Chương 5
Cùng với hơi lựu đạn cay là những con sâu vi trùng của bệnh cúm bay khắp thành phố, thổi qua căn gác tôi. Và vật ngã tôi.
Tôi nhớ hôm đó trời mưa lất phất trên đường khi tôi đưa Uyên về nhà bằng chiếc xe Lam cà khổ của tôi. Tuy mưa mà không mát, những hạt nước nhỏ như có chứa những ngọn lửa chích vào da thịt một thứ nóng ngột ngạt. Tự nhiên tôi nghe khan ở cổ và và ran buốt buồng ngực. Một cơn ho dữ dội và kéo dài như muốn bưng cả buồng phổi tôi vất ra ngoài, làm tôi phải gập người lại và ngã xuống khi tra chìa khóa cửa phòng căn gác trọ.
Tôi cố gượng để bước vào bên trong nhưng mắt hoa lên, cả căn nhà như sụp xuống và mọi vật quay cuồng, xoáy tròn trong một cơn lốc dữ dội. Và như thế tôi thiếp đi trong tiếng mưa gõ lên thành cửa sổ. Tôi cố mở mắt ra, nhưng vô ích, một lần nữa, chiếc cầu thang bằng gỗ, ngôi nhà, bầu trời, tiếng động… tất cả đều lung lay, chập chờn, nhạt nhòa và vỡ vụn…
Trong trí tưởng mờ mịt tôi lúc đó những hình ảnh này trộn lẫn vào những bóng dáng kia, sự việc này chen vô sự việc nọ, chẳng có gì ăn khớp nhau, nhưng hình như chúng liên tục và rất là hợp lý. Tôi thấy ông Phan là kẻ thù tôi, Uyên là em gái tôi, Quỳnh là mẹ tôi, ông Lý là bạn thân tôi. Chiếc răng khểnh của Quỳnh chạy qua Uyên, nốt ruồi tham lam của Uyên trên khuôn mặt Quỳnh. Ông Lý có đôi bàn tay mập ú rịn ướt mồ hôi còn giọng nói ông Phan đặc sệt miền Nam của ông Lý. Bà Phan là một thiếu nữ xinh đẹp. Và Ðăng, và Mai các con tôi đã là những người lớn. Duy có một điều mà trí nhớ bệnh tật tôi lúc đó không hề bị hư hỏng, đó là ký ức về ngôi nhà tôi đã sống.
Nhà nằm sâu trong một ngõ cụt, trên góc đường Kỳ Ðồng và Trương Minh Giảng. Cái sân chung của những ngôi nhà trong cùng một ngõ không ra hình chữ nhật cũng chẳng giống hình bầu dục. Ngay đoạn giữa là bụi, sỏi vụn và đá xanh lởm chởm. Nhà đâu mặt vào nhau cho thấy nhiều giai tầng xã hội trong một tập hợp thân ái mà nhạt nhẽo. Bên mặt là dãy nhà giầu, có sân riêng lót gạch đỏ, cổng sắt và cửa gỗ đánh vẹc-ni. Căn đầu là của một cặp vợ chồng Ðức-Việt. Chồng làm ở tòa Ðại Sứ Ðức, vợ ở nhà trông con, hai đứa con lai cao lớn tóc vàng óng. Nhà kế là của ba chị em người Ðà Nẵng, chỉ cả làm thư ký ở Tòa Ðại Sứ Úc, chị thứ hai là y tá bệnh viện Grall và cô Út đang học trung học. Cả ba đều chưa chồng, nhưng cô Út đang mang bầu. Căn thứ ba là của một giáo sư dạy trường Nha và đang hành nghề chữa răng và chuyên làm răng giả tại gia. Vợ là bác sĩ mới ra trường. Ở trong cùng, đối diện với mặt đường là ba căn nhà: một biệt thự của một chủ ngân hàng, có cổng lớn, nhiều cây to và hơi tối. Tôi chưa vào nhà ấy lần nào nhưng tôi được nghe là nó rộng và đẹp lắm. Nhà sát đó là của một người thợ sửa xe đạp với đám con bụng ỏng da xanh mướt. Kế bên là nhà của một người đàn bà lấy chồng Mỹ. Phía bên trái là một căn nhà nhỏ thông qua đường Trương Minh Giảng. Nhà có sân tráng xi măng, với một cây trứng cá thay hàng rào. Phòng khách và bếp dàn hàng ngang. Buồng ngủ là căn gác sàn gỗ gần sát mái tôn. Cửa sổ mở ngó ra đường Trương Minh Giảng, không tránh nổi cơn nắng chiều quái ác.
Trong căn nhà đó, tôi đã có những buổi sáng thức dậy một mình, lo cho các con bữa ăn sáng và lo cả cho chính bản thân tôi, rồi tôi đưa chúng đi học, trước khi đến sở làm.
Trong căn nhà đó, tôi đã có những buổi trưa ngồi nhìn các con ăn trong nỗi chán chường của một gia đình mục rã, nơi có một người đàn bà chỉ nghĩ đến mình, chăm sóc phần ngoài của mình hơn là lo cho chồng cho con.
Trong căn nhà đó, tôi đã những buổi tối trở về khi các con tôi đã ngủ, tự làm lấy thức ăn một mình, tự ngồi một mình trên bàn cơm với cái chén, đôi đũa và sự cô đơn của một con người.
Nhưng thế nào là một gia đình?
Câu hỏi ấy cứ luôn luôn trở đi trở lại mãi mãi trong đầu tôi.
Một tế bào của xã hội, mà nếu thiếu nó xã hội chẳng là gì cả?
Một đơn vị gia cư?
Một tập hợp những cá thể, gồm một người đàn ông và một người đàn bà, và, nếu có thể, những đứa con?
Một chốn hợp pháp dành cho sự gặp gỡ của giống đực và giống cái?
Một nơi để trở về sau khi đã ra đi?
Một hang động để trú ẩn?
Tôi đã có một gia đình chưa?
Hình như là đã có theo một trong những ý nghĩa đó, và hình như là chưa theo một trong những câu trả lời kia.
Trong ngôi nhà đó, cái lò lửa nóng hực mặt trời buổi trưa, trong một Saigon đang lên cơn sốt chính trị, tôi đã phải tự bứng mình đi như người ta nhổ một bụi khoai ra khỏi cái luống đất xốp và rời rạc kia.
Ðó là căn nhà của cơm nguội và nước lạnh, chan vào nhau lõng bõng lêu bêu, rời rạc nhạt nhẽo. Không ai có thể sống mãi trong một căn nhà như thế, khi cuộc đời bên ngoài tự nó cũng đang là một cái gì buồn thảm, lêu bêu lõng bõng, giả trá, xa lạ và đầy thù hận.
Tôi đã giã từ căn nhà đó, như cắt đứt cánh tay bị ung nhọt thối tha của tôi vì đã hết thuốc chữa.
Nhưng tình yêu của tôi dành cho Ðăng và Mai vẫn còn nguyên vẹn. Ðó là nỗi đau của tôi. “Con cần mẹ, nhưng ba cũng cần các con.” Cái hình ảnh một người đàn ông chiều Thứ Bảy đi thăm con ở nhà một người đàn bà trước kia là vợ mình, sao nó thê thảm đến thế!
Căn nhà ấy, mặc dù đã ra đi, tôi vẫn nhiều lần trở lại. Những buổi trưa, ba cha con ngồi quanh chiếc bàn ăn hình chữ nhật.
“Hôm nay con học gì? Một bài hát mới hả? Con hát ba nghe coi! Il était un petit navire! Il était un petit navire! Qui n’vait ja-ja-jamais navigué, Qui n’avait ja-ja-jamais navigué… Con ăn gì? Cay hả? Không, không cay đâu. Cái này không có ớt đâu!”
-Con phải cầm đũa như thế này, này! Con ngồi ngay ngắn nhé! Ðể tay lên bàn. Ðúng! Thế!
-Con ăn thêm nữa không? No hả? Sao ít vậy?
Bữa cơm xong, Mai rửa mặt, đánh răng lâu thật lâu, tẩn mẩn tỉ mỉ từng chút, chậm rãi như một bà cụ non. Còn Ðăng là một cái gì trái ngược: rửa mặt ào ào, đánh răng ào ào, chùi hai tay lên áo, trở lại bàn lấy tập và bút. Vẽ.
-Ðố ba biết cái này là cái gì?
-….
-Ba dở ẹt! Thằng Tintin đi Hồng Kông mà ba cũng hổng biết!
-….
-Ba biết thằng cao bồi này tên gì không?
-….
-Ba thiệt hổng biết gì hết trơn hết trọi! Ðây là Lucky Luke. Còn mấy thằng này là anh em đám thằng Dalton. Ghê chưa? Ba sợ hông?
-….
Ðó là những buổi trưa, như những buổi trưa buồn thảm khác có ba cha con tôi trong căn nhà hộp diêm, thấp tè, nóng bức.
Cũng có hôm tôi bị phỏng vấn.
-Ba đi đâu? Sao ba không ở nhà?
-Ba đi làm việc!
-Ba làm việc ở đâu?
-Tụi con biết rồi mà!
-A! Con biết! Con biết! Mai la lên.
-Anh Ðăng không biết đâu. Con biết nè! Bữa hổm ba chỉ cho em rồi. Phải không ba?
-Phải!
-Ðó thấy chưa anh Ðăng? Em biết mà!
Sau đó, ba cha con trải chiếu dưới đất. Ðăng xem sách hình. Mai kể chuyện cô giáo trong trường. Rất nhanh, một đứa đánh rơi sách và một đứa thiu thiu.
Rồi đến lượt tôi, rất nhẹ nhàng rón rén ra đi, sợ làm kinh động giấc ngủ của hai đứa bé.
Ở căn nhà đó ra, tôi lại trở về căn gác trọ, tắm rửa, thay quần áo, xuống phố, nói chuyện tầm phào với lũ bạn ở một quán nước quen, đi rong qua những hàng sách “xôn,” xem một cuốn phim.
Còn cơm tối? Có khi là một bát phở, một khúc bánh mì, một chén bò viên, một chai bia… Cũng có khi, vì lười biếng, chẳng có gì hết ngoài những ly cà phê sữa đã uống…
Chiều Thứ Bảy. Thường lệ là những chiều Thứ Bảy, tôi đón Ðăng và Mai đi ăn ở một quán Tàu trên đường Lê Văn Duyệt.
Cơm thố và thức ăn xào nấu vừa miệng. Ðây là quán mà tôi và các con tôi thích nhất. Người chủ quán là một cô Tàu còn nhỏ nhưng mập tròn và lùn tịt như một chiếc thùng tô nô. Cô hay hỏi tôi:
-Má tụi nó đâu rồi?
Tôi mỉm cười không trả lời. Và bao giờ cũng vậy, đó là câu hỏi duy nhất mà cô luôn luôn nói với tôi. Sau bữa ăn là một chầu xi nê. Một cuốn phim mà trẻ con có thể xem được. Ðôi khi nhằm một rạp vắng, Ðăng đi từng dãy ghế, bật lên bật xuống từng chỗ ngồi, khua động từng chập trước giờ vào phim. Cuối cùng là vào một tiệm kem ba màu cho Ðăng, bốn màu cho Mai, một cà phê liégeois cho tôi. Ðêm trở về căn nhà ấy, hôn các con, và chia tay. Tôi lại lóc cóc chạy xe vòng qua Nhà Thờ Chúa Cứu Thế, rẽ qua con đường Nguyễn Thông đến Ngã Sáu chạy ngược chiều đường Phan Thanh Giản, qua một đường rầy xe lửa… vào một Cư Xá, leo lên một cầu thang dốc, tra chìa khóa vào một cánh cửa làm bằng ván ọp ẹp. Và bước vào một căn phòng không ai chờ đợi!
Tôi đã làm gì đời tôi?
Tôi làm một nghề bội bạc: dạy học. Nhiều người nói giáo dục là một nghề cao quý nhưng dạy học thì đồng nghĩa với bội bạc.
Chẳng cần nghe người khác nói tôi mới biết điều đó. Tôi đã từng nhiều lần nhìn thấy sự bội bạc ấy vào mỗi cuối niên học nơi những học sinh thông minh và dễ thương nhất của tôi. Tất nhiên không phải người học sinh xuất sắc nào sau cùng sẽ chỉ là một người bội bạc xuất sắc, nhưng thường những học sinh xuất sắc dễ trở thành những tâm hồn bội bạc cực kỳ xuất sắc& Tôi yêu những khuôn mặt trẻ trung, những thái độ ngông nghênh mà vô tội vạ của họ. Tôi thích nhìn thấy tuổi trẻ ấy lớn lên, mau chóng vượt qua những gì họ đã học được ở nhà trường. Hạnh phúc của tôi chính là được thấy sự trưởng thành của học sinh tôi, là thấy được một ngày kia những anh chị ấy biết khinh bỉ sự chết cóng và những xác ướp kiến thức trong sách vở. Nếu họ đi xa và bỏ lại đằng sau lưng những người thầy của họ về mặt kiến thức và tiền bạc vật chất (tất nhiên), tôi hiểu rằng điều đó không bao giờ có nghĩa là bội bạc.
Dù sao, sự làm ra vẻ lãng quên, hay làm ra vẻ mình có một trí nhớ khiêm tốn của một người học sinh trước người thầy học cũ, cũng chỉ là một điều tự nhiên và bình thường trong xã hội ngày nay. Ðiều bất bình thường chính là người học sinh ấy còn nhớ đến người thầy của mình!
May mắn cho tôi trong đời mình cũng có đôi lúc nhận được sự bất bình thường loại đó. Và đó là một điều hiếm hoi của chút ánh sáng hạnh phúc phù du còn lại trong cái mờ mịt của một xã hội thời nay.
Tôi biết tôi là một tên lười biếng.
Tôi chỉ đọc những gì liên hệ đến công việc tôi đang làm, chỉ ăn những thức ăn đã dọn sẵn trên bàn, chỉ trò chuyện những ai đụng vào trái tim tôi, chỉ yêu những ai can đảm yêu tôi. Tôi không biết sục sạo, bươi móc như con gà tìm kiếm chút hạt gạo thừa ngoài sân.
Tôi là tên đàn ông thụ động trong tận cùng xương tủy.
Ðừng tưởng là tôi không chán tôi. Tôi chán tôi như người ta vẫn thường chán những thức ăn thừa phải hâm đi hâm lại mãi nhiều lần trong nhiều ngày.
Nhưng tôi là ai?
Tôi là người đàn ông lang bang, lêu bêu. Tôi đang là cái tôi cách đây mười năm khi mới vừa tốt nghiệp ra trường. Một lần Quỳnh nói anh cứ coi như mình đang bắt đầu từ con số không đi! Tôi không đồng ý cách nói đó của Quỳnh. Làm sao tôi có thể bắt đầu được từ con số không? Tôi đang bắt đầu từ âm số. Dưới con số không nhiều bậc kia. Tôi đã bị trừ đi cái mười năm của tuổi trẻ phung phí vào một người đàn bà gian trá. Tôi đã bị trừ đi cái mười năm của một sự trống trơn về tai tiếng. Tôi đang bắt đầu từ những âm số của nợ nần, của những lời thị phi, của nụ cười đã tắt, niềm vui đã chết, hi vọng đã tan hoang.
Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trên giường. Chiếu chăn thẳng thớm. Chiếc gối dưới đầu thơm mùi xà phòng mới giặt. Căn phòng gọn và sạch đến nỗi tôi có cảm tưởng như đây là lần đầu tiên tôi tới chốn này. Và trên chiếc ghế đặt sát đầu giường tôi là một ly nước cam vắt và một lá thư.
Thư của Quỳnh.
Cô cho biết cô đã đến thăm tôi đúng vào cái lúc tôi nằm ngáng ngay cửa phòng. Và cô đã khó khăn lắm mới đưa được tôi lên giường, thay quần áo, xoa dầu nóng, gọi bác sĩ thăm bệnh tôi. Nàng đã lau sạch sàn nhà, sắp xếp báo chí sách vở, thu dọn quần áo bẩn đem đi tiệm giặt, thay cả màn cửa, và mền gối mới cho tôi. “Suốt đêm, Quỳnh viết, anh sốt mê man, miệng không ngớt lảm nhảm những lời vô nghĩa. Nếu anh cứ tiếp tục cái kiểu này có ngày anh sẽ chết mà không ai hay. Ðời sống anh làm em ứa nước mắt.”
Thật sao? Có thật là còn có một người nào đó trên đời này ứa nước mắt cho tôi? Cuộc sống tôi bi thảm đến thế sao?
Trống trơn và lạnh lẽo. Ðó là căn phòng tôi đang ở. Ðó cũng là đời sống tôi. Sự bừa bãi của sách báo, và quần áo có thể làm đầy căn phòng, nhưng không thể làm đầy được sự trống rỗng trong tôi. Lửa làm ấm bàn tay nhưng ngọn lửa nào ấm được trái tim nguội lạnh tôi?
Và tôi thấy lại Quỳnh. Hình dung cô đứng ở cửa phòng khi tôi đang nằm ngáng nơi cánh cửa kia. Hình dung cô thu dọn, lau chùi căn phòng. Hình dung một người phụ nữ xinh đẹp ngoài phố và giỏi dắn như một bà nội trợ đảm đang trong gia đình.
Tôi đã yêu Quỳnh chăng? Tôi, kẻ không còn tuổi trẻ, không địa vị cũng chẳng phải là một tên biết hái ra tiền. Nhưng cái gì khiến người thiếu nữ xinh đẹp là Quỳnh yêu người đàn ông là tôi kia? Tôi không biết!
Hơn ai hết, Quỳnh hiểu tôi là kẻ không có gì trước mặt, cũng chẳng có gì sau lưng. Vậy mà Quỳnh không gìn giữ cho mình, nàng gửi hết cho tôi trái tim trẻ trung và nóng bỏng của cô. Quỳnh làn thức dậy trong tôi những tế bào tưởng sẽ chỉ mãi mãi ngủ quên do sức ép của những biến cố dồn dập lên đời tôi.
Giọt nước mắt của Quỳnh đã làm tôi hồi sinh thật chưa? Hay cũng chỉ là một sự đứng dậy nhất thời?
Nghĩ lẩn quẩn mãi tôi vẫn không hiểu tại sao tôi cứ bị căn gác trọ này ám ảnh thần trí tôi?! Tại sao tôi không tìm đến một chỗ trọ khác, khang trang hơn, ấm áp hơn? Phải chăng trong sự bi thảm có cái sức quyến rũ riêng của nó? Những hôm mưa lớn đứng trên cửa sổ nhìn xuống phía dưới tôi có cảm tưởng như mình đang đi thuyền trên một con sông lớn nước đục ngầu. Gặp những trận mưa to, cửa sổ không rèm che, không “ô-văng”, nước tạt vào ướt cả chăn nệm, thấm những cuốn sách trên bàn viết& Hôm nào trời nắng gắt, phòng giống như cái hỏa lò làm rơi mồ hôi hột, mặc dù trên trần nhà những cánh quạt máy vẫn quay ở tốc độ cao nhất. Cái máy thu thanh mới lắp pin hai ngày đã chỉ phát ra những tiếng rè rè vì quên tắt núm điều chỉnh. Tấm lịch quên xé ngày. Cái gạt tàn đầy nhóc tàn tro và đuôi thuốc. Phin cà phê còn đầy xác mấy ngày chưa rửa. Những viên kẹo ngọt chảy nước trên mặt bàn vì để quá lâu…
Nhưng nếu tất cả những luộm thuộm, bẩn thỉu này làm cho đời sống tôi bi thảm thì phải chăng giờ đây khi mọi sự đã sạch sẽ, đã ngăn nắp sự bi thảm ấy đã chấm dứt?
Và nữa, kỳ lạ chưa, cái gì vậy? Trên vách, sau lưng tôi, ngay chỗ đầu giường ngủ tôi là một bức tranh sơn dầu vẽ chân dung một thiếu nữ. Ánh sáng, bố cục khuôn mặt và màu xanh kỳ lạ của bức họa – từ khi tôi nhìn thấy nó – làm cho căn phòng như trở nên sáng hơn, rộng hơn và dễ ưa hơn.
Dù sao điều tôi nhận ra ngay tức khắc khi nhìn chân dung người thiếu nữ trong tranh là sự pha trộn kỳ lạ giữa hai khuôn mặt trong một khuôn mặt. Cái trán bướng bỉnh, nốt ruồi tham lam, chiếc cổ cao của Uyên với đôi mắt mở to màu nâu mã não và cái miệng hơi rộng với chiếc răng khểnh của Quỳnh làm tôi giật mình.
Tranh không ký tên người vẽ, nhưng màu sắc và đường nét gợi nhớ đến Trịnh Nam, một trong những họa sĩ trẻ mà tài năng đang được xác nhận như là một trong số họa sĩ có khả năng vượt khỏi biên giới của quốc gia.
Gió thổi qua cửa sổ. Bầu trời đen như mực không một ánh sao. Tuy vậy tôi có thể nhìn thấy trong trí nhớ phía dưới kia là những mái nhà, những lớp ngói mốc rêu xanh, một sân nước bẩn thỉu, một con hẻm hẹp với hình ảnh một người đàn bà có bầu đang đùa với đứa bé bụng ỏng.
Cơn mưa sẽ đến! Tôi nghĩ vậy và nhìn đồng hồ. Còn mười lăm phút nữa mới đến tám giờ. Thế mà tôi cứ tưởng là khuya lắm.
Tôi đứng lên đóng cửa sổ, nằm xuống giường mở trang sách, đọc lại quyển “Chùa Ðàn” của Nguyễn Tuân.
Có tiếng giày khua trên những bậc thang gỗ dẫn lên căn gác tôi. Rồi tiếng gõ cửa. Tôi vẫn nằm im. Tôi nghĩ là Quỳnh.
Hình như trong thư cô đã viết cho tôi như vậy. Cái tay nắm cửa được xoay một vòng. Tôi nằm yên và nhắm mắt. Tôi nghĩ là Quỳnh sẽ hôn tôi. Nhưng lập tức tôi biết là tôi đã đoán sai. Mùi hương phấn rất đàn bà đang phớt qua mũi tôi. Ai? Tôi tự hỏi nhưng vẫn tiếp tục nhắm nghiền mắt. Tiếng giày ngừng lại ở đầu giường tôi. Tiếng xắc tay mở ra. Tiếng thở dài. Và mùi nước hoa lạ đang gần thấp xuống tôi. Rất gần!
Tôi không thể đoán được và cũng không thể kềm chế nổi cơn tò mò của mình. Và tôi mở mắt ra.
-Uyên! Tôi kêu lên.
Khuôn mặt trắng xanh, trán bướng, mắt to, nốt ruồi. Cằm nhọn, cổ cao, tóc dài, ngực nở nang kiêu hãnh. Phải, đó là Uyên, con gái ông Phan, người tạo thời cuộc.
Uyên đang đứng trên đầu giường tôi, hai tay khoanh lại, nhìn tôi đăm đăm. Thấy tôi mở mắt, cô bỏ tay ra, một tay đặt trên trán tôi:
-Anh làm sao vậy? Uyên lo cho anh quá!
Tôi chống tay ngồi hẳn dậy.
-Ðừng. Anh cứ nằm yên nghỉ cho khỏe. Uyên đến thăm anh mà!
Tôi nhất định ngồi dậy, tựa lưng vào thành giường, kéo chăn lên ngực, trong tay vẫn cầm quyển Chùa Ðàn.
-Sao cô biết tôi bị bệnh?
Uyên ngồi xuống ghế. Cô mở túi đựng cam, xếp lên bàn. Cầm một trái, vừa bóc vỏ Uyên vừa nói:
-Cách đây nửa giờ có người gọi dây nói cho Uyên biết là anh bị ốm.
-Ai vậy?
-Làm sao Uyên biết được!
-Ðàn ông hay đàn bà? Tôi không kềm nổi sự ngạc nhiên.
-Theo Uyên thì đó là giọng của một cô gái. Vâng, là của một cô gái.
-Một cô gái? Mà cô ta nói gì vậy?
-Cô nói là ông Thăng không thể nào gọi dây nói cho Uyên được vì ông ấy ốm, khi nào khỏi bệnh ông ấy sẽ gọi lại ngay!
-Thế thôi? Cô ta không xưng tên à?
-Thế thôi! Cô ta báo tin xong là “cúp” ngay. Chẳng kịp hỏi han gì hết!
-Không kịp hỏi han gì hết, sao cô lại biết chỗ ở của tôi?
Uyên đưa cho tôi mấy múi cam đã bóc vỏ, rồi giơ một ngón tay lên đặt ngay sống mũi:
-Bí mật nghề nghiệp!
Tôi vẫn tựa lưng vào thành giường, nhìn Uyên. Vẫn xinh đẹp, vẫn trẻ trung. Rất phụ nữ, rất con gái. Uyên ngồi đó, bên cạnh tôi, trong căn phòng của một người đàn ông độc thân. Ánh sáng của ngọn đèn néon làm khuôn mặt cô trắng bệch xanh mướt, lót nền cho hai con mắt to đen trở nên quyến rũ hơn. Tôi nghĩ đến cái mà cô gọi là bí mật nghề nghiệp. Có gì bí mật? Ông Phan có thừa tai mắt để biết nơi ăn và chốn ở và cả hành tung của hằng vạn con người, ngay cả những người khó hiểu nhất, ăn thua gì một người như tôi. Vả lại, đâu cần thông minh lắm mới biết được cô gái gọi dây nói cho Uyên là ai. Có lẽ trong lúc dọn dẹp căn phòng Quỳnh đã đọc được cái “message” của Uyên gởi tôi? Và có lẽ Quỳnh muốn thử giải một bài toán mà cô là người đi tìm đáp số. Cô là người chia bài và chính cô là người đánh lá đầu tiên. Thôi được, cứ cho là Quỳnh chơi bài và Uyên cũng đang chơi bài đi. Nhưng tôi là cái “thá” gì mới được chớ?
Uyên vẫn ngồi yên. Cô có vẻ suy nghĩ lung lắm. Sau cùng Uyên đứng dậy đưa tay:
-Thôi, xin phép anh, Uyên phải về đây!
Tôi nắm bàn tay Uyên. Tôi nhìn vào mắt cô. Uyên không phản ứng. Cô để yên tay mình trong tay tôi. Mắt tôi gặp mắt Uyên. Chúng tôi nhìn nhau như thể mới thấy nhau lần đầu. Tôi đọc được sự thách thức trong đôi mắt cô. Nếu tôi bỏ tay cô ra trước có lẽ tôi là người thua cuộc. Nhưng nếu cứ giữ tay Uyên trong tay tôi, tôi sẽ là cái gì? Vì vậy tôi kéo Uyên. Và cô ngã lên tôi.
-Ðừng anh! Ðừng anh!
Tôi nghe tiếng Uyên kêu yếu ớt khi tay tôi vòng qua thân thể cô. Tôi hôn nhẹ nhàng trên trán cô, gò má cô, tai cô, cổ cô và sau cùng rất tàn bạo môi Uyên. Mùi hương phấn rất đàn bà của Uyên tràn ngập trong tôi.
-Ðừng anh! Ðừng anh!
Uyên kêu khẽ. Cô không hôn tôi. Tôi thấy đôi mắt Uyên ráo hoảnh nhìn tôi. Và cô đứng dậy, vén lại mái tóc rũ xòa trước trán:
-Thôi Uyên về! Bác tài đang chờ Uyên dưới đường!
Tôi nhìn Uyên không nói.
-Anh ráng tịnh dưỡng nhé!
Và cô nhẹ nhàng hôn lên trán tôi, rồi quày quả bước ra cửa. Tôi nghe tiếng giày khua rất chậm ở dốc cầu thang. Và tiếng động cơ xe nổ giòn, lăn bánh.