Chương XII BÀ HOÀNG CỦA RESTAURANT
Hai tháng trôi qua.
Những sự việc ở khách sạn Hà Thành dường như đã trôi vào quên lãng. Ông Phạm Lẫm chính thức có quyết định về hưu. Nguyễn Hữu Bài được bổ nhiệm thay ông Phạm Lẫm làm chủ nhiệm khách sạn. Bà Bích San vẫn là bí thư chi bộ. Còn Kim Thanh, vì cái sự kiện thanh tra ở khách sạn ngày nào, không thể cất nhắc lên được, nhưng chị vẫn tay hòm chìa khoá và là người điều hành chủ yếu ở khách sạn.
Quyết định điều Hoàng Dạ Nguyệt về hãng Tourism vẫn không thay đổi. Bùi Sùng là một giám đốc quả là cứng tay trong khâu tổ chức. Anh có cơ sở của văn bản nhà nước mới giao toàn quyền cho giám đốc trong việc bãi miễn, nhận người. Anh có văn bản cuộc thanh tra ngược của ban thanh tra công nhân. Trước mặt Tổng cục trưởng anh ngang nhiên tuyên bố: "Tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm trước nhà nước về quyết định của mình. Nếu Tổng cục muốn với xuống từng khách sạn thì cứ xin mời." Thế là Tổng cục trưởng cũng đành bất lực. Ông biết Bùi Sùng có những ô dù đủ mạnh để bảo vệ anh ta.
Nguyệt không còn cách nào khác là xin nghỉ việc không lương ba tháng để chờ đợi những kết quả mà chị đã khiếu nại lên những cấp trên. Ôkê. Bùi Sùng vỗ tay trong bụng. Nghỉ ba tháng chứ một năm hay vĩnh viễn anh cũng chấp thuận. Anh lấy mục đích loại trừ những ai không cùng ê-kíp làm đường hướng tổ chức. Nguyệt đi hẳn khỏi ngành du lịch là anh đã thành công lớn.
Có một người bà con khi biết Nguyệt nghỉ việc đã đến năn nỉ mời chị cùng hợp tác mở một restaurant tư nhân. Chị nhận lời. Vậy là Restaurant Mùa Thu ra đời.
Đó là một ngôi nhà cũ được cải tạo lại. Ngôi nhà trong phố bao nhiêu năm là nơi ở của một gia đình viên chức sống kham khổ bằng đồng lương eo hẹp, nay được sửa sang lại, trương một tấm biển quảng cáo khiêm nhường. Vậy mà chỉ một tuần sau khách các nơi đã kéo đến. Cho đến khi Nguyệt trở thành người phụ trách chính trong việc giao dịch, lên thực đơn, trang trí, bày phòng thì khách tới ngày một đông. Ai đó đã ngầm đặt cho Nguyệt cái tên "Bà Hoàng của restaurant Mùa Thu"
Kể cả hai vợ chồng và cô con gái người bạn chủ nhà, thêm Nguyệt và ba cô gái mới từ trường đại học thương nghiệp vào làm hợp đồng, Restaurant Mùa Thu vẻn vẹn có bảy người, nhưng công việc thì tất bật suốt từ năm giờ sáng đến chiều tối. Buổi sáng: bánh mỳ ba-tê, bánh mỳ ốp-lếp và bit-stết. Buổi trưa và chiều tiệc mặn, thậm chí cả cơm bình dân. Uy tín và restaurant Mùa Thu tạo được ngay từ những ngày đầu chính là nghệ thuật thu hút và lưu giữ khách hàng. Một không gian lịch sự, có văn hoá. Một thái độ niềm nở, chân tình. Giá cả vừa phải, thậm chí rẻ hơn rất nhiều so với những khách sạn và cửa hàng dịch vụ tư nhân khác. Riêng các món ăn đặc sản, có lẽ khắp cả Hà Nội không có một nơi nào có kỹ xảo nấu nướng tuyệt hảo như vậy.
Những ngày đầu, hầu như Nguyệt bao tất cả các khâu từ A đến Z. Chị vừa làm việc trực tiếp đón khách và chỉ đạo bày bàn. Chị làm việc với một tay nghề điêu luyện, một phong cách giao tiếp tinh tế và quyến rũ. Hãy chứng tỏ năng lực và nghề nghiệp của mình. Đó là quyết tâm cháy bỏng mà Nguyệt tự đặt ra cho mình. Mới hay con người có những khả năng mà nhiều khi chính họ cũng không lường hết được. Chỉ có sự đam mê cháy bỏng hoặc là nghị lực phi thường được khởi động bằng tình yêu hoặc lòng uất hận mới có thể huy động hết những tố chất tàng ẩn trong con người. người anh hùng đạt được kỳ tích có thể bằng tình yêu hoặc sự hận thù. Nhà khoa học trở thành thiên tài cũng bởi lòng đam mê và nghị lực phi thường. Mười năm trước. Nguyệt đoạt giải "Tuổi trẻ sáng tạo" các nước xã hội chủ nghĩa cũng chính vì tình yêu nghề và chất lý tưởng thắp sáng. Còn bây giờ là nỗi uất hận. Chị muốn chứng tỏ rằng một cơ chế không cần đến những tài năng, thì những tài năng ấy bằng cách khác sẽ tạo ra những cơ chế riêng cho mình, thậm chí họ còn có cơ hội bộc lộ mình hơn nữa.
Khách đến restaurant Mùa Thu mỗi ngày một đông, đặc biệt là những khách nước ngoài. Không khí dân chủ và cởi mở đã khiến cho những người bạn phương xa, từ Tây Âu, Bắc Mỹ và Đông Nam Á ồ ạt đổ vào thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà Nội. Họ đến để thăm dò thị trường, ký các hợp đồng đầu tư, buôn bán. Họ đi du lịch. Mỗi ngày trên đường phố Hà Nội có hàng trăm du khách. Họ nghỉ ở các khách sạn nhà nước, nhưng lại mua bán ở các tiệm hàng vỉa hè và ăn uống tại các cửa hàng tư nhân. Họ quá sảnh sỏi về giá cả và biết rất rõ rằng, chính người Việt Nam từ lâu cũng đã ngán ngẩm với các cửa hàng quốc doanh. Thời tem phiếu dân chúng hầu như bị bắt ép mua hàng mậu dịch để tiêu thụ những thứ hàng kém chất lượng và chịu đựng những bộ mặt vênh váo vô văn hoá. Bây giờ thì khác. Văn minh thương nghiệp đang khá dần lên. Thương nghiệp ngoài quốc doanh đang cố vươn lên lấn át vai trò của thương nghiệp nhà nước.
Một buổi chiều, có năm người khách nước ngoài đi một chiếc Cadilắc sang trọng đến Restaurant Mùa Thu. Người đầu tiên từ trong xe bước ra là Pôn Vericơn.
Lúc ấy Nguyệt đang đứng ngoài quầy hàng. Nhác trông thấy Pôn chị đã giật thót người. Suốt từ cái buổi chiều hôm ấy Nguyệt đã cố tình lẩn trốn. Không phải chị căm ghét Pôn mà là sợ hãi. Giống hệt như nỗi sợ hãi của ngày xưa, năm Nguyệt mười sáu tuổi, đang học năm thứ hai trường phổ thông trung học. Có một người bạn trai rất thân của Nguyệt học trên một lớp. Vậy mà Nguyệt buộc phải xa lánh anh ta, thậm chí tỏ ra căm ghét. Chỉ vì anh ta thuộc gia đình tư sản, và Nguyệt đang thời kỳ thử thách để kết nạp vào Đoàn. Bây giờ với Pôn, cũng gần như thế, Nguyệt sợ hãi và lẩn trốn. Những ngày qua, Pôn đã làm cho Nguyệt gặp khá nhiều chuyện phiền phức. Cái chiến dịch vu khống do nhóm ba người Kim Thanh - Mỹ Lệ - Bích San dựng lên, thực sự đã có hiệu quả. Cả khách sạn xì xào bàn tán. Hãng, công ty và Tổng cục đặt vấn đề. Côn an gặp trao đổi. Và hậu quả trực tiếp nhất là tình cảm vợ chồng Nguyệt bị sứt mẻ, có nguy cơ đổ vỡ. Đã ba lần Nguyệt trở về nhà, nhưng cả ba lần Tuấn đều dửng dưng đến ghẻ lạnh. "Tôi tưởng cô không thiết gì đến căn nhà này nữa". "Nghe nói cô nghỉ việc khách sạn và chờ giáy bảo lãnh để đi Pháp phải không?" Tuấn nói với Nguyệt như thế. Những câu nói còn hơn cả những mũi dao chích vào tim.
Lần gặp Tuấn gần đây nhất, giống như một cú sét chụp xuống đầu Nguyệt. Hôm ấy Nguyệt vừa đi tới đầu vườn hoa thì thấy Tuấn và một cô gái trẻ dắt xe từ một quán cà-phê trước mặt đi ra. Chiếc xe của Nguyệt loạng choạng suýt đâm phải một người đi đường. Chị đứng chết lặng. Như có một bàn tay vô hình bóp nghẹt lấy tim. Qua làn nước mắt vừa ứa ra, Nguyệt chỉ lờ mờ nhận ra cô gái ngồi sau xe vòng tay ôm ngang người Tuấn, và họ khuất sau dòng người.
Từ hôm ấy, Nguyệt không về qua nhà. Chị nhắn các con xuống nơi làm việc, kiểm tra và hỏi han tình hình học tập của chúng. Chị gửi tiền và thức ăn về nhà nhắc các con gắng chăm sóc sức khoẻ cho bố. Thế thôi. Một cuộc ly thân tưởng chỉ tạm thời, ngờ đâu, rất có thể sẽ là vĩnh viễn.
Bây giờ, Nguyệt sẽ nói gì với Pôn, con người đã gây cho chị bao nhiêu rắc rối, dù anh ta không ý thức rõ những việc mình làm? Nhưng anh ta kia rồi. Nguyệt không thể lẩn tránh được. Ở Restaurant Mùa Thu này, ngoài chị ra, không ai giao tiếp được với khách bằng tiếng Anh.
- Tôi đã đi tìm Nguyệt khắp Hà Nội - Đó là câu đầu tiên mà Pôn nói với Nguyệt. Đôi mắt nâu của anh ta không còn rực lên như những lần trước đây mỗi khi nhìn chị. Đôi mắt ấy giờ đượm buồn và đau đáu một niềm khắc khoải.
- Ông hãy quên đi. Tìm tôi liệu có ích gì?
- Có những cái biết là vô vọng, nhưng mà người ta vẫn tìm kiếm suốt cả cuộc đời. Vì điều đó mà người ta hạnh phúc và cũng chết dần đi vì chờ mong hạnh phúc. Cuộc đời là sự chết dần của những khát vọng... May mà tôi vẫn còn đang sống trong niềm khát vọng. Và cũng thật may là cái Restaurant Mùa Thu này nổi tiếng đến mức nhờ nó mà những người bạn của tôi đã mách bảo tôi tìm thấy Nguyệt. Hôm nay tôi đưa tới đây bốn người bạn mới từ Scăngđi sang. Nguyệt hãy dành cho họ một đặc ân là thưởng thức những món đặc sản Việt Nam tuyệt vời. Riêng tôi có một lời thỉnh cầu: trong khi những người bạn của tôi chờ đợi, tôi muốn được nói chuyện riêng với Nguyệt ít phút.
- Thưa ông... - Nguyệt lắc đầu, định nói một lời chối từ, nhưng Pôn đã ngăn lại:
- Điều tôi định nói không chỉ cần cho tôi mà rất cần cả cho Nguyệt. Có thể nói đó là một việc hệ trọng có liên quan đến cả hai chúng ta. Mong Nguyệt đừng nên từ chối.
*
Họ ngồi trong căn phòng nhỏ ở phía sân sau. Vẫn bằng một ánh mắt đượm buồn, đau đáu một niềm khắc khoải, Pôn như thu vào tận đáy võng mạc cái dáng ngồi và vẻ mặt đầy hoang mang của Nguyệt.
- Cách đây hai tuần, ông Nguyễn Tuấn có đến gặp tôi. Một người đàn ông rất lịch lãm và tự trọng, nhưng dường như cũng không giấu nổi sự ghen tuông đang hành hạ mình, - Pôn bắt đầu câu chuyện - Trước đó tôi đã mang máng hiểu ra những sự việc gây nên sự phiền toái cho Nguyệt từ sau chuyến tôi và Nguyệt đi biển Hạ Long. Bức ảnh của tôi đề tặng Nguyệt đã bị mất cắp tại phòng riêng của tôi ở khách sạn. Tôi đã biết đích xác người lấy.
- Ai? Nguyệt hỏi đột ngột.
- Không cần phải nói tên người đó. - Pôn mỉm cười, nhún vai. - Khi ông Nguyễn Tuấn đưa cho tôi lại bức ảnh thì tôi hoàn toàn hiểu ra mọi việc. Bức ảnh ấy đây. Tôi đã xin lại từ tay người chồng rất lịch thiệp của Nguyệt. Và tôi muốn mình sẽ giữ lại bức ảnh này như một kỷ vật. Câu chuyện của hai người đàn ông chúng tôi chỉ xoay quanh Nguyệt, và tôi hiểu là ông Tuấn rất yêu Nguyệt. Nhưng đó là thứ tình yêu đầy tính sở hữu Á Đông. Còn tôi, tôi cũng thú thật với ông ấy rằng tôi yêu Nguyệt.
- Trời ơi, sao ông làm như vậy? - Giọng Nguyệt run lên, khiến Pôn có cảm giác mình đang là một kẻ tội đồ.
- Nhưng đó là sự thật. Một tình yêu vô vọng. Bây giờ tôi mới dám thú nhận với Nguyệt điều đó. Tôi nghĩ rằng bản thân mối tình đó là rất trinh bạch. Đến tìm Nguyệt hôm nay, cũng chỉ là để tôi nói lên điều đó....
Chống hai tay lên trán, Nguyệt cố che đi hai giọt nước mắt đang chảy tràn bên khoé. Xúc động hay cay đắng, Nguyệt cũng không biết nữa. Chỉ biết rằng đã lâu lắm rồi Nguyệt mới nghe được một tiếng nói hoàn toàn phát ra từ đáy lòng. Một tiếng nói chân thành hoàn toàn không vướng một chút vụ lợi. Với Tuấn, cho tới bây giờ chị vẫn không hề nghi ngờ tình yêu ở anh, nhưng sao ngay cả những lúc ân ái vợ chồng, anh nói ra những lời yêu đương cũng vẫn có vẻ gượng gạo, dường như đó chỉ là những thủ pháp mang tính kỹ thuật hoặc là một phản xạ có tính cao trào của bản năng hối thúc, chứ không phải là ngôn ngữ đích thực của trái tim. Nói chi đến những lời ngợi khen, động viên của lãnh đạo hay đồng nghiệp. Đầy rẫy những mỹ từ sáo rỗng và mị dân chứ đâu phải là tình cảm thực. Những lời nói của Pôn thuộc một âm hưởng hoàn toàn khác. Nó gần với tôn giáo và bản thể người. Như thể tiếng nói của con chiên trước Chúa. Một tiếng nói không cầu mong mà chỉ bày tỏ.
Người Pôn gai lên khi nhìn thấy những búp tay xanh mềm khẽ run rẩy, và dường như cả đôi vai của nàng cũng đang run rẩy. Trong khoảnh khắc anh bỗng có một ước muốn điên cuồng là được lao tới ôm ghì lấy đôi vai mảnh dẻ kia, bế bổng nàng lên để thoả cơn mê đắm bị kìm nén lâu ngày. Chao ơi, ta yêu nàng đến cuồng dại. Nàng hoàn toàn là một thế giới khác những người đàn bà ta đã gặp gỡ và chung đụng. Nàng là một á thần. ý nghĩ thăng hoa ấy vụt sáng trong đầu Pôn. Anh khẽ thở dài và tuôn ra những điều mà rất lâu rồi chỉ là những ý tưởng:
- Tôi phải nói thêm những điều này. Em có thể dửng dưng như không nghe thấy gì, nếu em nghĩ đó là điều vớ vẩn. Tôi nhắc lại: Tôi yêu em! Yêu ngay từ sáu năm trước, khi lần đầu tôi biết đất nước tuyệt vời của em. Và tôi đã hoạch định một kế hoạch cho đời mình. Nếu em yêu tôi, tôi sẽ đưa em về quê mẹ của tôi, một vùng biển bên bờ vịnh Egiê có khí hậu và cảnh trí như quê em, hoặc một thành phố nào đó ở châu Âu mà em thích. Và nếu em không muốn đi khỏi quê hương, tôi cũng rất vui lòng. Tôi có ít tiền gửi ở nhà băng Thuỵ Sĩ đủ dể đầu tư cho một khách sạn lớn. Chính sách đầu tư mới của Việt Nam có thể giúp tôi và em làm được điều đó. Em sẽ trở thành một chủ khách sạn sang trọng nhất của Hà Nội hoặc Sài Gòn...
- Thôi ông đừng nói đến điều đó - Nguyệt đột ngột ngồi thẳng dậy, nhìn Pôn bằng một đôi mắt trống rỗng - Ông Pôn, tôi cảm ơn những điều tốt đẹp của ông. Nhưng giữa chúng ta vĩnh viễn vẫn chỉ có tình bạn, nếu ông muốn như vậy... Thôi, muộn rồi. Các bạn của ông đang chờ. Và tôi cũng phải làm phận sự của mình.
Nguyệt đứng dậy trước. Chị rất muốn chìa tay cho Pôn, nhưng cánh tay cứng nặng như bị bó bột.
*
Một tuần sau, khoảng tám giờ tối, Pôn Vericơn lại đột ngột đến Restaurant Mùa Thu. Lúc ấy khách đã vãn. Mọi người đang làm nốt những công việc cuối ngày.
- Ông đến hơi muộn. Nhà hàng chúng tôi ít khi tiếp khách vào giờ này. - Nguyệt mỉm cười lịch sự kéo ghế mời Pôn, nhưng cách nói của chị ngầm cho Pôn hiểu rằng chị rất mệt mỏi.
- Tôi cố tình đến vào giờ này, bởi lẽ đây là thời điểm thích hợp. Vả lại, tôi cũng vừa hoàn thành xong mọi công việc cách đây ba mươi phút.
- Ông uống cái gì nhé, một chút uytski hay cà-phê?
Pôn đưa mắt nhìn khắp căn phòng. Anh phát hiện ra một góc sân mờ ánh đèn, nơi có một chiếc bàn nhỏ dưới gốc cây.
- Giá như chúng ta có thể ngồi với nhau bên hành lang khách sạn Thắng Lợi để được ngắm nhìn trời nước và không khí mát dịu của Hồ Tây như ngày nào. Nhưng tôi biết là Nguyệt không muốn đi với tôi vào giờ này, nên tôi đành chủ động chọn một phương án. Chúng ta hãy ra chỗ bàn kia và uống với nhau một chút vang chẳng hạn. Tôi muốn được uống để chia tay Nguyệt. Có thể là một cuộc chia tay vĩnh viễn.
Chia tay vĩnh viễn ư? Câu nói cuối cùng của Pôn như gõ vào lòng Nguyệt một hồi chuông cầu nguyện. Kỳ lạ thế, một mẩu thông tin mà có năng lượng như một mồi lửa đốt vào ngòi pháo để kiểm chứng xem đó là một quả pháo câm hay một quả pháo sẽ nổ xé trời.
- Ông sẽ đi khỏi nơi này ư, ông Pôn? - Giọng Nguyệt rất khẽ và run khi hai người đã ngồi đối diện nhau quanh chiếc bàn nhỏ.
Pôn tự tay rót hai ly vang.
- Nào, Nguyệt hãy uống cùng tôi. Để kỷ niệm lần chia tay, và rất có thể là lần chia tay cuối cùng.
Pôn uống cạn ly rượu đầy. Đôi mắt u buồn của anh ánh lên hai ngấn nước. Anh không thể nói với Nguyệt vì sao anh ra đi. Nếu Nguyệt thông minh, nàng thừa hiểu rằng, cuộc ra đi này hoàn toàn do nàng gây ra. Vào đúng ngay anh đến đây lần trước, ngài đại sứ gặp anh, thông báo cho anh biết chính phủ Cộng hoà Scăngđi có ý định cử anh làm tuỳ viên văn hoá ở Vênêzuêla. Tất nhiên, nếu anh muốn ở lại Việt Nam, ngài đại sứ sẽ đệ trình về nước và ý nguyện ấy có thể vẫn được thực hiện. Nhưng Pôn đã đồng ý đi Vênêzuea. Đây là một cơ hội cho anh chôn vùi một mối tình vô vọng.
- Cuộc ra đi này không phải vì tôi muốn, cũng chẳng phải vì nhiệm vụ. - Pôn buồn bã nhìn thẳng vào đôi mắt Nguyệt, và anh sững sờ bắt gặp đôi mắt nàng cũng long lanh hai ngấn nước. - Nhưng thôi, cuộc ra đi nào cũng có những nguyên cớ của nó. Tôi tin rằng trái tim Nguyệt không phải là gỗ đá, nên Nguyệt sẽ thấu hiểu điều đó. Bây giờ tôi có một ý nguyện, - Pôn ngừng lại và lấy từ trong túi áo ra một chuỗi hạt nhỏ lóng lánh những màu sắc. - Trước khi chia tay, tôi muốn được tặng Nguyệt một món quà nhỏ kỷ niệm.
- Không. Đừng. Pôn, đừng làm như thế. - Nguyệt hốt hoảng đưa tay ra, ngăn Pôn lại. Dường như đã thành một phản xạ cố hữu mà bao nhiêu năm nghề nghiệp đã rèn cho chị, chị kiên quyết khước từ mọi thứ quà tặng, dù nó thuộc dạng nào.
Pôn nắm bàn tay Nguyệt, cảm thấy rất rõ những mạch máu nhỏ trong tay nàng đang run rẩy.
- Đây là kỷ vật của mẹ tôi. Một kỷ vật thiêng liêng nhất mà tôi luôn giữ theo mình từ ngày mẹ tôi qua đời...
Mắt Pôn nhoà đi. Choán trong tâm trí anh là gương mặt người mẹ thật dịu dàng và thánh thiện, là vùng biển Egiê đầy nắng gió với những vườn ôliu và cánh đồng nho dài tít tắp. Ở đó anh có một tuổi thơ ngắn ngủi nhưng đầy những ấn tượng không thể phai nhoà. Năm anh chín tuổi thì mẹ qua đời. Bố anh đưa anh trở về tổ quốc Scăngđi, một hòn đảo nhỏ ở Nam Thái Bình Dương. Vĩnh biệt mẹ. Vĩnh biệt quê ngoại thân yêu. Anh mang theo mình cái kỷ vật thiêng liêng nhất trong đời để nó mãi nhắc nhở anh nhớ về mẹ và thời thơ ấu êm đềm.
- Với tôi, đây là một kỷ vật vô giá. - Giọng Pôn trầm và xúc động. - Nhưng đối với Nguyệt, có thể nó chẳng có một chút giá trị nào...
- Pôn... Xin lỗi... Tôi muốn nói...
- Có vậy thôi. Tôi mong Nguyệt hãy giữ lấy... Ôi, một đất nước thật tuyệt vời, nhưng sao tôi vẫn chỉ là một du khách xa lạ.
Nguyệt xoè bàn tay đón lấy chuỗi vòng và ấp lên ngực.
- Cám ơn Pôn. - Nguyệt nói trong nghẹn ngào nước mắt.
Pôn đứng dậy. Anh nhìn sâu vào đôi mắt Nguyệt và dường như đọc được tất cả những ý nghĩ đang diễn ra trong lòng chị. Hình như anh đã đạt được cái điều mà bao lâu anh ấp ủ. Tình yêu của anh đâu phải là ảo vọng. Như một người đi trên hoang mạc, anh đã nhìn thấy ốc đảo xanh rờn, anh đã đến cái mạch nước trong ngần đang chảy ra từ lòng đất.
- Xin vĩnh biệt. Pôn cầm bàn tay Nguyệt đang đưa ra cho anh và đặt lên đó một cái hôn. Thế thôi, chỉ một giọt nước là anh đủ sức vượt qua hoang mạc mênh mông.
Pôn hối hả đi ra ngoài xe như một người trốn chạy.
*
Chiếc TU.130 của hãng Aeroflot bay tuyến Hà Nội Matxcơva sẽ khởi hành vào lúc tám giờ sáng.
Đúng sáu giờ, từ khách sạn Hà Thành, chiếc Toyota của hãng Tourism bắt đầu chuyển bánh về hướng Nội Bài. Mỹ Lệ ngồi hàng ghế trên, cạnh anh lái xe. Hàng ghế dưới, giám dốc Bùi Sùng ngồi giữa. Bên phải và bên trái anh là Kim Thanh và cô con gái yêu Mộng Lương của chị. Sau bao nhiêu ngày dàn dựng khôn khéo, lúc ngấm ngầm rỉ rả, khi ráo riết và thớ lợ, giờ đây mọi ý đồ của Kim Thanh đều đã thực hiện được. Hôm nay Mỹ Lệ và Mộng Lượng sẽ bay sang Matxcơva, bắt đầu chuyến du học và trao đổi kinh nghiệm du lịch với nước bạn. Họ sẽ là những hạt giống quí của ngành du lịch trong tương lai, sẽ thay thế lớp cha anh đưa ngành du lịch nước nhà tiến ngang tầm thời đại.
Hai mẹ con như cùng ngấm ngầm phô diễn hết vẻ đẹp của mình. Họ cùng kẻ lông mày, tô mắt, bôi son và thoa kem phấn đến từng chân tóc, xuống sâu mãi cổ và ngực. Có khác chăng chỉ là gam màu cho hợp lứa tuổi. Mắt mẹ màu nhũ nâu cho dịu bớt, còn mắt con lại chói rực màu nhũ hồng pha kim tuyến. Môi mẹ màu cánh sen, còn môi con đỏ chói màu son hồng.
- Hai mẹ con mà cứ như hai chị em. - Bùi Sùng khen và bất giác anh nhếch cười một cách đầy ẩn ý.
- Chứ còn gì nữa, - Kim Thanh bỗng cười khanh khách. - Người lạ họ gặp mẹ con em, không khéo mà muốn bắt bồ với cả hai...
Bùi Sùng lại nhếch miệng cười. Anh định nói: "Chính tôi cũng đến chết vì mẹ con cô đây." Nhưng rồi anh kìm lại được. Anh ngồi lim dim mắt và tưởng tượng lại... nhấm nháp lại những cảm giác rất khác lạ mà anh đã được hưởng. Ôi, mình thật là có số đào hoa. Hái cả hoa cả nụ. Hoa thì thơm mà nụ thì ngát. Trớ trêu quá. Đánh cả cụm cứ ngon ơ... Mà những ngày vừa qua quả là mình đã làm được những việc tày trời. Cái vụ cô Hoàng Dạ Nguyệt, chính mình đã xoay một trăm tám mươi độ, chuyển bại thành thắng. Bây giờ cô ta mở quán cơm, coi như thối chí bỏ nghề. Khách sạn Hà Thành coi như đã êm về mặt tổ chức. Cài Nguyễn Hữu Bài xuống đó, vị chi mình đã nắm chắc trong tay tám chủ nhiệm vào loại lớn nhất của Công ty...
Những ý nghĩ thăng hoa trong đầu Bùi Sùng. Cao hứng, anh đặt tay phải lên đùi Kim Thanh, miết một đường từ dưới lên, còn tay trái anh lùi về phía sau, ôm lấy eo lưng của cô con gái.
Cái đồ dê cụ. - Mộng Lương hơi nhăn mặt khi bàn tay chuối hột của Bùi Sùng áp vào da thịt mình. Cô cảm thấy nhồn nhột, ghê ghê, nhưng không biết làm cách nào có thể đẩy cái bàn tay nhớp nhúa ấy ra được. Thôi, mặc lão. Đôi mắt Mộng Lương nheo lại, vẻ bất cần. Cứ để cho lão ta lợi dụng nốt. Chẳng là cái gì mà đáng phải bận tâm. Chỉ một giờ nữa là mình đã "good bye" lão và vi vu ở trên trời. Chấm dứt một màn kịch.
Vừa dừng xe trước cổng sân bay, Kim Thanh nói với Mỹ Lệ.
- Hình như lão ta về hẳn. - Mỹ Lệ ngập ngừng, như đưa ra một phỏng đoán. Nhưng thực ra chính cô đã biết tỏng chuyến đi này của Pôn từ ba hôm nay rồi. Đêm ấy, chính cô đã chủ động lấy được năm mươi đô la của Pôn để góp thêm vốn cho chuyến du học, và biết chắc chắn rằng Pôn sẽ cùng bay trên chuyến bay này với cô cho tới Carasi.
Pôn không nhìn thấy những người bạn ở khách sạn Hà Thành đang bàn tán về mình. Anh có vẻ như một người khách cô đơn nhất trong chuyến bay này. Hành lý của anh nhẹ tênh. Không có đồ cổ. Không có hàng mỹ nghệ. Thậm chí một chiếc làn cói, một vành nón trắng tượng trưng cho xứ sở nhiệt đới mà anh đã gắn bó bao năm trời cũng không có nữa. Anh đến đất nước này với lòng hăm hở và sự ngưỡng vọng, và ra đi với nỗi cô đơn, với nỗi buồn da diết như phải từ biệt chính quê hương mình.
Hành khách đã ra sân bay cả rồi, mà anh vẫn chần chừ như ngóng đợi ai đó. Anh nhìn về hút con đường vào sân bay, về tít những hàng tre phía xa. Mong đến thắt lòng một dáng người. Nhưng vô vọng. Cho tới lúc bước vào khoang máy bay, Pôn mới nhận ra Mỹ Lệ. Cô đưa tay lên chào và mỉm cười. Pôn gật đầu chào lại và đi về ghế ngồi của mình. Chính Pôn cũng không hiểu sao, với Mỹ Lệ anh lại dửng dưng đến thế. Cứ như là hai người quen sơ nhau từ rất lâu rồi.