- II - 1 - THIÊN ĐÀNG ĐẸP ĐẼ THẬT,-NHƯNG TÔI VẪN THÍCH Ở ĐÂY HƠN
MỘT TRONG NHIỀU ĐIỂM ở mẹ mà tôi và em trai Corrigan yêu thích là bà có tài chơi nhạc. Bà đặt một chiếc đài nhỏ trên cây đàn piano hiệu Steinway trong phòng khách nhà chúng tôi ở Dublin. Vào các buổi chiều Chủ Nhật, sau khi đã nghe qua một đài bất kỳ nào mà chúng tôi dò được, như Radio Eireann hay BBC chẳng hạn, mẹ sẽ nâng chiếc nắp đàn đen bóng lên, trải váy ngồi trên băng ghế gỗ, và cố chơi lại theo trí nhớ những đoạn điệp khúc jazz hay những bản tình ca Ireland, và nếu chúng tôi dò đúng đài thì còn có những giai điệu cũ của Hoagy Carmichael. Mẹ tôi chơi đàn với lối chạy phím nhẹ nhàng tự nhiên, mặc dù một bàn tay bà thường bị đau do đã gãy nhiều lần. Anh em tôi chẳng bao giờ biết tại sao mẹ bị gãy tay bởi bà chẳng bao giờ nói. Khi chơi xong, mẹ hay xoa nhẹ cổ tay. Tôi thường có cảm giác những nốt nhạc như vẫn còn rung láy xuyên qua những đốt xương, như thể chúng có thể nhảy từ đốt này qua đốt khác, cả chỗ xương gãy ngày xưa. Sau này, trải bao năm tháng, tôi vẫn có thể đắm mình vào những buổi chiều ngày đó và nhớ lại ánh nắng sóng sánh đổ tràn trên thảm. Thỉnh thoảng mẹ vòng tay qua hai anh em, cầm tay chỉ chúng tôi ấn những phím đàn.
Có lẽ giờ chẳng còn ai nhớ về mẹ mình theo kiểu anh em tôi hồi đó, thời giữa thập niên năm mươi, khi mà âm thanh ngoài cửa sổ chủ yếu là tiếng gió và hòa âm của biển. Cho dù còn đó những mất mát, có lúc này lúc khác, còn nỗi buồn chia cắt chúng tôi và mẹ, nhưng sự thật là chúng tôi đã rất đầm ấm bên nhau, cả ba mẹ con đều thấy sung sướng, và điều đó chưa bao giờ hiển hiện rõ nét như những ngày Chủ Nhật xa xôi khi mưa rơi xám xịt phủ khắp vịnh Dublin và những cơn gió giật thổi đập vào những ô cửa sổ.
Ngôi nhà của chúng tôi ở Sandymount nhìn ra ngoài vịnh. Lối đi ngắn dẫn vào nhà mọc đầy những cây dại, một bãi cỏ vuông vức, một hàng rào sắt sơn đen. Chỉ cần băng qua đường là chúng tôi có thể đứng trên đập ngăn nước biển uốn cong quanh vịnh và nhìn được thật xa. Một khóm những cây cọ mọc phía cuối con đường. Chúng đứng đó, nhỏ bé và còi cọc hơn những cây cọ ở bất kỳ đâu khác nhưng vẫn đẹp lạ kỳ, như thể mời mọc người ta tới ngắm mưa trên vịnh Dublin. Corrigan ngồi trên thành đập, đập hai gót chân vào nhau và nhìn xa xăm ra con nước phía ngoài bãi cát phẳng lì. Đáng ra tôi nên biết trước rằng dù biển đã hằn sâu trong tâm trí nó, sẽ có một ngày nó rời bỏ nơi này. Sóng trườn vào và vỡ tan dưới chân em tôi. Tối tối nó hay đi trên con đường chạy ngang tháp Martello tới khu nhà tắm công cộng đã đóng cửa, ở đó nó thích trèo lên đứng thăng bằng trên thành đập chắn sóng, hai tay dang rộng.
Các buổi sáng cuối tuần ba mẹ con thường cùng đi dạo, mắt cá chân ngập trong những con sóng nhỏ, ngoảnh lại ngắm nhìn dãy nhà, đường bờ biển và những khăn quàng khói quấn quýt bay lên từ những ống lò. Hai trạm điện khổng lồ màu đỏ và trắng chọc gãy đường chân trời phía đông, nhưng ở những hướng còn lại chân trời vẫn là một đường cong nhẹ nguyên lành, được tô điểm bởi những con mòng biển trong không trung, những chiếc tàu thủy chở thư ngoài Dun Laoghaire và những đám mây lướt nhanh cuối trời. Khi triều xuống, bãi cát phô ra lởm chởm, đôi khi có thể đi bộ ra xa đến vài trăm mét giữa những vũng nước mặn rải rác, đồ cũ vứt đi, vỏ sò và những thanh khung giường.
Thủy triều vịnh Dublin vốn dâng lên chậm chạp, cũng như thành phố mà nó uốn mình lượn quanh, nhưng nó có thể thay đổi khó lường. Thỉnh thoảng vào những ngày mưa bão, sóng nước vẫn lao ầm ầm vào đập chắn. Biển một khi đã tràn qua sẽ mãi lưu lại dấu vết. Muối phủ một lớp vỏ cứng trên cửa sổ ngôi nhà chúng tôi ở. Vòng sắt trên cửa ra vào rỉ đỏ quạch.
Những ngày tiết trời ảm đạm, chúng tôi ngồi trên bậc thang, Corrigan và tôi. Bố chúng tôi, một nhà vật lý, đã bỏ mấy mẹ con vài năm trước. Tuần một lần, một tờ séc đóng dấu bưu điện ở London đến qua khe bỏ thư. Không kèm một dòng một chữ nào, chỉ mỗi tờ séc từ ngân hàng ở Oxford. Nó xoay xoay trong không khí khi rơi xuống qua khe. Chúng tôi chạy nhặt mang đến cho mẹ. Bà để phong bì dưới chậu cảnh trên bậu cửa sổ nhà bếp và vào ngày tiếp theo nó biến mất. Không một lời giải thích nào thêm. Dấu vết duy nhất còn lại nhắc nhớ đến bố là một tủ gỗ đựng đầy những bộ com-lê cũ của ông đặt trong phòng ngủ của mẹ. Corrigan mở cửa. Trong bóng tối chúng tôi ngồi tựa lưng vào những ván cửa gỗ xù xì, ướm chân vào những đôi giày của bố, để tay áo của ông chạm vào tai mình, cảm nhận hơi lạnh từ những chiếc cúc ở cổ tay áo. Một buổi chiều mẹ bắt gặp anh em tôi đang khoác trên người những bộ com-lê màu xám của bố, tay áo xắn lên còn quần thì túm bằng dây thun. Chúng tôi đang duyệt binh quanh phòng trong những đôi giày leo núi quá cỡ của ông thì mẹ đến và đứng chết lặng ở cửa, căn phòng trở nên yên tĩnh đến nỗi hai anh em có thể nghe cả thấy tiếng tích tích của chiếc lò sưởi điện.
Thế đấy, mẹ bật ra, bà quỳ xuống sàn trước mặt chúng tôi. Khuôn mặt bà giãn ra trong một nụ cười rộng nhưng dường như khiến bà đau đớn. Lại đây. Bà hôn lên má rồi vỗ vào mông hai đứa. Giờ thì các con ra ngoài chơi đi. Chúng tôi chui ra khỏi những bộ quần áo cũ của bố, để chúng vương vãi trên sàn nhà.
Đêm hôm đó chúng tôi nghe thấy tiếng mắc treo áo lách cách khi mẹ hết treo lại tháo những bộ com-lê ấy.
Suốt những năm tháng đó, thường vẫn xảy ra những trận gây lộn của anh em tôi, có khi đấm nhau đến chảy máu mũi, gãy cả đầu con ngựa gỗ bập bênh, mẹ thì phải đối phó với những lời xì xào của hàng xóm, thậm chí là sự tọc mạch, nhưng dẫu sao cuộc sống vẫn trải ra rất dễ chịu trước mắt ba mẹ con: yên bình, thoáng đãng, như làn cát xám cuốn qua.
Corrigan ngủ chung với tôi trong căn phòng nhìn ra biển. Tôi cũng không nhớ rõ làm sao thằng em nhỏ hơn tôi tận hai tuổi lại chiếm được giường tầng trên. Nó nằm sấp nhìn ra ngoài bóng tối qua cửa sổ, nhẩm đọc những lời cầu nguyện có vần có điệu thật nhanh và dứt khoát, nó bảo đó là những vần thơ ru ngủ. Đó là những câu thần chú của riêng nó, có khi chen mấy tiếng cười khùng khục và mấy hơi thở thật dài, tôi chịu không hiểu nổi. Càng gần đến giấc ngủ, những lời cầu nguyện càng giàu nhịp điệu, một thứ nhạc jazz, mặc dù đôi khi tôi nghe nó chen vài tiếng chửi bậy, hẳn tới đoạn đó câu kinh đã bị tước cái vỏ thiêng liêng. Tôi có thuộc mấy bài kinh quen thuộc nhất của đạo Thiên Chúa, như bài Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, nhưng cũng chỉ đến thế là hết. Hồi còn nhỏ tôi vốn ngây thơ ít nói, và đối với tôi Chúa chẳng có gì thú vị. Tôi đá chân lên phía đuôi giường Corrigan, nó im được một lát rồi lại mở máy. Thỉnh thoảng khi thức dậy vào buổi sáng, tôi thấy nó xuống nằm kề bên, cánh tay ôm quàng qua vai, ngực phập phồng khi mồm vẫn nhẩm đọc những lời cầu nguyện.
Tôi quay sang: - Ê, Jesus, Corr[2], thôi đi.
Em tôi có làn da trắng sáng, tóc sẫm, mắt xanh. Kiểu bé con đáng yêu. Cứ hễ thấy nó chớp chớp mắt nhìn là lòng dạ ai cũng nhũn cả ra.
Mọi người đều yêu nó. Trên đường, các bà các cô đi ngang vò tóc nó rối xù cả lên. Cánh đàn ông đang bận tay cũng ngừng lại đấm đùa lên vai nó âu yếm. Nó chẳng hề biết sự hiện diện của nó đã cứu vớt họ, khiến họ trở nên vui vẻ, khơi gợi trong họ những khát khao xa vời - nó cứ thế bình thản đi qua cuộc đời.
Năm lên mười một tuổi, một đêm tôi chợt thức dậy bởi luồng khí lạnh phủ lên người. Tôi nhào tới bên cửa sổ nhưng cửa vẫn đóng. Tôi mò mẫm bật đèn, căn phòng vụt ngập ánh đèn vàng. Một thân hình cúi gập giữa phòng.
— Corr?
Cái lạnh vẫn cuốn quanh cơ thể nó. Hai má nó đỏ au. Một lớp sương ẩm còn đậu trên tóc nó. Người nó đầy mùi thuốc lá. Nó đặt một ngón tay lên môi ra hiệu giữ im lặng và leo lên giường tầng.
— Đi ngủ thôi, - nó thì thầm từ phía trên. Mùi thuốc vẫn vương vất trong không khí.
Tới sáng, nó nhảy từ trên giường xuống, khoác chiếc áo có mũ trùm đầu bên ngoài bộ đồ ngủ. Run rẩy, nó mở cửa sổ và giũ cát đọng trong giày qua bậu cửa xuống khu vườn bên dưới.
— Tối qua mày đi đâu đó?
— Dạo bờ biển chút mà.
— Mày hút thuốc đúng không?
Nó ngoảnh đi, xoa xoa hai cánh tay cho ấm.
— Không.
— Mày không được phép hút đâu, biết chưa.
— Em đâu có hút.
Sáng hôm đó mẹ đưa hai anh em tới trường, những chiếc cặp da nảy lật bật trên vai. Gió thổi lạnh căm dọc những con phố dài. Đến cổng trường mẹ quỳ một chân xuống, quàng tay qua hai đứa, giúp sửa lại cà vạt, rồi hôn cả hai, lần lượt. Khi đứng dậy định ra về, bà chợt nhìn chằm chằm sang bên kia đường, chỗ cạnh hàng rào nhà thờ: một bóng người tối sẫm quấn chiếc chăn lớn màu đỏ. Người đàn ông giơ tay chào. Corrigan vẫy tay chào lại.
Ở Ringsend có rất nhiều người già nát rượu, nhưng mẹ tôi dường như đặc biệt chú ý đến người này, tôi chợt nghĩ hay là có điều gì đó mình chưa biết.
— Ai vậy mẹ? - Tôi hỏi.
— Vào học đi, - mẹ ngắn gọn. - Để về nhà rồi nói sau.
Em trai tôi đi cạnh tôi, chỉ im lặng.
— Ai vậy, Corrie? - Tôi huých nó. - Ai vậy?
Nó bỏ đi tuốt vào lớp học.
Cả ngày hôm đó tôi ngồi trước chiếc bàn gỗ, gặm bút chì, tự hỏi liệu ông đó là vị chú bác nào ít tới lui với gia đình, hay chính là bố đã trở về và xuống dốc tới cỡ này. Vào những ngày đó thì chẳng có gì là không thể. Đồng hồ treo sau lưng bọn tôi nhưng ngay trên bồn rửa tay ở góc phải lớp có gắn cái gương đã ố cũ, nên nhìn vào gương tôi thấy được hình chiếu ngược của mấy cây kim đồng hồ. Khi chuông đã điểm, tôi ra cổng, còn Corrigan đi đường vòng về nhà, nó bước những bước ngắn xuyên qua khu nhà ở và những hàng cọ, dọc theo đập ngăn nước biển.
Trên giường Corrigan đặt sẵn một gói bọc giấy nâu mềm. Tôi đẩy về phía nó. Nó nhún vai, lướt tay theo viền gói hàng rồi ngập ngừng mở ra. Bên trong là một cái chăn khác màu xanh dương, hiệu Foxford. Nó giở chăn ra, rũ dài hết cỡ, rồi nhìn lên mẹ khẽ gật đầu.
Bà áp mấy ngón tay lên mặt nó, dặn dò: Không được làm thế nữa, con hiểu không?
Không ai nói gì nữa, cho đến hai năm sau, cũng vào một đêm buốt giá, em tôi lại tặng cái chăn đó cho một kẻ nát rượu không nhà cửa nó bắt gặp trong những chuyến du hành đêm khuya, khi nó rón rén lần xuống thang và lẫn vào đêm tối. Đối với nó, đây là sự đánh đổi công bằng: đơn giản là có người khác cần chăn hơn nó, thế nên nó cho đi và sẵn lòng chịu phạt nếu phải thế. Đó là dấu hiệu sớm nhất cho thấy con người của nó sau này cũng như những gì tôi sẽ chứng kiến giữa đám người dưới đáy ở New York: đám gái điếm, bọn buôn gian bán lận, những kẻ cùng cực vô hy vọng - tất cả bọn họ bám lấy nó như thể nó là hiện thân sáng chói của ơn trên giữa cái hố phân hiện thực này.
○ ○ ○
CORRIGAN BẮT ĐẦU say xỉn từ rất sớm, năm mười hai, mười ba tuổi gì đó, tuần một lần, vào các chiều thứ Sáu sau khi tan học. Nó chạy qua cổng rào mé Blackrock về phía trạm xe buýt, cà vạt tháo tuột, áo khoác đồng phục vo tròn, trong khi đó tôi ở lại chơi bóng bầu dục trong trường.
Tôi thấy nó nhảy lên tuyến buýt số 45 hay 7A, len lách về dãy ghế cuối khi chiếc xe rời bến.
Corrigan thích những nơi kiệt cùng ánh sáng. Khu cảng. Những quán trọ rẻ tiền. Những góc phố nơi đá lót đường vỡ nham nhở. Nó thường ngồi với đám say rượu ở phố Frenchman’s Lane hay Spencer Row. Nó mang theo chai rượu và chuyền cho cả bọn. Nếu cái chai quay vòng trở lại nó cũng ngửa cổ uống rồi lấy mu bàn tay quệt miệng như dân nhậu thứ thiệt. Nhưng ai cũng nhìn ra nó không phải thứ thiệt, vì rượu đến mới uống, không nó cũng chẳng chủ động đòi cái chai. Có lẽ nó nghĩ nó đang hòa nhập dần với đám ấy. Cũng có mấy tay nghiện rượu ác ý cười nhạo nó nhưng nó chẳng hề bận tâm. Họ đang lợi dụng nó, tất nhiên rồi. Họ coi nó là thằng nhãi vắt mũi chưa sạch đang muốn thử cuộc sống kẻ nghèo, nhưng nó lại có ít tiền trong túi và luôn sẵn sàng cho đi, thế là họ thi nhau dỗ nó đi mua rượu chai hay thuốc lá lẻ chỗ góc đường.
Có những hôm nó về nhà mà chân không đi tất. Có khi không cả áo sơ-mi, thế là nó phải chạy vội lên lầu trước khi bị mẹ bắt gặp. Nó đánh răng, rửa mặt xong mới xuống, quần áo đã chỉnh tề, nhìn vẫn hơi lơ mơ nhưng không đến nỗi say nhè đến nỗi mẹ phát hiện.
— Con đã đi đâu vậy?
— Làm việc của Chúa.
— Thế việc của Chúa không gồm chăm sóc mẹ mình à con? - Mẹ chỉnh lại cổ áo cho em tôi khi nó ngồi xuống ăn tối.
Sau một thời gian qua lại với những người thất cơ lỡ vận, nó bắt đầu hòa nhập được, trượt xuống dưới đáy, tan vào giữa đám ấy. Nó đi cùng họ tới quán trọ trên đường Rutland và ngồi phệt xuống dựa tường. Corrigan lắng nghe mẩu chuyện đời của họ: những chuyện lê thê dông dài dường như đều bắt nguồn từ một Ireland hoàn toàn khác. Chừng như nó coi đây là thời kỳ tập sự: nó tìm đến cảnh nghèo như thực sự muốn trở thành như vậy. Nó uống rượu. Nó hút thuốc. Nó không bao giờ nhắc tới bố, dù là với tôi hay bất kỳ ai. Nhưng tôi biết ông vẫn luôn hiện diện, người bố đã rời bỏ chúng tôi đó. Corrigan có lẽ muốn dìm chết ông ta trong rượu hay nhổ phụt ông đi như bã thuốc lá trong mồm nó.
Vào sinh nhật mười bốn tuổi của Corrigan, mẹ bảo tôi đi đón nó, bánh nướng đã xong xuôi rồi mà cả ngày nó đi đâu mất mặt. Làn mưa bụi phủ xuống buổi đêm ở Dublin. Một chiếc xe ngựa chạy vượt qua mang theo quầng sáng từ máy phát điện động năng. Tôi nhìn theo chiếc xe lộp cộp tiến vào phố, quét dài cái đuôi ánh sáng. Tôi ghét thành phố vào những lúc như thế này, chừng như nó chẳng mong hòng gì thoát khỏi lớp màn xám xịt. Tôi đi ngang những nhà nghỉ kèm bữa sáng, những hiệu đồ cổ, xưởng đúc nến, tiệm bán mặt chuỗi đeo. Quán trọ tôi ghé vào tìm nó có cổng sắt sơn đen, đầu rào nhọn hoắt. Tôi ra phía sau quán, chỗ đặt dãy thùng rác. Nước rỉ long tong từ một ống dẫn vỡ. Tôi bước qua đống thùng và hộp các-tông, hét gọi tên nó. Khi tôi tìm được thì nó đã say đến độ không đứng lên nổi. Tôi tóm lấy cánh tay nó. Ê, chào, nó cười. Nó ngã đập vào tường và bị đứt tay. Nó đứng nhìn chằm chằm vào lòng bàn tay. Máu chảy xuống. Một gã say rượu trẻ tuổi mặc cái áo phông đỏ kiểu công tử bột bước lại nhổ toẹt vào em tôi. Đó cũng là lần duy nhất tôi chứng kiến Corrigan vung nắm đấm. Cú đấm hoàn toàn chệch đích, máu trên tay nó tung vãi. Ngay khi đó tôi đã biết mình sẽ không bao giờ quên được cảnh ấy, lúc Corrigan vung tay, máu từ tay nó bắn tóe lên tường.
— Ta là người theo chủ nghĩa hòa bình, - giọng nó líu nhíu.
Tôi dìu nó suốt dọc bờ sông Liffey, qua những con tàu chở than đá, đến tận khu Ringsend, ở đó tôi rửa ráy qua cho nó ở chỗ máy nước cũ trên phố Irishtown. Nó áp hai tay lên mặt tôi mà thì thào: “Cảm ơn, cảm ơn.” Khi ra tới đường Beach dẫn về nhà thì nó bắt đầu khóc. Bóng tối dày đặc bao trùm biển khơi. Mưa rỏ giọt gianh từ những cây cọ hai bên đường. Tôi lôi nó ra khỏi bãi cát. Em thật yếu đuối, nó sụt sịt. Nó lấy tay áo lau nước mắt, châm một điếu thuốc rồi bật ho cho tới khi phát nôn.
Đến cổng nhà, nó nhìn lên ánh đèn trong phòng ngủ của mẹ. “Mẹ còn thức không?”
Nó bước những bước dè dặt trên lối vào nhà nhưng khi đã vào trong thì nó chạy lên gác, ùa vào lòng mẹ. Tất nhiên, mẹ nhận thấy mùi rượu và thuốc nhưng bà chẳng nói gì. Bà chuẩn bị cho em tôi tắm, rồi ngồi xuống ngoài cửa. Lúc đầu bà ngồi yên, rồi bà duỗi chân ra chỗ đầu cầu thang, tựa đầu vào khung cửa mà thở dài: có cảm giác như mẹ tôi cũng đang tắm mình vào những tháng ngày còn đọng trong ký ức.
Em tôi đã mặc xong quần áo, bước ra ngoài, mẹ lấy khăn lau khô tóc cho nó.
— Con sẽ không uống nữa nhé cưng?
Nó tỏ ý nghe theo.
— Phạt cấm túc vào các ngày thứ Sáu, đúng năm giờ phải về nhà. Con có nghe mẹ nói không?
— Thế là phải ạ.
— Hứa với mẹ đi.
— Con thề với mẹ.
Mắt em tôi đỏ ngầu.
Mẹ hôn lên tóc nó và ôm nó thật chặt. “Dưới nhà có bánh cho con đấy cưng.”