Chương 4 HAI TẤM PHIẾU
Khi những hành khách và các sĩ quan tập họp tại phòng hút thuốc, đồn trưởng cảnh sát hết sức niềm nở phát biểu ngắn gọn với họ:
- Thưa bà, thưa các ông, các vị đã biết sự kiện bi thảm giải thích sự có mặt của tôi trên con tàu này. Cho đến nay tất cả làm chúng tôi cho rằng thủ phạm không ở trong số các vị và y đã nhảy qua mạn tàu khi đến Stavanger. Thế nhưng có một số thủ tục cần phải hoàn tất và các vị hãy tin rằng tôi cố gắng làm cho những thủ tục ấy đối với các vị thật hết sức nhẹ nhàng. Xin các vị đừng thấy ở đây một dấu hiệu nghi ngờ nào mà nỗi lo lắng duy nhất là cho phép con tàu Polarlys tiếp tục cuộc hành trình của mình. Mong rằng mỗi vị vui lòng trở lại buồng mình để chứng kiến việc khám xét sẽ diễn ra.
Cảnh sát trưởng cũng nói những câu ngắn gọn với các thành viên đoàn thủy thủ và đã lục soát những giường treo, những túi của thủy thủ và những chiếc vali.
Những chiếc Palan đã đứng im. Con tàu chỉ còn đợi cảnh sát cho phép nhổ neo dời bến.
Trong buồng số hai mươi bốn, hai chuyên gia đã xác định tư thế của thi hài và chụp một số ảnh. Rồi cái xác được đặt nằm trên chiếc cáng và được chuyển đi chìm trong sương mù.
Thật khó xử sự tế nhị hơn và làm cho không khí bớt nặng nề. Tuy nhiên, ngay sau những lời nói của đồn trưởng cảnh sát, nhất là sau những lời nói ấy, vẫn có vẻ biểu hiện giả tạo trên những bộ mặt, cả trên nét mặt của Evjen cũng như của viên sĩ quan thứ hai.
Tóm lại, vì người ta không giữ một ai, mỗi người đều có khả năng phạm tội ác. Và mỗi người giữ gìn ý tứ, cố tỏ vẻ hết sức tự nhiên. Petersen có lẽ là người bối rối nhất vì viên cảnh sát yêu cầu ông đi cùng ông ta vào các buồng. Ông ta đòi hỏi bắt đầu từ buồng ông nhằm để làm gương, mở hòm, mở những ngăn kéo bàn giấy nhỏ, cả lật nệm giường của ông.
- Xin cứ tự nhiên - Đồn trưởng cam kết.
Buồng tiếp theo là của Evjen đang đứng đợi ở chân ghế nằm của mình. Tất cả những cử chỉ của ông như của một hành khách trong lúc khám xét của nhân viên hải quan. Ông ta đã lấy những chiếc vali ở lưới đựng hành lý ra và mở khoá. Hai hoặc ba lần, ông gắng cười khi ông chỉ một loạt những vật nhỏ bé bất ngờ.
- Một chiếc kèn Clarinet cho con trai đầu của tôi mười hai tuổi. Hộp đồ khâu này cho con gái tôi sắp bảy tuổi. Đây là những đĩa hát mới phát hành, hàng năm tôi đều mua sắm... Những cuốn sách... Cái này ư? Một việc nhỏ mà vợ tôi trao trách nhiệm cho tôi: tấm vải dầu lót giường cho đứa bé nhất...
- Cho qua. Xin cứ tự nhiên! - Đồn trưởng cảnh sát nói.
Nhưng Evjen trải ra ba bộ complet, một áo smoking, quần áo mỏng, có dấu số và những hoá đơn của hiệu Savoy ở Luân Đôn và của hiệu Majestic ở Berlin.
- Xin cảm ơn ông! Xin ông vui lòng trao tấm hộ chiếu của ông cho thanh tra ở trên kia. Một thủ tục bình thường, phải không? Tất nhiên, ông không lo lắng gì chứ?
- Không chút nào! - Evjen trả lời khô khan.
Buồng tiếp theo trống không. Rồi đến buồng còn để lại những hành lý của Ernest Ericksen, người hành khách mất tích.
- Tôi giữ những thứ này! - Viên cảnh sát nói - Hãy cho đưa những thứ đó lên bờ... Nào hãy xem... Một chiếc túi duy nhất... Một bộ complet cũ... Hai chiếc sơmi.
Thật nghèo nàn. Những quần áo cắt rất khéo nhưng đã dùng nhiều. Không có cả giày để thay đổi.
- Chúng ta chuyển qua buồng tiếp theo...
Katia Storm bắt chước Bell Evjen. Quần áo của cô ta được trải ra trên chiếc ghế nằm và vì đồn trưởng cảnh sát do dự lục soát trong số áo dài và quần áo của cô ta, cô ta tự mình làm lấy, hai bàn tay run rẩy.
Petersen đứng lại ở cửa. Ông cảm thấy bị sỉ nhục đồng thời với một chút lo lắng khó tả. Thế nhưng chính ông lại nhặt lấy chiếc quạt giấy nhỏ màu hoa cà và khẽ đọc: “Kristall Palace. Hambourg”.
- Đêm cuối cùng của tôi ở trên bờ! - Katia cười và nói – Tối qua một giờ ở Kristall vì tôi muốn khiêu vũ
- Một mình ư? - Viên cảnh sát hỏi.
- Một mình, vâng!
Cô ta có ít nhất mười lăm bộ quần áo, tất cả đều có chất lượng cao và thị hiếu tinh tế. Quần áo của cô ta rất đẹp. Hộp dụng cụ bằng bạc chạm trổ. Và vật nhỏ nhất, đồ mỹ nghệ nhỏ xíu cũng cùng loại.
Người ta ghi lại tên những nhà ở đại lộ Opera, phố Hoà Bình, cũng như những nhà buôn bán ở Luân Đôn và Berlin. Chỉ một chi tiết thấy chướng: chiếc ô nhỏ phụ nữ cán rất ngắn mua ở Bruxelles hẳn không đáng giá một trăm francs. Cô ta vẫn cười, vui vẻ giải thích:
- Tôi ngạc nhiên về cái ô ở Bỉ, và tôi vào nhà người bán hàng gặp đầu tiên...
- Cô thường sống ở Paris chứ?
- Ở Paris, ở Berlin, ở Nice...
- Cô có quen biết hoạ sĩ Max Feinstein không?
- Không! Đó là một người đồng hương, phải không? Hẳn là một người Do Thái, phải không?
- Cô đến Hambourg khi nào?
- Chiều thứ năm. Tôi tin có chiếc tàu thuỷ đi Na Uy, thứ sáu...
- Cô đến từ Paris phải không?
- Không đi thẳng. Tôi qua tám ngày ở Bruxelles và hai ngày ở Amsterdam...
Cô cố giữ vẻ thung dung và nhìn thẳng vào mắt người đối thoại. Nhưng trong trường hợp như thế này, thật nguy hiểm phán xét về những thái độ tự nhiên, bởi vì người vô tội tự cho mình bị nghi ngờ đôi khi lại rối loạn hơn kẻ thủ phạm.
Căn buồng sực nức mùi nước hoa, chiếc thảm rải rác những đầu mẩu thuốc lá. Trên chiếc bàn nhỏ có một chai rượu mùi đã vơi một nửa.
- Xin cảm ơn bà, thưa bà.
- Cô! - Cô ta cải chính.
- Cô tính ở lại Na Uy lâu chứ?
- Vài tuần thôi. Thời gian đi thăm Laponie...
Petersen đến mức định xen vào hỏi: “Cô có bao nhiêu tiền đem theo mình?” Nhưng ông đỏ mặt về ý nghĩ này.
Cuộc khám xét cuối cùng với Arnold Schuttringer rắt ngắn gọn, ít hành lý. Những bộ quần áo đủ dùng, không xa hoa. Những đồ dùng vệ sinh như người ta thường bán ở các cửa hàng bách hoá, gần như mới. Tóm lại ông ta trang bị cho chuyến đi này.
Bình thản và nặng nề, hơi cau có, ông chứng kiến đồn trưởng cảnh sát đi đi lại lại và không can thiệp, không đặt ra những câu hỏi. Ông chỉ trả lời những lời lẽ thật cần thiết thôi.
- Tóm lại, tất cả hành khách đều có giấy tờ hợp lệ. Không có chút nghi ngờ nào với một ai. Viên thanh tra của tôi khẳng định kẻ sát nhân đeo găng không để lại dấu vân tay nào. Những người lục soát khoang hầm không thấy gì hết, có khả năng gã Ericksen này đã gieo mình xuống biển, có lẽ với hy vọng bơi được vào cảng. Ông tin tưởng viên sĩ quan thứ ba của ông chứ? Vì chính anh ta trông thấy người hành khách nhảy xuống biển, phải không?
Petersen tránh trả lời. Lúc này hơn ba giờ. Những thủ tục đã làm xong; nhưng họ không thu được một kết quả nào.
- Tôi sẽ liên lạc với cảnh sát Đức, ra lệnh tìm kiếm trong vũng tàu và trong thành phố.
Đồn trưởng giấu nỗi lo lắng mà vụ án này đem lại cho ông dưới niềm tin giả dối.
- Một lần nữa, tôi không thể bắt tàu dừng lại cho tới khi kết thúc cuộc điều tra. Nếu tôi phải giữ người nào đó theo sự đòi hỏi của luật pháp, không có lý do nào là người này hơn là người khác. Tôi sẽ phải giữ lại đoàn thủy thủ và hành khách...
Thuyền trưởng không nói gì. Ông chờ đợi với vẻ rầu rĩ, khép kín, thỉnh thoảng do tôn kính, khẽ gật đầu xác nhận.
Trong sương mù, những bông tuyết nhỏ bắt đầu lượn lờ. Những luồng gió lạnh thổi qua con tàu làm cho những cánh cửa không ngừng mở ra, đóng lại.
- Tôi sẽ để lại cho ông một thanh tra trên tàu, để phòng mọi sự bất trắc nhằm giữ trách nhiệm của tôi và của ông.
Vào ba giờ rưỡi, thuyền trưởng và đồn trưởng cảnh sát đi bách bộ dọc lối đi từ mũi đến lái, trong khi đoàn thủy thủ chuẩn bị nhổ neo dời bến. Hai hoa tiêu thay phiên nhau trên cầu tàu dọc bờ biển Na Uy đã lên tàu, đi ủng đế gỗ, mặc áo da lông, vác hòm gỗ đen trên vai.
Trên cảng còn vài hình bóng lì lợm. Một viên thanh tra lấy ôtô của đồn trưởng để đi lấy quần áo thay đổi. Mọi người chờ đợi ông ta.
Vì hai người đàn ông không có gì để nói với nhau nữa nên họ thốt lên nhũng câu mà họ không tin chắc.
- Người nữ hành khách của ông hẳn có cá tính, một mình giữa đám đàn ông nhiều đến thế! Nhất là cô ta, nói thế nào nhỉ?... Lôi cuốn! Một con người nhỏ bé kỳ cục...
Sĩ quan thứ nhất cũng sầu thảm như thuyền trưởng của mình, đã ở vị trí trên cầu tàu, tựa lưng vào lan can, mắt nhìn chìm đắm trong sương mù.
Bell Evjen sau cuộc khám xét của cảnh sát, ở lại trong buồng mình như Schuttringer. Nhưng người ta nhìn thấy Katia qua cửa sổ phòng hút thuốc lá. Cô ta trải những quân bài lên bàn trong lúc vân vê chiếc bót thuốc lá dài bằng ngọc của cô ta.
Cuối cùng, người ta nghe thấy tiếng động cơ. Chiếc xe ôtô đỗ để lại hai vệt đen trong tuyết bắt đầu hình thành một lớp đều đặn.
Trong khi viên thanh tra lên tàu, Petersen và đồn trưởng bắt tay nhau.
- Chúc thượng lộ bình an! - Người sau nói, trong khi nét mặt thuyền trưởng rắn đanh lại.
Ba hồi còi vang lên. Vài lời dặn dò. Những bước chân giậm. Chiếc dây chão thả rơi xuống nước trong vết rẽ nước của con tàu Polarlys.
- Ông hãy bảo người phục vụ chỉ cho ông một buồng! - Petersen nói với viên thanh tra, một người đàn ông trạc ba mươi tuổi, lễ độ, mờ nhạt làm ta nghĩ đó là một nhân viên văn phòng hơn là một thám tử.
Rồi ông sải bước trên boong, không biết mình cần phải làm gì. Hai lần ông đặt tay vào nắm đấm cửa phòng hút thuốc. Rồi ông định đi về phía nhiệm sở của các sĩ quan, với ẩn ý tin chắc rằng Vriens đã đi nằm.
Nhưng đột nhiên gã trai qua cách ông hai mét mà không nhìn ông, áp mặt vào cửa sổ phòng hút thuốc và bước vào.
Thuyền trưởng không bao giờ dò xét một ai. Tuy nhiên ông không ngần ngại đến lượt mình lại gần cửa sổ. Ông thấy Katia ngẩng đầu, nói với bạn cô ta. Ông thấy rõ đôi môi mấp máy nhưng không nghe thấy một tiếng nào do tiếng ì ầm của biển. Vriens ngồi gần cô ta, rất gần, nói rất sôi nổi như thể năn nỉ cô ta.
Sự xúc động của ông phát ra liên tục biến thành sự bực bội, cuối cùng còn làm cho khó coi, bởi vì người ta tự hỏi thế nào mà ông có thể chịu đựng thật lâu một sự căng thẳng thần kinh như vậy. Những nét mặt của ông biểu hiện sự bồn chồn. Và toàn thân ông sôi sục. Từng lúc ông đổi chân đứng, khoa chân múa tay và mặt ông không nhìn cắm vào nơi nào cả.
Khổ thân anh ta hẳn bị sổ mũi bởi vì trong lúc nói chuyện chừng mười hai phút, anh ta hỉ mũi dữ dội bốn hoặc năm lần. Tất nhiên Katia Storm không nhìn anh ta cùng cặp mắt như thuyền trưởng. Trong khi anh ta nói, đột nhiên cô ta đặt bàn tay mình lên miệng anh ta và với một cử chỉ biểu lộ một sự mủi lòng của đàn chị, nghiêng người để hôn vào mắt anh ta.
Cô ta cười, cái cười làm hoang mang, đầy những điều tò mò, mỉa mai, ham muốn, âu yếm, có thể một cái gì đó khiếp sợ?
Khi cô ta đứng lên, Vriens đi theo cô ta và Petersen trông thấy họ cùng đi về phía hành lang các buồng. Không đi xuống, ông nghe thấy tiếng một cánh cửa đóng lại. Sau đó không còn tiếng bước chân nữa.
Gã trai đã vào cùng với cô ta.
Người phục vụ rất mệt mỏi, anh ta vừa liếc mắt lần cuối vào phòng hút thuốc, sắp xếp những chiếc ghế bành và tắt đèn.
Anh thấy thuyền trưởng cúi xuống đất gần chỗ của Katia và nhặt hai mẩu bìa carton màu hồng rơi ra từ túi Vriens khi anh ta rút khăn tay ra.
- Ông biết không, thuyền trưởng, tôi hài lòng thấy người ta đem ông ấy đi! Tôi tin mình sẽ ốm mất, chỉ biết rằng ông ấy ở đó thôi... Ông có nhận thấy miệng ông ấy mở ra không?
Petersen không nghe, vân vê hai mảnh bìa hồng là những chiếc phiếu của phòng gửi áo tại Kristall. Cuối cùng ông nhét hai chiếc phiếu vào ví của mình trong lúc thở dài.
- Ông ở lại đây ư? - Bạn ông ngạc nhiên hỏi.
- Không! Anh có thể tắt đèn và đi ngủ.
- Ông có tin rằng gã Ericksen ấy đã thực sự nhảy xuống biển chứ? Ông nói đi! Nếu gã còn lẩn trốn trên tàu...
Nhưng không có câu trả lời cho anh ta. Thuyền trưởng bỏ đi, nhún vai, từ boong dạo chơi đưa mắt về phía cầu tàu, ông thấy rõ điếu thuốc lá của sĩ quan thứ nhất và đôi vai rộng của viên hoa tiêu mà chiếc mũ bằng da rái cá hầu như trùm kín mặt anh ta.
Có ánh đèn trắng vừa đủ nhìn thấy ở nơi nào đó trong sương mù: chắc chắn là một thuyền đánh cá. Họ qua thật gần nên nghe được tiếng nói chuyện thanh bình của hai người đàn ông ngồi ở ghế trực ban.
Chưa bao giờ Petersen không hài lòng về mình như thế, hoang mang như thế, tuy nhiên ông không thể nói vì sao. Điều đó giống như những cơn ác mộng không rõ ràng ở một số đêm do khó tiêu. Không có gì xảy ra đáng khiếp sợ cả. Người ta không bị một mối nguy hiểm nào. Nhưng những đối tượng được gợi nên qua giấc mộng có bộ mặt quàu quạu. Chiếc chăn lông kinh khủng, nặng nề. Người ta đi đi lại lại qua một thế giới thù nghịch, không hiểu nổi, và người ta lờ mờ muốn trỗi dậy mà không đạt được.
Con tàu Polarlys dường như đã thay đổi. Không phải vì sự có mặt viên cảnh sát trên tàu vì anh này thật nhã nhặn tử tế và thật mờ nhạt, không ảnh hưởng mạnh tới thuyền trưởng.
Những con sóng lừng rất mạnh nâng sống mũi tàu lên. Con tàu ra khỏi lạch, lấy lại tốc độ bình thường và theo nguyên tắc, mỗi phút rúc lên hai hồi còi báo hiệu. Thỉnh thoảng cái cánh trắng của một con chim mòng biển vẽ một nét di động trong sương mù.
Petersen đột nhiên quay ngoắt lại, khom mình để bước qua chiếc cổng sắt đi vào buồng máy. Dưới chân thang, trong ánh sáng sượng của những ngọn đèn không có chụp, ông trông thấy cơ trưởng đang điều chỉnh áp lực dầu trong khi một người thiu thiu ngủ gần mặt đồng hồ của máy điện báo.
Ông bước xuống. Cơ trưởng làu bàu chào ông.
- Những chuyện ấy chấm dứt rồi chứ? Trên kia lại trở lại yên tĩnh chứ?
- Chấm dứt rồi, đúng...
Và thuyền trưởng đi len lỏi dọc những cây truyền động làm bắn vào ông những giọt dầu li ti, qua một cái cửa rất nhỏ ánh sáng đỏ rực của buồng đốt hắt vào mặt ông.
Người đàn ông mình trần đang xúc than vẫn không ngoảnh lại, đành lòng đưa bàn tay đen xì lên bộ mặt đen nhẻm của mình.
Petersen tiếp tục bước. Giờ đây ông phải gập người làm đôi để bước đi. Than trôi dưới đế giày ông. Mồ hôi bắt đầu túa ra từ mọi lỗ chân lông ở mặt ông.
Cuối cùng gã ở trong hầm tàu, mặt lem luốc, ngồi trong đống than đá đang ăn lát bánh mì phết bơ, nhìn ông đi tới.
Đó là Peter Krull. Những sợi râu vàng ở bộ râu của gã xuyên qua lớp bồ hóng phủ lên đó. Đôi mắt trắng của gã có ánh mỉa mai hơn bao giờ hết. Gã không đứng lên, không chào. Gã tiếp tục ăn và miệng đầy bánh nên gã nói hầu như không nghe thấy:
- Thế nào, ta đã tìm được hắn chưa, cái gã Ericksen nổi tiếng ấy?
Gã lặng lẽ cười một mình. Gã cúi mình về phía lò đốt nhằm tin chắc người ta không đòi tiếp than.
- Anh biết hắn ư?
- Tất nhiên!
- Anh muốn nói gì?
- Rằng nếu ông muốn, tôi sẽ làm ngay cho ông một tên! Và rất giống, hả!
Gã đã ăn xong lát bánh mì mà miếng cuối cùng cũng đen như hai bàn tay gã. Gã từ từ đứng lên, nhặt chiếc túi không trong một góc phòng, bỏ vào đó mười viên than bánh.
- Thế đó! - Gã nói.
- Anh hãy giải thích đi!
- Đó là Ericksen. Cuối cùng vẫn là kẻ ban nãy gieo mình xuống nước. Trên đường đi tôi nhận thấy một cái túi đã bị mất. Khi ta đến Stavanger, đến lượt tôi nghỉ và tôi hóng mát trên boong. Tôi trông thấy cái túi của tôi trong lối đi từ mũi đến lái, sẵn sàng để ném qua mạn tàu...
- Ai đã đẩy hắn?
Nhưng gã một lần nữa ngoảnh về phía buồng đốt.
- Chú ý!... Người lái yêu cầu tiếp than, kìa... vả lại, tôi không biết gì hơn.
Và khom mình về đằng trước, gã sục xẻng vào đống than đá, bắt đầu công việc của gã với nhịp điệu mạnh mẽ và đều dặn.
Thuyền trưởng quan sát gã một lúc, mở miệng định nói nhưng rồi lại bỏ đi, cau có, không nói gì cả, đi ngược trở lại suốt con đường đã đi qua trước khi hít thở không khí lạnh giá của ngoài khơi.
Trên đầu ông, viên hoa tiêu và sĩ quan thứ nhất đứng im lìm trong bóng tối, chuyển cho nhau túi thuốc và hộp diêm.