu ghen tuông và sự ích kỷ đến mức mù quáng như mày mới tin những trò vu khống đó. Tiếc rằng mày không tin Nguyệt mà lại tin cái bọn maphia đê tiện đó.

- Nhưng tao đã gặp Pôn Vericơn và hắn ta không hề cải chính điều đó.

- Tao tin Pôn yêu Nguyệt, và còn yêu gấp nhiều lần mày đã yêu nàng. Nhưng đó là một tình yêu đơn phương và thánh thiện. Cũng giống như tao đã yêu nàng mười năm nay rồi. Một tình yêu câm nín và hoàn toàn vô vọng, hoàn toàn không vụ lợi và vẩn đục, mày hiểu chưa. Cũng như vợ tao, có khối thằng mê mẩn. Chúng ta không có quyền bao quanh người đàn bà một hàng rào dây thép gai của cái lỗi sở hữu sặc chất phong kiến. Những người đàn bà đẹp, bao giờ cũng có hàng trăm mối tình vây bủa. Và nhiệm vụ của những thằng chồng chân chính không phải là đi rình rập và ngăn đê, càng không bao giờ nhốt vợ mình trong hầm tối để kẻ khác không được nhòm ngó tới, nhiệm vụ và cũng là trách nhiệm cao cả nhất của họ là làm sao cho mình đáng yêu hơn. Đó là sức mạnh và cũng là giải pháp duy nhất để không bị cắm sừng.

Tuấn chống hai tay ôm lấy đầu, để mặc bạn thao thao như một lý thuyết gia về ái tình. Tâm hồn anh như vừa cất được cái khối nặng khủng khiếp vẫn đè lên bấy lâu nay. Đúng là anh quá ghen tuông và ích kỷ. Anh quá nghĩ đến nỗi đau huyễn hoặc của mình mà bỏ rơi Nguyệt, để mặc chị với những khó khăn tưởng không thể vượt qua nổi.

- Bây giờ mày bảo tao phải làm gì? - Tuấn ngước đôi mắt đỏ hoe nhìn bạn.

- Thứ nhất, mày phải thôi ngay cái trò bồ bịch vớ vẩn với cô bé ở quán cà-phê Bình Dân. - Lê An nói với giọng đầy phẫn nộ. - Mày tưởng tao không biết gì về cô bé đó sao? Tao nhận thấy đằng sau cái trò nghĩa hiệp có vẻ cao cả của mày đã bắt đầu một thứ tình cảm vớ vẩn.

- Sao mày biết? - Tuấn giật mình, không dám nhìn vào đôi mắt Lê An, tựa hồ như đôi mắt ấy có sức ma quái của một gã phủ thuỷ thấu hiểu hết tim gan Tuấn.

Đúng là anh đã bắt đầu yêu cái cô gái mà lần đầu tiên gặp, anh thấy thương hại và khinh bỉ. Khinh bỉ và ghê tởm tới mức đã trả tiền rồi, lại được cô ta khơi gợi, mời mọc mà không sao làm tình được. Nhưng thật trớ trêu, chính vì cái hành động đầy cao thượng của Tuấn đêm ấy đã tạo ra một bước ngoặt trong cuộc đời Mai Anh, kéo cô ta ra khỏi vũng bùn nhơ nhớp. Ngày hôm sau cô đã đến tìm Tuấn ở cơ quan. Như một người em gái nhỏ, cô đã tin cậy kể hết cho Tuấn nghe sự thật cuộc đời mình. Bố Mai Anh mất sớm. Mẹ cô bị bệnh hen suyễn. Học hết lớp Mười Hai nhưng cô không xin được việc làm. Một gia đình với năm miệng ăn nhưng hầu như không có khoản thu nhập nào, ngoài mẹt hàng thuốc lá của mẹ. Đứa em nhỏ của Mai Anh phải nghỉ học đi bán kem ngoài bến xe, Mai Anh đi học thêm nghề đánh máy chữ, nhưng không sao có tiền mua một chiếc máy cho riêng mình. Rồi một lần, một gã buôn vàng và đôla rủ cô tới quán cà-phê Bình Dân. Sau một bữa tiệc rượu thừa mứa, gã đã rủ cô lên lầu và đã chiếm đoạt phần đời trinh nữ. Và rồi từ đó, mụ chủ quán cà-phê bắt đầu lôi kéo cô, biến cô thành một công cụ để kiếm tiền.

- Đó, tất cả bi kịch cuộc đời Mai Anh là vậy đó, - Tuấn lắc đầu cay đắng sau khi đã kể vắn tắt cho Lê An về cô bạn gái của mình. - Mày đã thấy tao đi tìm việc cho cô ấy. Ban đầu chỉ là sự thương hại, chỉ là lòng trắc ẩn. Và có lẽ còn có một lý do khác nữa mà khi ấy tao không nhận biết được. Ấy là nỗi đau về Nguyệt dường như được vơi đi rất nhiều khi tao đi cùng với cô ấy, làm những việc thánh thiện vì cô ấy.

Lê An cười khẩy:

- Mày có nghĩ đến câu này không: "Không ai lấy vợ về làm đĩ, nhưng có thể lấy đĩ về làm vợ"?

- Tao không nghĩ đến câu đó. Nhưng có lẽ có một điều gì tương tự như thế khiến tao bớt mặc cảm. Gần một tháng trời đi tìm việc với cô ấy, tao nhận ra ở cô ấy có một vẻ đẹp tâm hồn thật đáng yêu. Mày là một thằng quái đản, nên tao cũng chẳng cần giấu. Có một đêm chúng tao vào công viên. Lâu lắm rồi, tao không có một đêm công viên như thế. Dường như ở cái tuổi chúng mình, hầu như rất hiếm hoi được gặp lại mình thời trẻ. Vậy mà đêm ấy, tao lại như chàng trai hai mươi tuổi. Lại nắm tay nhau, lại gượng nhẹ và e ấp, háo hức và mê đắm. Cho đến bây giờ, tao vẫn không thể nào quên cái nụ hôn đêm ấy. Như một nụ hôn đầu đời. Cô ấy khóc, ôm ghì lấy tao và bảo: "Em chưa bao giờ yêu một người nào. Anh là người đầu tiên". Người đầu tiên, mày hiểu không. Một khái niệm hoàn toàn thuộc phạm trù mỹ học và triết học.

- Thôi, đủ rồi. - Lê An đứng dậy, châm một điếu thuốc. - Bây giờ thì phải dẹp cái trò "đầu tiên " ấy đi. Mày đóng vai một chàng Từ Hải vào lầu xanh cứu nàng Kiều thế là đủ rồi. Tao nhắc lại: phải loại bỏ cái thứ tình cảm vừa rồi trong đầu mày, nếu không thì mày sẽ trở thành thằng điếm thực thụ. Với cô Mai Anh, mày đã làm xong phận sự. Tao không trách mày việc đó, mà thậm trí tao còn kính trọng mày trong hành động nghĩa hiệp đó. Công việc mà mày cần phải làm ngay là cuộc sám hối với Nguyệt. Mày có còn yêu vợ không? Và mày có ý định phá vỡ hạnh phúc gia đình không?

Đôi mắt Lê An nhìn xoáy vào Tuấn, khiến anh bối rối.

- Tất nhiên là tao còn rất yêu Nguyệt và không hề có ý định phá vỡ gia đình... Nhưng, tình yêu ấy đâu còn như xưa nữa, nhất là về phía Nguyệt. Tao e hình như đã muộn...

- Tất cả là do mày gây nên, và mày phải gánh chịu. Và chính tao cũng phải gánh chịu, vì chưa làm tròn được trách nhiệm của một thằng bạn. Lẽ ra phải hàn gắn sớm hơn... Nhưng bây giờ là thời điểm không thể lùi được nữa rồi. Một nửa thế giới đang tự sám hối. Hãy vứt toẹt tất cả những gì là sĩ diện hão đi và nhìn thẳng vào sự thật. Sám hối để mà xây dựng lại. Chứ chờ cho mọi việc tan hoang cả rồi, thì hối tiếc chỉ là vô ích.

- Vậy mày bảo tao phải làm gì? - Tuấn buông thõng tay, hai mắt mở tròn nhìn bạn.

Lê An cầm lấy tập bản thảo trên bàn, dứ dứ trước mặt Tuấn:

- Đây là bản sám hối của chúng ta. Trước khi in báo, tao muốn chúng mình hãy mang đến cho Nguyệt. Hôm nay tao sẽ mở tiệc chiêu đãi tại Restaurant Mùa Thu. Mày sẽ đóng vai khổ chủ. Amen! Đức mẹ Maria lòng lành vô cùng.

Tuấn lặng lẽ ôm siết lấy Lê An. Anh khóc trên vai bạn.

*

Một tuần sau khi bài báo của Lê An được công bố, ông Tổng cục trưởng du lịch đánh xe tìm đến Restaurant Mùa Thu. Cùng đi với ông còn có ông chánh văn phòng và ông vụ trưởng vụ tổ chức cán bộ. Suốt một tuần nay bài báo của Lê An về khách sạn Hà Thành khiến ông Tổng cục trưởng hết sức buồn phiền. Trên bàn ông, từ ba tháng nay tập hồ sơ về khách sạn Hà Thành mỗi ngày thêm dày lên, mỗi ngày lại phủ thêm một lớp bụi, nhưng ông không có thời gian để mắt tới. Những cuộc họp hành triền miên cứ lôi cuốn ông đi. Vả lại, ông cứ nghĩ rằng đó chỉ là một việc nhỏ, chỉ cần giải quyết nội bộ.

- Anh có lỗi với em. - Lời đầu tiên mà ông Tổng cục trưởng nói với Nguyệt thật ngọt ngào và đầy cảm thông, biết lỗi. - Anh quan liêu quá. Anh không ngờ là sự việc lại phức tạp và rắc rối như vậy. Em biết không, ngay khi bài báo vừa ra, cả ban lãnh đạo Tổng cục đã họp lại, rà xét lại từng chi tiết và kiểm điểm trách nhiệm từng người. Ban Thanh tra Chính phủ cũng đã xuống làm việc. Kết luận bước đầu nhất trí với những vấn đề mà bài báo đã nêu ra. Trước hết, Tổng cục đã đình chỉ ngay công việc của cô Kim Thanh và anh Nguyễn Hữu Bài để xem xét giải quyết. Em phải trở lại khách sạn để làm việc. Đây là quyết định của Tổng cục huỷ bỏ việc điều động trái nguyên tắc em về lại hãng Tourism.

Cầm tờ quyết định trên tay mà lòng Nguyệt dửng dưng. Dửng dưng đến chính Nguyệt cũng thấy ngạc nhiên về bản thân mình. Trở lại hay không trở lại khách sạn đối với chị bây giờ cũng vậy thôi. Đâu còn hăm hở và háo hức, đâu còn tin yêu và nhiệt huyết như ngày nào.

Suốt cả một đêm Nguyệt nằm trăn trở, đôi mắt mở chong nhìn lên trần nhà. Không hiểu sao câu chuyện về những thuyền nhân Việt Nam vượt biển sang Hồng Kông mà Nguyệt vừa đọc trên báo cứ trở đi trở lại trong đầu chị. Họ vét túi lấy từng chỉ vàng cuối cùng hăm hở đến vùng đất hứa. Sóng biển và gió bão đánh cho họ tơi tả. Hải tặc và cá mập mấy phen xé xác họ. Khi đến bờ thì họ thân tàn ma dại. Và vùng đất hứa, hỡi ôi, chỉ là một trại tị nạn mà con người chỉ còn là những con vật hàng ngày ngửa tay xin từng thìa cháo bố thí.

Đâu rồi một cô Nguyệt của tuổi mười tám hăm hở và thơ ngây, phơi phới bước vào đời với bao nhiêu mộng ước?

Đâu rồi một cô Nguyệt thành kính và yêu tin ôm giữ một bó hoa từ vườn Bác như một báu vật, vượt hàng ngàn cây số đến xứ người để làm kiêu hãnh một Quốc hồn, Quốc thể?

Và đâu Nguyệt của mấy tháng qua, một mình đi gõ cửa những ngôi nhà kín cổng cao tường để kiếm tìm chân lý?

Nguyệt xoay người vục mặt trên gối và khóc nức nở.

Không có ai thấy được những giọt nước mắt ấy của Nguyệt. Ngày mai sẽ không bao giờ còn những giọt nước mắt ấy nữa. Ngay cả Tuấn, khi Nguyệt trở về, anh cũng sẽ không bao giờ nhìn thấy những giọt nước mắt của chị.

Nguyệt đành trở về với khách sạn Hà Thành. Nguyệt đành trở về với Tuấn. Không ai biết rằng đó chỉ là một cuộc trở về của thân xác, còn tình yêu thì đã chết rồi.

Hà Nội, 20 tháng 3, 1990

H.M.T