Phần 5
Và ba tháng qua, bằng một quyết tâm phi thường, một ý chí không hề lay chuyển, cộng với sự thông minh, lỳ lợm, Thắng đã thực hiện được ý đồ của mình. Phần nào, anh còn giúp được cả cho Huy một cách đắc lực và có hiệu quả. Hôm nay, cơ cấu hàng của họ đã chuyển đổi xong. Thắng tin rằng với cơ cấu mới này, mỗi thứ không quá một đơn vị như quy định, Hải quan Nga sẽ bó tay, không còn bắt bẻ anh vào đâu được. Và để chứng tỏ sự chủ động, thế thắng của mình, Thắng không chỉ đi gửi hàng mà anh còn bầy thêm ra một trò chơi cao thượng nữa, một ý mà chưa ai từng làm là mua hoa tặng bà thiếu tá. Theo kế hoạch, Thắng sẽ gửi trước. Nếu mọi việc trót lọt (Thắng tin là mọi việc phải như thế). Tuần sau sẽ đến lượt Huy.
Phần thủ tục kê khai giấy tờ đã xong. Cả bà thiếu tá Natalia, đại uý Ivan lẫn Thắng và Huy đều cảm thấy vui vẻ, thoải mái. Qua những lời hỏi han, đối thoại, bà thiếu tá như hiểu và cảm thông với hoàn cảnh cũng như số phận của những người Việt Nam ở đây. Mối cảnh giác, hoài nghi trước việc có người đem tặng hoa mình dường như bị đẩy lùi và đánh tan trong lòng bà. Tâm hồn thư thái, mát dịu như người phát hiện được điều gì mới mẻ bà nghĩ "Họ cũng có những điều hay đấy chứ! Đâu phải như ta vẫn nghĩ bấy lâu nay".
- Hàng các anh đã chuyển đến rồi chứ. Bà ân cần hỏi.
- Dạ, đã chuyển từ chiều qua, thưa bà! Xin mời bà qua phòng kho để kiểm tra. Thắng vẫn giữ vẻ lịch sự đáp.
- Thế thì ta sang đi! Hy vọng mọi điều đều tốt lành.
- Tất cả sẽ tốt lành, thưa bà. Thắng đế thêm.
Hai cánh cửa kho được một nữ công nhân cao lớn mở ra. Toán người chậm rãi bước vào một khoang nhà rộng mênh mông, giữa lòng có đường ray chạy qua. Hàng kiểm tra xong, được xe lửa chở thẳng ra cảng.
- Thùng của anh đâu? Bà Natalia hỏi.
- Thưa bà đây!
Thắng vừa trả lời, vừa chỉ vào một chiếc hòm gỗ thông bào nhẵn nhụi nằm bên dãy hòm đủ quy cách. Sắc gỗ hồng tươi của loại thông đã đập ngay vào mắt bà thiếu tá. Chắc chắn đây là lần đầu tiên, bà thấy một chiếc thùng tầu biển của một cá nhân được đóng cẩn thận, trau chuốt đến thế. Những chiếc đinh được tán rất đều. Nẹp sắt tây sáng choang. Cánh cửa lắp bản lề cối. Một thanh sắt to bản được lắp khoá rất an toàn tiện lợi. Nhưng điều làm bà sửng sốt hơn là kích cỡ của hòm vượt quá sự tưởng tượng của bà về số hàng của một cá nhân chứa trong đó: nó đã dài, lại rộng và cao, lù lù như một toa xe điện ở nhà kho.
- Ôi! Ôi!... Bà xuýt xoa kêu lên. Lạy Chúa tôi, cái gì thế này! Người bạn khốn khổ của ta ơi, người không gặp may rồi! Bà như người hoa mắt với cảm giác của người bị bỏ bùa mê, thuốc lú suốt từ sáng đến giờ. Nhưng dù sao mối cảm tình với người gửi chưa bị đánh tan ngay, khiến bà thốt lên một câu mà ý nghĩa vẫn nặng về tâm sự hơn là câu hỏi của nhà chức trách. Tiền đầu ra mà "mày" mua đồ chứa trong chiếc hòm lớn thế này?
Tiền đâu ra? Tiền đâu ra ư? Câu hỏi thân tình mà thẳng thắn của bà thiếu tá có thể nói thật không dễ trả lời đối với rất nhiều người trên toàn thế giới chứ phải riêng đâu một mình Thắng. Anh thoáng một chút lúng túng và đỏ mặt lên. Nhưng rồi những ký ức chưa xa dồn dập hiện về. Những ký ức nóng bỏng đó đã giúp Thắng trả lời bà thiếu tá vừa lịch sự, vừa có lý:
- Tiền đâu ra ư, thưa bà! Đặt chân lên đây, tôi mới thấm thía rằng ở nước tôi, ở đây, hay ở bất cứ nơi nào trên trái đất này, kiếm được đồng tiền mà không phải là tiền ăn cắp quả thực không dễ dàng, đơn giản một chút nào...
Những người xung quanh mà Thắng biết, trong đó có cả những cán bộ trung cao có tý chức quyền, họ cũng phải chắt chiu từng đồng xu nhỏ. Chỉ một cái xương bò, họ ninh đi ninh lại đến hết tuần rồi thả mỳ thanh vào làm phở, loại này ở đây chỉ rẻ bằng một phần mười gạo. Thấy Thắng cười, họ đã phân bua rằng "Về chất hơn hẳn phở ở nhà. Xương thực nhé! Chứ ở nhà chỉ có mỳ chính, nước hàng và tý gừng". Sau mỗi đợt gửi hàng, số cán bộ sắp về, người nào cũng xanh rớt như tàu lá. Các khoá sau, rút kinh nghiệm, phải có nghị quyết, không được ăn uống dưới hai mươi phần trăm mức lương trợ cấp mà bạn đài thọ. Thắng đã từng biết, có những nghiên cứu sinh, giai tầng quý giá nhất của lớp trí thức đã phải vận dụng chất xám của mình nghĩ ra trăm phương, ngàn kế để tiết kiệm. Một trong những sáng chế đặc sắc nhất là mua loại chè hoà tan bao trong các gói giấy nhỏ rồi về nhà buộc thêm một sợi chỉ vào. Mỗi lần pha, cầm đầu sợi chỉ nhứ nhứ vào nước một lát, thấy nước đổi mầu là vội rút lên ngay, treo vào một cái đinh đóng sẵn trên tường. Khí hậu hanh hao nên chỉ một lúc là túi chè khô lại ngay. Người ta sử dụng một lần, nhưng nhờ có "phát minh khoa học" này, có thể dùng tới sáu bẩy lần. Thời gian học tập ở nước ngoài, ít nghiên cứu sinh nào thoát được không phải đi lao động trong những ngày hè, thậm chí cả những ngày đông ngắn ngủi. ở thành phố Lêningrát này có một nhà máy phế liệu mang một cái tên rất có ý nghĩa: nhà máy Vô Sản Đỏ. Nhà máy chỉ có một công đoạn công nghệ đơn giản duy nhất là nghiền giẻ rách, quần áo cũ cho tơi ra rồi đánh thành từng đống lùm lùm. Mỗi công lao động được thù lao từ năm đến bẩy rúp, tuỳ thuộc vào số "mả" sắp được và phụ thuộc cả vào người đàn bà xồ xề ghi sổ chấm công. Đa số công nhân chính thức ở đây là nạ dòng, người to và nhếch nhác. Rất khó xác định tuổi, mặc dù họ không quá bốn mươi. Nhưng để mọi việc suôn sẻ, dễ dàng và tỏ vẻ thân mật, hữu nghị đoàn kết, các nhà khoa học Việt Nam rất khoái chí khi được những người đàn bà xồ xề, nhếch nhác, ngang tuổi với mình xưng là "mẹ" và sẵn sàng tuân lệnh khi nghe nói "Các con thân yêu ơi, hãy làm việc đi con!". Hoặc "Các con bé bỏng của mẹ, đến giờ nghỉ rồi đấy!". Cái hài và bi thường đi liền với nhau như vậy. Những ngày đầu, Thắng nghĩ, rồi có lẽ mình cũng phải chắt chiu, ky cóp như họ. Nhưng ở Thắng, ngoài những tính cách bình thường như mọi người, anh còn có một phẩm chất đặc biệt. ấy là sự nhạy bén khác thường. Một lần, qua cửa hàng đồ cũ. Thắng ngạc nhiên thấy chiếc mũ lông không có gì đặc biệt lắm mà giá hơn cả chiếc ti vi mầu. Còn chiếc pantô nữ như được may bằng những tấm da chuột lớn đắt bằng chiếc xe du lịch loại sang. Anh cứ ngẫm nghĩ hoài về sự vô lý đó. Và đột nhiên, một chi tiết trong một cuốn sách mà anh đọc từ thời còn ấu thơ bỗng hiện ra như một hàng chữ nổi trước mặt anh. "Con rái cá cuộn mình ngủ ngon lành trên một chạc cây. Nó không biết rằng bộ lông mượt mà của nó hoàn toàn xứng đáng được khoác trên vai, trước ngực các vị vương công, hoàng hậu có tên tuổi nhất ở châu Âu. Ôi cái bộ lông bóng mượt kỳ diệu ấy không chỉ là nỗi thèm khát của cánh thợ săn mà còn là sự đố kỵ, ghen tức của các ông hoàng và bà chúa nữa". Ôi, lông thú! Lông thú, cái thứ mà chưa một người Việt Nam nào ở đây nghĩ đến, bỗng trở thành một mắt xích quan trọng nhất trong khát vọng đổi đời của Thắng. Không ngày nào, anh không lai vãng đến các cửa hàng chuyên bán quần áo mùa đông. Anh ngắm nghía hàng giờ các mẫu quần áo, mũ mãng được may bằng đủ loại lông thật, giả. Thắng đã hoa mắt, lặng người đi khi đọc vào tấm bìa móc kèm với một chiếc áo khoác. Cái thứ lông không hơn lông chuột đực bao lăm mà đắt bằng chiếc xe hơi loại sang thì cũng kỳ lạ thật. ồ, giá mình có một chiếc áo bằng da hổ hoặc da báo chẳng hạn, nhất định phải ăn đứt chiếc áo này. Mà phần lót, không phải bằng sa tanh hoá học, mà mình "chơi" hẳn loại gấm Tứ Xuyên của Tàu. Từng là kỹ sư công nghệ, Thắng biết từ nguyên lý đến kỹ thuật chế tạo là một khoảng cách rất xa, xa có khi không thể với tới được. Ví như việc chế bom nguyên tử chẳng hạn, nguyên lý chế tạo thì sách giáo khoa của học sinh lớp mười đã in rất đầy đủ. Nhưng hỡi ơi, chế tạo một quả bom nguyên tử đâu phải nước nào cũng làm được. Một chiếc áo lông thú, nguyên lý đã thật sáng tỏ rồi. Nhưng còn kỹ thuật thuộc và cắt may? Điều này phải được tính toán kỹ. Nghĩ tới đó, Thắng chợt nhớ ra những sinh viên Mông Cổ mà chế biến lông là nghề nghiệp từ ngàn đời của họ. Và quả như Thắng đã tính đến, kỹ thuật may đồ da lông thú phức tạp vô cùng. Không thể dùng kéo cắt vải mà phải có một loại dao chuyên dùng. May bằng máy là trò ngớ ngẩn mà chỉ có thể khâu bằng tay. Việc chọn da, chắp theo chiều lông, để các đường may lẫn vào trong, chứ không "nhe" ra như đường chỉ trên quả bóng đá là một nghệ thuật rất điêu luyện, tinh vi. Hiểu biết mới này làm Thắng hoàn toàn chán nản. Nhưng bản chất "lỳ" trong con người anh không chịu buông ra ngay.
- Thế mang lông thú sang đây may có được không?
Nhiều sinh viên Mông Cổ cười rộ lên trước câu hỏi dường như "ngớ ngẩn" đó của Thắng.
- Được! Có thể! Có thể!... Một sinh viên nhỏ bé, hao hao như người Việt Nam ra chiều an ủi.
- Thế sao chúng mày lại cười?
- Vì nó cũng có thể biến mất! - Một sinh viên to béo mặt đỏ lự, đôi mắt ti hí rất tinh ranh nói thêm.
- Sao lại có thể biến được? Và biến đi đâu chứ?
- Biến vào lửa! Vẫn người sinh viên mắt ti hí vừa giải thích, vừa huýt sáo và làm một động tác khoát tay rất vui nhộn. Đó là nguyên tắc. Nguyên tắc kiểm dịch giữa các nước. Mang da, mang lông cũng có nghĩa là đem súc vật vào nước người ta, hiểu chưa? Nguyên tắc là phải ném và lửa, hiểu chứ! Còn cũng có thể nó được ném vào chỗ khác... Nhưng cái chính là biến!... Nhóm sinh viên Mông Cổ lại cười rộ lên trước vẻ mặt buồn xỉu, thất vọng của Thắng.
Nhưng Thắng vẫn không chịu từ bỏ khát vọng của mình. Ngay ngày thứ hai của dịp nghỉ phép, Thắng đã vội vàng sục đến các cửa hiệu bán chim thú nhồi mà anh nhớ lại được ở Hà Nội.
Qua bao sự lần mò, chỉ trỏ, dẫn dắt, Thắng mới tìm mua được hai con da lông, một báo sao, một báo gấm. Da hổ có nhiều, nhưng theo sự phân tích của cánh thợ trong nghề cho biết, lông hổ vằn, cứng và ngắn. Da hổ dầy, chỉ nhồi thì đẹp, chứ kỹ thuật thuộc của ta chưa cho phép xử lý mềm đến mức có thể lên áo được. Việc đem thuộc hai tấm da cho đặt yêu cầu cũng là một kỳ công. Nhà máy da không nhận thuộc cho cá nhân. Mà làm ngoài thì chắc chắn thiếu hoá chất, không đảm bảo độ bền của lông. Lại phải chạy chọt, làm quen để đi lối cổng sau. Một tút thuốc ngoại, với ít đồ dùng từ Tây đem về, mỗi thứ một đơn vị, hai tấm da cuối cùng cũng được thuộc rất mềm, độ bám của lông đạt tới mức lý tưởng. Thắng căng hai tấm da lên cửa sổ, ngắm nghía suốt ngày, khách ra vào bất chợt, giẫy nẩy mình vì những đốm sao và những vệt vằn vện trên hai tâm da lông. Còn thằng con Thắng thì những tối mất điện không dám lại gần nữa vì sợ những cái vuốt nhọn còn bám chặt ở chân hai con dã thú.
Vấn đề tìm ra một người thợ thực thụ còn khó khăn hơn. Đến các hiệu may có tiếng, vị nào cũng khoác lác may được - "Với giá thật mềm bằng hai chiếc xe đạp loại tốt". Nhưng đến khi, các vị lòi ra cái đuôi dùng kéo để cắt thì Thắng đành ngán ngẩm mà cao chạy xa bay. Hai tháng hè trôi nhanh vùn vụt với bao nhiêu việc không tên bộn bề, Thắng đã tính tới mức liều, cuộn tròn bỏ vào va ly. Giữa lúc đó, Thắng được một bác thợ giầy ở đầu phố mách cho một người có thể giúp Thắng được.
- Tôi cũng bôn ba dăm bẩy năm ở xứ người, học được cái nghề may da thú. Nhưng đến khi về nước mới thấy là hỏng. Nước mình nóng và ẩm, không thể xài các thứ đó được. Người thợ già, còm nhom, ở trên một căn gác xép tự giới thiệu với Thắng. Rồi như sợ anh không tin, ông lấy ra một tập an bom cũ, mốc lên vì ẩm. Nhưng những tấm ảnh chụp từ mấy năm trước bằng loại giấy các tông sần rất bền màu đã chứng minh được điều đó. Anh vừa là người biết chơi lại gặp may đấy! Tôi mà chết thì ở nước này không còn ai có thể làm được nữa đâu.
- Vâng, thưa bác, thật là quý hoá quá! Bác cứ giúp cháu. Công xá bao nhiêu cũng được!... Vấn đề chính là cái áo phải là một tác phẩm nghệ thuật ạ!
- Cách đây mấy năm, tôi chỉ may một chiếc gilê bằng da mèo rừng. ấy thế mà thằng cháu mang sang Đức cũng đổi được về cái Simsơn đấy! Ông già vẫn kể kà kê. ở ta, cái của này chả có ai biết tới. Chứ ở Tây, đồ da, đồ lông quý như vàng.
- Vâng, cháu hiểu ạ! Thắng chỉ cốt ông vào việc.
- Đã thế thì được! Tôi sẽ may cho anh một chiếc Bludông thụng. Anh hiểu chứ! Bludông thụng thì to nhỏ, ai cũng có thể xỏ tay được... Vì tôi biết, chẳng phải để anh mặc... mà chắc chắn là để đẩy đi thôi! Khà! Khà! Được chứ?
Quả như lời ông già nói, Thắng đã gặp may. Chiếc bludông ông lên thật không chê vào đâu được. Phần trên bằng da báo nâu sẫm với những mảng vằn vện. Phần dưới lông vàng rộm với những đốm sao đen nhánh rất đẹp mắt. Dưới cổ, trong lần lót bằng gấm mỡ gà còn được gắn một cái mác đồng chính hiệu Paris tháo từ một chiếc áo bludông bằng nhung cũ ra. Giữa cái nóng mùa hè nhiệt đới 37oC - 38oC, Thắng súng sính khoác chiếc bludông da báo vào, mồ hôi toá ra đầy lưng, đầy ngực mà lòng mát mẻ như ở non tiên. Anh không ngần ngại dúi vào tay ông thợ chiếc nhiễn hai chỉ vàng chín tám. Ông già cười như mếu, bảo:
- Anh là người biết chơi đấy! Sang đó, nếu không được nửa cái ôtô, anh cứ mang về... Tôi đã từng ở Pháp ở Đức hồi trước thế chiến hai, tôi biết.
Tiền đâu ra? Tiền đâu ra ư? Lẽ ra Thắng còn có một khoản chênh lệch lớn nữa. Nhưng anh cũng không phải là kẻ ích kỷ, tham lam. Nhất là đối với Huy, Thắng coi Huy vừa là bạn vừa như là em ruột trong gia đình. Những giờ lên lớp trên Viện bảo tàng tranh, rồi những buổi tham quan chơi bời tiếp theo đã giúp Thắng phát hiện ra một quân chủ bài lớn nữa. Đó là những chuỗi hạt trai trang điểm quanh những chiếc cổ cao, thả trước những bộ ngực phập phồng đầy đặn của các công nương quý tộc được các danh hoạ thời kỳ Phục hưng thể hiện tài tình, sống động trong các bức chân dung. Lục địa châu Âu có Đại Tây Dương, vùng biển Bắc rồi biển Đen, biển Đỏ, nhưng giống trai có ngọc chỉ có ở một số vùng biển châu Phi và Việt Nam. Thắng đã thử đem chuyện ngọc trai ra hỏi đùa các cô gái cùng lớp, thậm chí đến cả các bà giáo, họ đều cảm thấy xa vời và huyền diệu như trong các truyện cổ tích. Hạt trai và chuỗi hạt trai cũng sẽ là một mặt hàng được giá đấy. Anh nghĩ thế và đã nhường con át chủ bài này cho Huy. Nhưng chuyện này, Huy cũng như ở trên mây rơi xuống, cậu ta không tin lập luận của Thắng là hiện thực. Đến nước đó, Thắng có thể yên tâm giữ lại con chủ bài của mình. Nhưng hai đứa cùng về phép với nhau, chả lẽ khi mình sang thì giầu có còn bạn chả có gì. Một vài chiếc quần áo bò với cái đồng hồ, thậm chí cho tới cát sét cũng chả giải quyết được vấn đề gì. Nó cũng có khát vọng đổi đời lắm chứ. Suốt những năm dài chiến tranh, nó làm lính cầm súng. Năm 1972 suýt nữa bỏ xác ở chiếc máy xay thịt khổng lồ Thành Cổ Quảng Trị. Lá phổi bên phải còn hai mảnh đạn chưa được lấy ra. Một thằng hiền như con gái, gặp tý khó khăn, trắc trở là đã run lên, mồ hôi vã ra. ấy thế mà đã từng làm lính bộ binh đến tám năm trời thì cũng lạ. Vợ Huy là một người đàn bà hết sức tình cảm. Nhưng mấy chú em của chị ta thì thật là "rách trời rơi xuống". Một đứa làm nghề đánh xe ngựa. Đứa có cái máy kéo Công Nông. Rượu vào cả xóm phải sợ. Hai đứa đã từng vác dao đuổi nhau khắp các ngõ ngách trong vùng. Đã bao năm Huy ước mơ có một nếp nhà, dù chật chội nhỏ bé đến mấy đi nữa cũng được, cũng còn hơn cảnh "Chó chui gầm chạn" ra vào cùng một nhà với mấy ông đầu gấu. Nhưng tổng cộng, cả trợ cấp thương tật còn chẳng đủ ăn, nói chi đến chuyện đất với nhà. Chờ được phân phối ư? Hãy đợi đấy! Mới chuyển ngành ra được bố trí việc làm đã là may lắm rồi. Vả lại dù có chui ra, chui vào "gầm chạn" cũng còn hơn khối người phải nằm trên bàn làm việc ở cơ quan. Hoàn cảnh Huy như thế, Thắng bo bo một mình sao đành. Cuối cùng Thắng phải thuyết phục: "Làm ăn cũng phải có đầu óc lãng mạn một tí chứ. Cứ một với một là hai chỉ có ăn cháo thôi. Nhưng nếu mày không dám thì tao ưu đãi cho điều kiện thế này. Cứ mua đi, nếu sang đó "thắng" thì mày hưởng cả. Rủi mà "bại" thì tao sẽ "bù" chênh lệch cho mày". Chỉ với điều kiện như thế, Huy mới dám "liều". Đã không "chơi" thì thôi, mà "chơi" phải "chơi" cho độc đáo khác lạ và hấp dẫn - đó là phương châm của Thắng. Suốt cả hai tháng hè, Huy đi lùng được vài chục chuỗi hạt trai mà Thắng cũng không vừa ý. Cuối cùng Thắng phải trực tiếp mó tay vào, mua gộp hai chuỗi, đem đến nhà một nghệ nhân, đặt ông sửa chữa, gia công lại thành một chuỗi kép. Khoá để tháo ra, mắc vào cũng phải được khảm bạc với những đường hoa văn cầu kỳ. "Tất cả phải được toát lên như một tác phẩm nghệ thuật".
Tiền đâu ra? Tiền đâu ra ư? Phải, điều rụt rè của Huy không phải là không có cơ sở. Những chiếc quần bò, áo phông với những đồng hồ Citizen mười hai hạt, chỉ hôm trước hôm sau là giải quyết xong. Còn chuỗi hạt trai của Huy và chiếc bludông da báo của Thắng, ai được ngó qua cũng lắc đầu lè lưỡi. Một thiếu nữ Hải quan mới ra trường mở vali của Thắng ra kiểm tra, đã giật nẩy mình khi trông thấy những lốt vằn vện và những đốm sau trên chiếc áo da. Đến khi Thắng cười và giải thích để cô ta yên tâm rồi thì bàn tay mềm mại, trắng như ngọc của cô cứ vuốt ve một cách âu yếm như vuốt trên lưng một con mãnh thú đã được thuần dưỡng. Quý thì quý thật, đẹp và độc đáo có một không hai. Nhưng vấn đề "đầu tiên", cốt tử nhất để thích được là "tiền đâu" thì họ đều nhún vai, lắc đầu. Mà chuyện đem bán thì có công khai được đâu. Đối với bạn, phải giữ kín một trăm phần trăm đã đành, còn đối với người Việt Nam, cùng cảnh ngộ, cùng khát vọng mà cũng phải bí mật như hoạt động tình báo. Nhiều chuyện chẳng đâu vào đâu cũng hành hạ, tra tấn nhau đến buốt đầu. Chỉ sắc bén, thông minh thôi ư, cũng chưa đủ để kiếm được đồng tiền, dù là đồng tiền ở xứ sở Thắng đã từng coi và mơ ước như thiên đường. Đồng tiền kiếm được nhiều khi còn phụ thuộc vào vận may nữa. Nhưng có được dịp may là quý lắm nhưng vẫn chưa đủ, còn phải có cái duyên, cái duyên của người biết chinh phục, làm cho giới khác say mê nữa. Giá như hôm đó Thắng không về kịp, chắc chắn chuỗi hạt trai của Huy sẽ phải quay về, làm đồ trang sức không thích hợp cho "mẹ sề", vợ Thắng ở nhà và chiếc bludông da báo của Thắng cũng sẽ phải "cưa đôi" như lời cam kết lần thứ hai, nếu chuỗi hạt trai không giải quyết được.
Nhưng trong cái rủi cũng có cái may. Hôm đó, tiết học cuối cùng nghỉ, sau giờ giải lao, nhóm của Huy được ra về. Anh lang thang dạo quanh các cửa hàng hy vọng mua sắm được cái xe đạp hay một thứ đồ điện. Hàng hoá dường như mỗi ngày một khan hiếm. Đặc biệt những thứ Việt Nam cần rất khó mua. Anh em ở đấy vẫn thường gọi đùa những chuyến săn lùng hàng hoá là "Đi hoạt động cách mạng". Huy hết chuyển từ xe buýt xuống tầu điện ngầm lại ngồi lên chuyển qua xe điện bánh hơi. Từ trung tâm bách hoá này đi tắt qua mấy phố đến các cửa hàng đồ điện chuyên dùng rồi lại hăm hở lên xe đến trung tâm bách hoá khác. Huy đang ngán ngẩm vì đi suốt nửa ngày không thu được kết quả gì, bất chợt nghe tiếng gọi giật giọng:
- Này, anh bạn trẻ! Lại đây! Lại đây!...
Giọng của người miền núi, phía nam, nói tiếng phổ thông còn lơ lớ nhưng rất dịu ngọt, ấm áp.
Huy quay lại. Một cặp vợ chồng (chắc vậy), quãng ba mươi ngồi trên chiếc ghế băng dài, trước cửa một trung tâm bách hoá lớn. Người đàn ông đậm đà với hàng ria mép đen nhánh, chiếc mũi diều hâu cao và nhọn hơi quặp xuống, đôi mắt đen hoang dại. Người đàn bà tóc đen, mắt đen, da cũng hơi ngăm ngăm đen nhưng tỏ ra linh lợi sắc sảo dưới nếp khăn sặc sỡ kiểu dân tộc, trùm hờ trên mái tóc.
- Mày có gì bán không? - Huy quay đến, vừa đứng trước mặt thì người chồng từ tốn hỏi.
Huy im lặng lắc đầu.
- Đừng sợ! Ngồi xuống đây! - Người chồng nắm tay Huy kéo anh ngồi xuống ghế.
- Chúng tao vừa thu hoạch nho... Mày hiểu rừng nho ở xứ sở "chúng tao" chứ! Vừa nói, người chồng vừa đưa ngón tay cái ra, làm điệu bộ chứng tỏ cho lời nói của mình. Chúng tao có tiền và cần phải tiêu.
- Rất tiếc là tôi không có gì để bán cả. Huy thành thực đáp.
- Ê, mày nói dối! Chúng tao cần mua thật mà. Cái gì chúng tao cũng mua. Mày cứ mở cặp ra đưa chúng tao xem. Người vợ hăng hái nói thêm.
- Thế ngọc trai, các người có thích không? Huy chợt
nhớ ra.
- Ngọc trai là gì nhỉ? Người chồng quay sang hỏi vợ.
- Tốt nhất là mày cứ đưa chúng tao xem. Đừng sợ. Người vợ tỏ ra khôn ngoan hơn.
- Ngọc trai là gì mà không biết làm sao mà mua được! Thế các người đã vào các bảo tàng tranh ở thành phố này chưa? Huy chợt nhớ ra xuất xứ của vấn đề Thắng đã bày cho mình. Ngọc trai là đồ trang sức quý như vàng và bạch kim ấy! Nó được kết thành một chiếc vòng, đeo trên cổ phụ nữ.
Hai người cùng trố mắt ra nghe những lời giải thích của Huy. Chợt người đàn bà reo lên.
- Tao hiểu rồi. Nó là sinh vật ở dưới biển. Người ta vớt lên. ở ruột nó có những viên ngọc... ồ, cái đó quý lắm.
- Đúng! Quý lắm! Chỉ dùng cho các nữ quý tộc thời xưa. Huy nói chen vào.
- Đâu, mày đưa ra đây! Chúng tao mua. Chúng tao có tiền. Định mua ôtô nhưng nhà đã có hai chiếc rồi. Người chồng giục cuống quýt.
- Nhưng tao không mang theo người. Tao để ở nhà. Để ở ký túc xá cơ.
- Có xa không? Người vợ đắn đo hỏi.
- Xuống xe điện ngầm chừng mười lăm phút. Rồi chuyển qua ôtô buýt đi nửa giờ nữa.
- Thế thì đi! Người chồng quả quyết. Nhưng đi tắc-xi cho nhanh.
Huy đang ngần ngừ không biết có nên đưa họ về chỗ mình ở không thì người chồng nói tiếp:
- Chúng tao trả tiền tắc-xi, mày đừng lo.
Hai mươi phút sau, cả ba đã có mặt ở ký túc xá, trong phòng ở của Huy. May quá, ông bạn Tây ở cùng phòng không có nhà. Huy lịch sự mời hai vợ chồng cởi áo khoác ngoài treo vào móc. Rồi anh mở tủ lấy vali quần áo của mình ra. Người vợ chăm chú theo dõi, chị ta ngạc nhiên thấy Huy rút ra một chiếc hộp mầu trắng ngà từ túi một chiếc quần có vẻ cũ kỹ. Huy mở hộp, một chuỗi hạt trắng muốt hiện ra trước những đôi mắt đen hoang dại của những người miền núi giầu có.
- Ôi đẹp quá! Thật là tuyệt vời. Người vợ thốt lên. Người chồng dùng những ngón tay nâu rám, tròn trịa và cứng cáp cầm chuỗi hạt đưa lên ngang mặt ngắm nghía. Rồi anh ta mở khoá, mắc vào cổ vợ. Những viên ngọc trai mát rượi quấn quanh chiếc cổ tròn, nâu nâu của người phụ nữ. Chị ta hơi lim dim cặp mắt đen ra chiều sung sướng lắm. Rồi chị chạy bổ lại bên chiếc gương lớn, đối diện với chỗ treo quần áo khoác. Hết nhìn thẳng, lại nhìn nghiêng không giấu được vẻ sung sướng đến ngây ngất. Người chồng tiến lại gần, không ngắm chị ta trực tiếp mà lại nhìn hình dáng vợ ở trong gương.
- Giá bao nhiêu? Người vợ lên tiếng khi cả hai trở lại ngồi xuống chiếc giường đệm lò xo mút của Huy.
- Bốn ngàn! Huy đáp gọn lỏn.
- Đắt thế! Hai hoặc cùng lắm là ba được không?
Người vợ mặc cả một cách rụt rè.
- Có thể thấp hơn một chút, nhưng không thể ít hơn ba ngàn rưỡi được. Huy tỏ vẻ kiên quyết.
- Ba ngàn rưỡi! Mày biết một chiếc ôtô chỉ có tám ngàn thôi không. Bằng nửa chiếc ôtô cơ à? Người vợ bắt đầu
lý sự.
- Ôtô là cái gì? Cái này còn quý hơn ôtô ấy chứ!
Huy không biết lý giải thế nào cho người vợ hiểu.
Trong khi đó, người chồng vẫn im lặng. Khuôn mặt tròn của anh ta với cái mũi mỏ diều như tạc bằng một thứ gỗ nâu rắn chắc. Anh ta đang suy nghĩ rất lung về một khía cạnh khác.
- Thế nào? Ta mua chứ? Người vợ không nhìn chồng, nắm lấy một cánh tay anh ta có vẻ như thúc giục.
- Nhưng làm thế nào để biết được là hạt trai thật
hay là giả? Bấy giờ, người chồng mới thốt lên điều băn khoăn của mình. Thế mới biết, đàn ông bề ngoài trông có vẻ ngờ nghệch, nhưng suy nghĩ bao giờ cũng có phần chín chắn hơn.
- Tao bảo đảm thật một trăm phần trăm. Huy nài nỉ. Mày không tin tao hay sao?
- Tao tin mày! Nhưng cái này có phải tự tay mày làm ra đâu? Mày hiểu chứ? Nhỡ trước đó người ta đã lừa mày mà đến lúc này mày vẫn chưa biết thì sao? - Người đàn ông đưa ra lý lẽ của mình. Lý lẽ đơn giản nhất nhưng Huy không biết làm cách nào để chứng minh là mình đúng được.
- Bây giờ thế này! Thấy Huy im lặng, người đàn ông đưa một giải pháp. Nếu mày đồng ý, chúng tao đưa trước cho mày một nửa tiền cùng với giấy tờ của vợ tao. Còn chúng tao cầm chuỗi hạt của mày. Chúng tao sẽ đi thử. Nếu đúng là của thật chúng tao sẽ trả nốt một nửa số tiền còn lại và lấy lại giấy tờ. Nếu là của giả, mày phải hoàn lại tiền cùng giấy tờ cho chúng tao. Huy suy nghĩ một lát, anh thấy không được. Không phải anh không tin vợ chồng người dân tộc phương nam kia. Huy biết họ là những người rất giàu có, trung thực. Nhưng trong quá trình đi thử, nhỡ xảy ra trục trặc ở một khâu nào đó thì rất gay go. Anh trả lời.
- Không được? ở chỗ thử, người ta sẽ hỏi mày lấy chuỗi hạt này ở đâu? Lúc đó sẽ rất khó khăn cho tao. Mày hiểu chứ, luật pháp ở đây cấm người nước ngoài không được bán bất cứ một thứ gì.
- Nếu vậy chúng tao đành chịu thôi! Đối với chúng tao một số tiền lớn như thế cũng chưa phải là cái gì. Cái mà chúng tao không yên tâm là nỗi thấp thỏm thật giả cứ lơ lửng ở trong đầu. Đó là điều chúng tao không chịu được... Thôi, chúng ta đành tạm biệt nhau vậy. Người chồng đã đứng lên, chìa bàn tay nặng chịch trước mặt Huy. Người vợ như còn chút dùng dằng, luyến tiếc. Huy đành chết lặng, luyến tiếc cơ hội mà hai năm còn lại chắc sẽ không lặp lại. Giữa lúc đó, bên ngoài có tiếng gõ cửa. Tất cả im lặng. Tiếng gõ cửa lại rộ lên, ba tiếng một. Mặt Huy chợt rạng lên, anh vội ra vặn ổ khoá. Thắng xuất hiện đột ngột trước khung cửa. Huy giới thiệu bạn mình với vợ chồng người khách mới quen. Sau khi nghe trình bày phương án của người chồng, cũng như Huy, Thắng thấy lợi ít mà phiền toái chắc chắn sẽ nhiều. Mà cơ hội gặp được người có tiền lại "máu" mua như thế này không phải lúc nào cũng có. Nhưng cái chính là phải làm sao cho họ tin. Phải, đúng thế! Cũng như mình, họ chẳng dại gì lại đi ném tiền vào lửa để sưởi ấm một lúc. Trong đầu Thắng thoáng một phản xạ rất nhanh, khuôn mặt rộng với cái hàm vuông của anh trở nên linh hoạt vui vẻ hẳn ra. Nhìn trên mặt bàn, không thấy có chè nước gì, Thắng tươi cười bảo:
- Anh chị đi đâu mà vội! Hãy uống trà với chúng tôi đã. Rồi đâu sẽ vào đó cả mà - Rồi anh quay lại bảo nhỏ Huy bằng tiếng Việt - Mày hãy chạy nhanh ra cửa hàng ở đầu phố, mua một chuỗi trai giả về đây. Nhớ càng nhanh, càng tốt.
Thấy Huy vớ áo khoác mở cửa bước ra, người chồng ngạc nhiên hỏi:
- Mày đi đâu đấy!
- Yên tâm! Hắn ra cửa hàng mười lăm phút thôi. Chúng ta hãy ngồi uống trà và chờ hắn. Tao sẽ chứng minh cho mày hiểu thế nào là của thật, thế nào là của rởm.
Ba người ngồi vào bàn trà. Người đàn ông mở hộp thuốc lá bằng bạc chạm mời Thắng. Anh cảm ơn và từ chối vì không nghiện. Đúng mười lăm phút sau, Huy thở hổn hển bước vào. Thắng đưa cho Huy một cốc chè đường còn bốc khói. Rồi anh quay về người chồng hỏi:
- Anh không tin là ngọc trai thật chứ? Thắng đổi giọng nghiêm trang dùng từ anh, chứ không dùng từ mày suồng sã như lúc đầu.
- Không phải mình tao, mà ai trong trường hợp như thế này cũng phải đặt câu hỏi nghi ngờ! Anh ta tỏ ra là người biết lý sự.
- Không sao cả! Điều đó là đúng và tốt nữa. Bây giờ tôi sẽ chứng minh cho anh rõ thế nào là thật, thế nào là giả. Anh đồng ý chứ? Còn chuyện anh mua hay không, cái đó không quan trọng. Thắng chậm rãi nói tiếp.
- Được, mày cứ chứng minh đi. Nếu chúng tao tin là chúng tao mua ngay.
- Huy, mở tủ chọn lấy con dao găm lại đây! Thắng chợt quay về phía Huy như ra lệnh.
- Dao găm để làm gì? Người chồng ngạc nhiên và bối rối.
- Không sao! Còn anh tháo chiếc nhẫn vàng đang đeo ở ngón tay giữa ra. Thấy người chồng ngần ngừ, Thắng giục. Anh cứ tháo ra, đặt trên bàn.
Huy mở tủ đem ra đưa cho Thắng một con dao nhọn bằng thép không rỉ sáng loáng. Người phụ nữ mặt tái mét áp sát vào chồng. Còn người đàn ông ngồi im như phỗng.
- Sao các người lại sợ! Chúng tôi có phải là kẻ cướp đâu. Bây giờ chúng tôi sẽ chứng minh cho anh chị rõ. Thắng vừa cười vừa nói để trấn an cho hai vợ chồng và giải đáp cả sự nghi ngờ của Huy. Đây là chiếc nhẫn vàng. Đúng không? Anh cầm chiếc nhẫn to bản, dầy cộp mà người đàn ông tháo ra đặt trên bàn lên. Mỗi cái đều có thuộc tính của nó, thuộc tính càng đặc biệt càng quý. Cái nhẫn này có thể bỏ vào lửa được không? Được, vì nó là vàng. Ngọn lửa là cái để thử cho ta biết vàng thật hay vàng giả. Đúng chưa? Mọi người đều ồ lên nhất trí. Thế còn bây giờ, cái gì sẽ là vật thử để phân biệt ngọc trai thật hai giả? Xin mời các bạn hãy xem đây! Tôi không phải là nhà ảo thuật đâu nhé!
Nói tới đó, Thắng vớ lấy con dao. Anh dùng lưỡi dao bén ngọt gọt một vệt vào cạnh bàn. Cạnh bàn để lại một vết sẹo, anh gọt thêm một đường nữa, vết sẹo thứ hai nổi lên.
- Các bạn thấy chưa? Bây giờ có thể nào xoá được vết sẹo bên cạnh bàn được không? Tất nhiên là không rồi. Vì thuộc tính của bàn là làm bằng gỗ. Còn bây giờ, Huy đưa vòng ngọc trai thật ra đây!
Anh cầm lấy chuỗi ngọc từ tay Huy, anh chọn một hạt to nhất, sáng nhất, sáng bóng. Anh đặt xuống mặt bàn, dùng lưỡi dao bào một lớp, rồi hai lớp trên mặt viên ngọc. Một lớp mùn óng ánh rơi ra. Nhưng viên ngọc lại lành lại ngay, óng ánh như cũ, không hề để lại một vết sẹo nào.
- Các bạn đã xem rõ cả chưa? Viên ngọc trai này do một chất men từ con trai tiết ra, phải vài chục năm mới tạo ra hạt ngọc thế này. Phẩm chất của hạt ngọc là óng ánh trắng, lớp nào cũng như lớp nào, do vậy không để lại dấu tích gì khi vết dao cà vào. Xin mời các bạn xem tiếp.
Thắng lại chọn một viên tiếp theo. Anh lặp lại các động tác ban đầu. Lưỡi dao bào ra những lớp mùn, những viên ngọc không hề để lại một tí vết, lại sáng bóng lên.
- Huy đưa tiếp chuỗi hạt giả mới mua ở hiệu về ra đây! Thắng ra lệnh tiếp cho Huy. Lần này, thay cho chuỗi ngọc thật là chuỗi hạt công nghiệp giả ngọc trai Thắng cầm trên tay. Bây giờ xin các bạn hãy xem đây!
Anh lại dùng dao gọt vào các viên hạt trai giả. Lưỡi dao gọt tới đâu, vết sẹo để lại trên các hạt giả tới đó không cách gì có thể xoá đi được.
Sau mỗi thao tác, Thắng lại dừng lại để giải thích trình bày. Sự tự tin, khúc triết, rõ ràng của anh đã hoàn toàn chinh phục được cả hai vợ chồng người khách lạ.
- Bây giờ tuỳ các bạn. Thắng nói tiếp. Các bạn thấy thích thì mua, không thích, coi như được thêm một bài học mà không mất tiền. Cũng bổ ích thôi.
- Mua chứ! Chúng tao đã hoàn toàn tin rồi. Nhưng giá độ ba ngàn thì tốt.
Bây giờ người đàn ông mới lộ nốt cái đuôi thứ hai. Sự cẩn thận, cân nhắc thường đi đôi với tính so kè, hà tiện.
Huy đã muốn bán ngay, đưa mắt ra hiệu cho Thắng. Nhưng anh thấy đồng ý ngay chưa chắc đã phải là thượng sách. Biết đâu, có thể tạo ra mối nghi ngờ này khác.
- Tôi đã nói ba ngàn rưỡi là ba ngàn rưỡi! Cái gì quý cũng đắt. Chỉ có cái gì tầm thường mới rẻ thôi. Còn nếu ngài (Thắng lại pha trò, đổi giọng xưng hô) thấy tiếc tiền, ngài có thể mua cho vợ chuỗi hạt giả như bạn tôi vừa mua ngoài cửa hiệu đây. Giá chỉ có năm rúp thôi, thưa ngài.
Câu nói đùa của Thắng làm cho người đàn ông đỏ mặt. Bàn tay to, nặng của anh thò vào túi áo ngực rút ra một chiếc ví căng phồng. Bên trong toàn tiền một trăm mới cứng. Để chắc ăn hơn, Thắng ngăn bàn tay cầm một xấp tiền của anh ta lại. Anh hướng về người vợ, vừa cười vừa bảo:
- Hai chuỗi hạt, giữa cái thật và cái giả, chị đeo chuỗi nào, người ngoài sao mà biết được. Nhưng chị có biết vì sao chuỗi ngọc thật lại đắt thế không? Nó quý đã đành rồi. Mà theo như tôi biết, người châu Phi quan niệm rằng, dùng của thật thì hạnh phúc hơn, còn dùng của giả, của nhân tạo, hay gặp rủi ro, bất hạnh lắm!
- Đúng! Đúng! Phong tục chúng tôi đúng như thế đấy. Người vợ vội vã xác nhận.
- Tiện đây, tôi cũng nói thêm, ngọc trai của Nhật Bản hiện bán ở cửa hàng kim hoàn của các bạn cũng vào loại đẹp tuyệt trần. Giá cũng chỉ gấp đôi chuỗi của chúng tôi thôi. Nhưng các bạn nhớ cho rằng, đó chưa phải là ngọc tự nhiên một trăm phần trăm đâu. Người Nhật, mọi cái đều được công nghiệp hoá một cách cao độ. Những con trai được nuôi trong bể kính, được cấy sẵn từ một đến ba hạt cát. Rồi từ đó tạo ra ngọc trai. Hạt trai đó mới là hạt tự nhiên năm mươi phần trăm thôi. Còn lại là nhân tạo. Mà như các bạn biết, đeo chuỗi hạt ấy, người ta dễ dàng nằm giữa sự hạnh phúc và rủi ro.
Huy cũng không rõ Thắng biết những chuyện đại loại như thế từ bao giờ. Nhưng sao lúc này anh thuyết trình hay đến thế, nghe cứ êm như ru bởi một thứ duyên kể chuyện rất lạ lùng. Đôi mắt đen của người phụ nữ cứ mở tròn ra, không chớp.
- Này đây! Đúng ba ngàn năm trăm đồng. Người đàn ông vừa đếm vừa đặt từng đồng một trăm qua bàn tay dày dặn nặng chịch lên mặt bàn.
Thắng không đếm lại. Anh vơ cả đống tiền trao cho Huy, đồng thời bớt lại hai tờ. Anh cầm hai đồng tiền mới còn thơm tho mùi giấy và mực in trao vào tay người vợ.
- Hôm nay, người hạnh phúc nhất không phải là chúng tôi mà chính là chị đấy.
Người phụ nữ cảm động, nắm hờ hai đồng tiền từ tay Thắng. Anh muốn đặt một chiếc hôn lên đôi má bầu bĩnh, rám vân của chị ta. Nhưng chợt nhớ, phong tục của họ đối với phụ nữ còn có điều khắt khe hơn ở Việt Nam, đã khiến anh kịp dừng lại.
- Giá ông không về kịp hôm nay, mọi việc hỏng hết. Sau khi đã tiễn vợ chồng người dân tộc thiểu số lên xe tắc-xi, Huy quay ra nói với Thắng đầy vẻ hàm ơn.
- Khổ quá, chỉ tại đất nước mình quá nghèo thôi. Chứ vợ tao, với vợ mày, chúng nó tội tình gì mà không được dùng những đồ trang sức ấy. Ba ngàn ba rúp cơ? Cũng là to đấy! Nhưng biết đâu mình gánh vàng đi đổ sông Ngô như các cụ thường nói không biết chừng.
Tiền đâu ra? Tiền đâu ra ư? Tháo vát, thông minh kiên trì đeo đuổi và cả có duyên nữa, những phẩm chất ấy đã đủ để kiếm được tiền chưa? Không ai có thể trả lời cặn kẽ được. Chỉ biết ở Thắng, nếu thiếu đi sự quyết đoán nhanh nhạy trong một khoảng khắc nhanh như tia chớp hay thiếu đi sự dũng cảm vô song, chắc chắn những đồng tiền đã trượt khỏi tay anh. Mùa đông năm ấy, mùa đông sau khi Thắng sang trả phép đến muộn hơn mọi năm. Thời tiết ẩm và oi bức một cách lạ lùng. Lớp tuyết rơi xuống hồi đêm sáng ra đã bị tan biến ngay. Tan học, Thắng khoác chiếc bludông da báo được nguỵ trang bằng chiếc vỏ áo Natô bên ngoài, lượn lờ quanh các tụ điểm, nơi tập trung những tay anh chị chuyên phe phẩy buôn bán hàng nước ngoài trước cửa các cửa hàng bách hoá lớn. Đã có một vài khách sờ đến, nhưng họ đều rụt tay và nhún vai vì biết đó là thứ quý hoá, có một không hai. Họ chỉ có đủ tiền gạ mua chiếc Natô khoác bên ngoài.