← Quay lại trang sách

Chương 13

Bình minh còn chưa kịp ló dạng khi ông lái xe xuyên qua vùng thôn quê. Trăng đã lặn, nhưng vẫn còn những vì sao trên trời. Chỉ vài ba giờ nữa thôi, mặt trời sẽ mọc lên, và hơi nóng sẽ bắt đầu thiêu đốt mọi thứ trở lại, buộc loài người phải chui vào trong nhà để trốn tránh mùa hè địa ngục.

Trước khi lên đường, Genko đã khoác lên người bộ com-lê linen nhàu nhĩ bốc mùi. Mảnh bùa mà trên đó Tom đã vẽ chân dung gã đầu thỏ cũng nằm gọn trong túi áo.

Ông đang trên đường đi gặp gia đình đã nhận chăm sóc cậu bé mười tuổi bị bố mẹ từ bỏ. Ông tìm thấy địa chỉ của họ trên mạng, nhưng trang trại có vẻ như đã ngừng hoạt động từ lâu.

Sau khi rời đường cái và đi vào một lối mòn bẩn thỉu, chiếc Saab chạy qua một mê cung lối đi nằm giữa các ruộng hoa hướng dương. Ông đang sợ mình bị lạc đường thì đèn pha xe hơi rốt cuộc cũng chiếu vào một tấm bảng chỉ đường tới trang trại Wilson.

Đi tiếp sáu cây số nữa, ông trông thấy lờ mờ đường nét của một ngôi nhà trên nền trời sao. Nó nằm trên một quả đồi và được canh gác bởi hai cây bách. Chiếc Saab chạy qua một vòm cổng bằng gỗ rồi dừng lại cạnh nhà kho. Genko bước xuống xe và nhìn quanh, cố gắng quan sát xem có ai ở ngoài này hay không. Chắc là người ở đây không cần phải đảo lộn nhịp sinh hoạt ngày đêm. Ông thò tay vào trong xe và bấm còi để thu hút sự chú ý.

Hai con chó bắt đầu sủa vang trong nhà. Đèn bật sáng ở một ô cửa sổ trên tầng hai. Không lâu sau đó, cửa trước mở ra, và một người nào đó xuất hiện. Genko không kịp nhìn thì bị luồng đèn pin rọi thẳng vào mặt.

“Ai đó?” Một giọng phụ nữ cất lên, trong lúc hai con chó tiếp tục sủa ông ổng bên cạnh bà ta.

“Bà Wilson phải không ạ?” Genko hỏi, tay đưa lên che mắt cho đỡ chói. “Tôi xin lỗi vì đã đường đột thế này, nhưng tôi cần nói chuyện với bà.”

“Anh vẫn chưa xưng tên đó.”

“Bà nói đúng. Tên tôi là Leonard Muster.” Genko nói dối, tay rút một tấm thẻ căn cước từ trong túi áo ra. “Tôi làm việc tại văn phòng công tố.”

Người phụ nữ hạ đèn xuống và không nói gì trong giây lát, chắc là đang dò xét vị khách bất ngờ, trong đầu tự hỏi liệu có nên tin tưởng ông ta hay không.

“Văn phòng công tố cần gì ở một bà già nghèo khó giữa đêm hôm khuya khoắt thế này?”

Genko bật cười.

“Chỉ là thủ tục thôi ạ.”

“Thôi được rồi, anh đi vào đi. Chúng ta sẽ nói chuyện trong nhà.”

Tamitria Wilson và hai con chó lai đi trước dẫn đường. Bà mặc một chiếc áo ngủ dài đến mắt cá chân. Dù tóc đã bạc, bà vẫn nuôi đến lưng. Bà di chuyển với gậy chống tự chế từ một cái nhánh cây và dẫn vị khách vào căn bếp rộng, nơi có một cái bàn lớn bằng gỗ sồi.

Tamitria ra hiệu cho lũ chó, và chúng tiến đến nằm bên cạnh lò sưởi.

“Tôi giúp gì được đây, thưa anh Muster?” Bà hỏi trong lúc bật bếp ga để hâm nóng một ấm cà phê pha sẵn.

Leonard Muster là cái tên giả mà Genko từng sử dụng trước kia. Thẻ viên chức cạo giấy không có được sức mạnh hù dọa như phù hiệu cảnh sát, nhưng lợi thế của nó là không tạo ra rào cản. Genko đã học được rằng đôi khi người ta đưa ra những thông tin sai lạc với nhân viên công lực bởi họ ngấm ngầm ghét uy quyền của cảnh sát. Để có được sự hợp tác đầy đủ, một thám tử tư lành nghề phải đặt mình ngang hàng với người đối thoại.

“Một lần nữa tôi xin lỗi vì đã đánh thức bà vào giờ khuya khoắt thế này, nhưng tại thành phố, do cái nóng, các công sở đã thay đổi giờ giấc làm việc, và hiện nay chúng tôi bị buộc phải làm việc vào ban đêm. Tôi đã cố gắng gọi cho bà, nhưng không có ai bắt máy.” Genko giải thích.

“Đường dây không hoạt động đã hơn một năm nay rồi.” Bà già nói với giọng chua chát. “Công ty điện thoại chẳng thèm đoái hoài.”

Genko tin bà nói thật. Trên đường đi, ông không thấy có nhà dân nào khác.

“Tôi đến đây vì công tố viên đã yêu cầu tôi thẩm tra lại hồ sơ của một vài trường hợp trẻ em mất tích để xem có bỏ sót gì không… Bà thấy đấy, từ khi Samantha Andretti tái xuất hiện, tất cả mọi người ở sở cảnh sát đều chịu sức ép lớn. Các sếp không muốn có bất kỳ bộ xương nào nhảy ra khỏi tủ áo nữa.”

“Tôi hiểu.” Bà già đáp với giọng không mấy tin. “Nhưng tôi giúp gì được cho anh?”

“Trong số những đứa trẻ được bà nuôi nấng tại đây, bà có thể cho tôi biết bao nhiêu đứa đã có hoàn cảnh tương tự như Samantha Andretti được không?”

Bà già quay người nhìn ông.

“Tất cả.”

Genko cố gắng che giấu sự kinh ngạc của mình. Ông không chờ đợi câu trả lời này.

“Tất cả sao?” Ông hỏi lại.

Tamitria đặt cây gậy xuống và nhấc ấm cà phê ra khỏi bếp. Bà tập tễnh xách nó cùng với hai cái tách tráng men đỏ đến bên bàn, mời Genko ngồi xuống một chiếc ghế đẩu, rồi cũng ngồi xuống theo.

“Chồng tôi và tôi xây dựng nên chỗ này nhiều năm về trước.” Bà vừa nói vừa chỉ tay vào một thứ ở phía sau lưng Genko.

Ông quay lại và thấy đó là một khung ảnh đặt trên lò sưởi. Trong ảnh có một người đàn ông tươi cười cầm khẩu súng săn, vây quanh bởi một đám trẻ con.

“Chúng tôi không có con cái, do đó chúng tôi đã quyết định dành cuộc đời mình cho những đứa con bất hạnh của người khác.”

“Một sứ mạng cao quý.”

“Tôi hi vọng thế… Tôi từng gọi chúng là những đứa trẻ đặc biệt… Tôi yêu thương từng đứa một, như thể tôi là người rứt ruột đẻ ra chúng. Và bọn trẻ chưa bao giờ phụ lòng tôi. Cho dù không biết giờ chúng đang ở đâu, tôi tin chúng vẫn còn nhớ tới mình và tất cả những điều tôi dạy dỗ đều hữu ích cho cuộc đời sau này của chúng.”

Tamitria nói về đàn con nuôi của mình như thể họ là những người ưu tú chứ không chỉ là những đứa trẻ có vấn đề. Chỉ có sức mạnh của tình yêu mới có thể biến một khiếm khuyết thành thiên tư.

“Anh có từng nghe nói tới ‘những đứa con của bóng tối’ chưa?”

“Tôi chưa nghe.” Genko thừa nhận.

Cách gọi của bà ta làm ông dựng tóc gáy.

“Đó là những đứa trẻ mất tích rồi được cảnh sát tìm thấy hoặc quay về theo một cách thức không thể lí giải được, giống như Samantha Andretti.” Tamitria giải thích. “Chúng bị bắt cóc và bị lạm dụng bởi bọn vô lương tâm. Một số trốn thoát thành công, số khác thì được thả ra. Nhưng khoảng thời gian bị giam cầm đã in dấu lên suốt phần đời còn lại của chúng.”

“Tại sao lại là ‘những đứa con của bóng tối’?”

“Bởi chúng thường bị giam trong những căn hầm, bị chôn sống. Và khi nhìn thấy ánh sáng ban ngày trở lại, chúng giống như được sinh ra lần thứ hai. Nhưng chúng đã hoàn toàn thay đổi.”

Trong sự im lặng tiếp nối, người phụ nữ lớn tuổi rót cà phê vào hai cái tách rồi đưa một cái cho Genko.

Ông nhấm nháp thứ chất lỏng màu đen rồi hỏi tiếp:

“Trong số những hồ sơ mà tôi xem ở văn phòng trước khi đến đây, có trường hợp của một cậu bé mười tuổi, được ghi nhận bằng hai ký tự R.S.”

Tamitria ngẫm nghĩ một lúc.

“Tôi cần biết cậu bé đó ở đây vào thời điểm nào.”

“Đầu thập niên 1980, khoảng đó.”

Tamitria sững người như thể bị sét đánh.

“Robin Sullivan.” Bà thình lình lên tiếng.

“Đó là một vụ mất tích ngắn ngủi.” Genko nhắc lại. “Chỉ vỏn vẹn ba ngày. Nhưng sau đó, gia đình của cậu bé không muốn chăm sóc cậu nữa.”

“Mẹ nó là người không tốt.” Bà già nói với giọng pha chút khinh bỉ. “Bố nó thậm chí còn tệ hơn. Tôi không biết tại sao hai người bọn họ cứ nhất định ở lại với nhau. Robin luôn bị kẹt ở giữa khi họ gây gổ, và thằng bé là người trả giá về lâu về dài. Tôi không nghĩ bố mẹ nó yêu thương nó.”

Câu nói cuối và sự quả quyết trong giọng điệu của bà ta khiến Genko bỗng thấy buồn cho đứa trẻ.

“Theo bà thì chuyện gì đã xảy ra với Robin trong ba ngày mất tích?”

“Thằng bé không bao giờ muốn kể về chuyện đó.” Bà đáp với ánh mắt trầm ngâm. “Nó là một đứa con trai dễ tổn thương, cần rất nhiều sự yêu thương và trìu mến… Con mồi hoàn hảo cho những kẻ có ý đồ xấu.”

“Nhưng làm sao bà biết chắc cậu ta bị bắt cóc chứ không phải tự ý bỏ nhà ra đi?”

“Chúng dụ dỗ bọn trẻ bằng sự quan tâm mà bọn trẻ không được nhận ở nơi khác.” Tamitria đáp và nhìn thẳng vào mắt Genko. “Chúng giả vờ quan tâm, nhưng tất cả những gì chúng muốn là lôi bọn trẻ vào một nơi tăm tối.”

“Phải, nhưng Robin…”

Bà già đập mạnh tay xuống bàn, quắc mắt nhìn ông.

“Anh thực sự muốn biết làm thế nào tôi dám chắc Robin là nạn nhân của một con quái vật hả?”

Genko không đáp.

“Bằng kinh nghiệm của mình, tôi biết Robin Sullivan là một đứa trẻ bình thường trước lúc mất tích. Có thể hơi cứng đầu một chút, giống như hầu hết những đứa trẻ bị bỏ bê, nhưng nó bình thường. Sau những ngày kinh khủng mà nó không muốn kể lại ấy, nó đã thay đổi. Anh đã đọc hồ sơ của nó, anh hiểu tôi muốn nói gì.”

“Pica, đái dầm…” Bruno liệt kê, nhớ lại những ghi chép ngắn ngủi mà đặc vụ Berish đã đọc cho mình qua điện thoại.

“Thằng bé ăn đất, đá vụn, giấy vệ sinh. Chúng tôi đã phải giám sát nó không rời mắt, và đưa nó đi súc dạ dày sáu lần. Rồi nó chuyển sang ăn côn trùng.” Bà thở dài khi nhớ đến đó. “Thậm chí nó còn không kiểm soát được cơ thắt hậu môn, như một đứa bé mới đẻ. Chúng tôi buộc phải cho nó mặc tã, điều đó không giúp ích gì cho mối quan hệ giữa nó và những đứa trẻ khác: Chúng trêu chọc Robin và đánh thằng bé.”

Đứa yếu nhất trong số những đứa yếu ớt, Genko thầm nghĩ.

“Robin có thu mình lại và thích cô độc hay không?”

“Ngược lại, Robin biểu lộ những cảm xúc nhiễu loạn ngay từ khi mới về với chúng tôi.”

Genko nhớ đến sự thiếu ức chế tình dục được ghi trong báo cáo tâm lí.

“Ý bà là sao?”

“Thằng bé luôn tìm kiếm sự tiếp xúc thân thể với người khác. Đầu tiên là các thành viên trong gia đình, sau đó là những đứa trẻ khác tại trang trại. Ngay cả tôi và chồng tôi… Nhưng trong hành động tìm kiếm sự yêu thương của nó có gì đó không lành mạnh. Trong những động tác của Robin có một sự xấu xa khác thường đối với một đứa trẻ ở độ tuổi của nó.”

“Phải chăng vì thế mà bố mẹ của Robin không muốn chăm sóc cậu ta nữa?”

Tamitria nhìn ông chằm chằm.

“Bóng tối đã tiêm nhiễm vào thằng bé.”

Một lần nữa, Genko rùng mình. Bóng tối đã tiêm nhiễm vào thằng bé, ông nhẩm lại trong đầu, ghi nhớ câu nói này, đoan chắc nó là chìa khóa tiếp cận thế giới bí ẩn của Robin.

“Tôi xin lỗi vì đã khơi lại những ký ức không vui,” ông nói sau khi nhấp môi món cà phê dở tệ, “nhưng, như bà cũng hiểu, cơ quan chúng tôi sẽ rơi vào một tình thế không hay ho lắm nếu như hóa ra chúng tôi đã bỏ qua một vụ bắt cóc trẻ em khác.”

“Thế anh còn muốn biết thêm gì nữa?” Tamitria bối rối hỏi lại.

“Báo cáo đánh giá tâm lí Robin Sullivan có ghi nhận cậu bé bị rối loạn giấc ngủ.”

“Ý anh là nó mơ thấy ác mộng chứ gì.” Bà giễu. “Tôi không thể hiểu nổi tại sao một số bác sĩ sính dùng từ ngữ đao to búa lớn để miêu tả một thứ đơn giản đến thế.”

“Có gì lặp đi lặp lại trong những cơn ác mộng của Robin không?” Genko hỏi dồn.

“Trẻ con sử dụng những giấc mơ để nói về thực tại. Mỗi khi chúng cảm thấy khó chịu hoặc hổ thẹn, chúng gọi đó là một giấc mơ.”

Genko đã nhận ra sự né tránh của Tamitria Wilson.

“Robin đã vẽ sau khi thức dậy.” Ông nói thêm và chờ đợi phản ứng của bà già. “Trong những bức vẽ này, con người trông giống như những con thỏ.”

Bà già nhìn ông chăm chú một lúc.

“Muster này, tôi biết vì sao anh tới đây tối nay rồi.”

Genko bỗng cảm thấy sợ rằng bà ta đã nhận ra chân tướng của ông.

“Thế ạ?” Ông hỏi với vẻ mặt thích thú, cố gắng giữ sự bình thản.

“Phải.” Tamitria đáp với giọng nghiêm túc. “Có lẽ đã đến lúc cho anh gặp Bunny.”