- 2 -
Trong hai tuần tiếp theo Corrigan không đi chơi vào thứ Sáu, nhưng chẳng bao lâu nó lại cặp kè với đám say xỉn kia. Như đã thành nếp quen khó bỏ. Đám cùng cực khốn khổ kia cần nó, hay ít ra là cũng thích nó ở bên. Đối với họ nó là một thiên thần rồ dại đến khó tin. Nó vẫn uống với họ, nhưng chỉ vào các ngày đặc biệt. Hầu như nó không bao giờ say nữa. Nó có ý nghĩ rằng những gã kia chừng như muốn kiếm tìm một nơi đại loại như vườn Địa đàng nên cố mà nốc để được tới đó, nhưng khi đã tới nơi rồi họ lại không thể nán lại mãi mãi. Nó chẳng cố khuyên họ ngừng uống bao giờ. Nó không làm kiểu thế.
Có lẽ có rất nhiều lý do khiến tôi không ưa Corrigan, cậu em trai luôn đem đến một tia xán lạn thúc người ta sống, nhưng không hiểu sao tôi không sao ghét nó cho được. Nó chỉ để tâm tới hạnh phúc - hạnh phúc là gì và hạnh phúc không phải là gì, người ta có thể tìm thấy hạnh phúc ở đâu và hạnh phúc có thể đã bị đánh mất ở nơi nào.
Mẹ tôi mất khi tôi mười chín còn Corrigan mười bảy, sau quãng thời gian chống chọi ngắn ngủi với căn bệnh ung thư thận. Điều cuối cùng bà dặn dò chúng tôi là chú ý kéo rèm để ánh nắng không chiếu vào làm bợt tấm thảm trải phòng khách.
Bà được đưa tới bệnh viện St. Vincent’s vào ngày đầu tiên của mùa hè. Chiếc xe cứu thương để lại những vệt ẩm ướt dọc đường biển. Corrigan điên cuồng đạp xe đuổi theo. Bà được đặt vào một phòng chật kín bệnh nhân. Chúng tôi thu xếp một phòng riêng cho mẹ rồi tô điểm thêm căn phòng bằng hoa. Anh em tôi thay phiên nhau ngồi bên giường mẹ, chải tóc cho bà, những sợi tóc dài và rất dễ rụng. Những nhúm tóc rụng bám trên lược. Lần đầu tiên trong đời mẹ có cảm giác bị bỏ rơi: cơ thể bà đã phụ bà. Cái gạt tàn thuốc cạnh giường đựng đầy tóc. Tôi cứ nuôi mãi cái ý nghĩ rằng nếu chúng tôi giữ những sợi tóc dài màu xám đó thì chúng tôi sẽ có thể quay trở lại những ngày tháng cũ. Đó là tất cả những gì tôi làm được. Mẹ sống được thêm ba tháng, rồi bà từ giã cuộc sống vào một ngày tháng chín khi vạn vật chừng như nứt toác ra dưới ánh nắng mặt trời.
Chúng tôi ngồi trong phòng đợi các y tá đến đưa bà đi. Corrigan đang đọc dở một bài cầu nguyện dài thì một bóng người xuất hiện ngoài cửa.
— Chào mấy đứa.
Giọng nói buồn thương của bố tôi pha chất Anh. Tôi đã không gặp lại ông từ hồi lên ba tuổi. Một lằn ánh sáng hắt lên ông. Trông ông nhợt nhạt, dáng lòm khòm. Đầu chỉ còn một ít tóc nhưng mắt ông còn xanh trong. Ông bỏ mũ xuống đặt lên ngực. “Ta rất tiếc, các chàng trai ạ.”
Tôi đi tới bắt tay ông, chợt giật mình khi nhận thấy mình cao hơn ông. Ông nắm lấy vai tôi và siết chặt.
Corrigan vẫn im lặng.
— Con trai, lại đây bắt tay nào.
— Làm thế nào ông biết được mẹ tôi bị ốm?
— Thôi nào, lại đây, bắt tay bố ra dáng đàn ông cái nào.
— Nói tôi nghe đi.
— Con không định bắt tay bố hay sao?
— Ai đã báo với ông?
Bố tôi choáng váng.
— Con đối với bố thế đấy hả?
Corrigan quay lưng lại hôn lên vầng trán lạnh của mẹ rồi bỏ đi không nói một lời. Cánh cửa đóng sập lại. Bóng song cửa in vắt ngang giường mẹ. Tôi tới bên cửa sổ, thấy Corrigan giật mạnh chiếc xe đạp ra khỏi chỗ dựng, phóng xe qua những luống hoa, áo sơ-mi bay phần phật khi nó hòa vào dòng xe cộ trên đường Merrion.
Bố tôi kéo ghế ngồi xuống cạnh mẹ, chạm vào cánh tay bà qua lớp khăn phủ.
— Khi bà ấy không còn tới lĩnh tiền nữa, - ông lên tiếng.
— Sao ạ?
— Đó là khi ta biết bà ấy bị ốm, - ông đều đều. - Khi bà ấy không đến lĩnh séc đổi tiền nữa.
Một tia buốt lạnh xuyên vào ngực tôi.
— Ta chỉ nói cho con sự thật, - ông tiếp tục. - Nếu con không thể chịu đựng nổi sự thật thì đừng gặng hỏi.
Đêm đó bố về nhà chúng tôi ngủ. Ông mang theo một chiếc va li nhỏ đựng một bộ com-lê đen để dự tang và đôi giày bóng loáng. Corrigan ngăn ông lại khi ông lên cầu thang. Ông nghĩ đang đi đâu vậy hả? Bố tôi bấu chặt lan can. Bàn tay ông đã lấm tấm đồi mồi, tôi thấy được cả người ông run lên trong phút ngập ngừng. Đó không phải phòng của ông, Corrigan nói. Bố tôi lảo đảo. Ông bước thêm một bậc. “Đừng,” em trai tôi vẫn cương quyết. Giọng nó to, dứt khoát và mạnh mẽ. Bố chúng tôi đứng đó, sững sờ. Ông bước thêm một bậc nữa rồi quay xuống, nhìn ra xung quanh, trông hẫng hụt.
— Con ruột mà thế đấy, - ông thốt lên.
Chúng tôi sắp xếp để ông ngủ trên chiếc ghế sofa trong phòng khách, nhưng ngay cả như thế Corrigan cũng không chịu ở chung với ông dưới một mái nhà, nó bỏ ra ngoài đi bộ về phía trung tâm thành phố. Tôi tự hỏi đêm ấy liệu nó dạt vào ngõ ngách nào, có dính vào ẩu đả không, và chọn chai rượu nào để dìm mình vào đó.
Buổi sáng hôm lễ tang, tôi nghe tiếng bố gọi to tên thánh của Corrigan. “John ơi, John Andrew.” Tiếng cánh cửa đóng sầm. Rồi một cánh khác nữa. Tiếp sau đó là một sự im lặng thật lâu. Tôi dựa vào gối, để cái tĩnh lặng bủa vây quanh người. Có tiếng bước chân trên cầu thang. Tiếng cọt kẹt trên bậc cao nhất. Những tiếng ồn ẩn giấu điều bí mật. Corrigan chạy rầm rầm qua chiếc tủ ly ở tầng dưới rồi đóng sầm cửa trước lại.
Khi tới bên cửa sổ tôi thấy một hàng những người đàn ông ăn mặc chỉnh tề đứng sẵn trên bờ biển, ngay bên ngoài nhà tôi. Họ đang mặc những bộ com-lê cũ của bố, đầy đủ cả mũ và cà vạt nữa. Một người gập chiếc khăn tay màu đỏ đặt vào túi ngực bộ com-lê đen. Một người khác tay cầm đôi giày bóng loáng. Corrigan đi giữa bọn họ, hơi nghiêng người, đút tay trong túi quần, miệng túi ló ra chai rượu. Nó cởi trần, nom thật hoang dại. Tóc tai chưa chải. Hai cánh tay và cổ rám nâu, nhưng những phần da khác trắng nhợt nhạt. Nó cười toe toét và vẫy tay chào bố giờ đang đứng ở cửa trước, chân không giày, sững sờ nhìn ra một tá phiên bản của chính ông đang đi bộ trên cát.
Tôi nhận ra hai phụ nữ thường đứng nhận hàng từ thiện ở khu nhà trọ, họ đang bước đi thong dong dọc bờ cát nhầy nhụa trong những bộ đầm mùa hè của mẹ như để mừng bộ cánh mới.