← Quay lại trang sách

- II -

Thế là tôi lại bị ném lên vỉa hè Pari, trong túi chỉ còn bốn mươi phơrăng, và xích mích với tất cả các trường đại học nước Pháp và Navarơ.

Bây giờ tôi xoay về ngả nào đây?

Tôi không còn như xưa nữa: tám tháng ở tỉnh nhỏ đã thay đổi con người tôi.

Trong suốt mười năm, tôi đã sống như một kẻ nghiện rượu sợ bị suy sụp sau ngày uống say, và rồi lại bị ma men ám ảnh, vừa ngủ dậy là nhảy sổ vô vào rượu, và lúc nào cũng giữ một chai vừa tầm bàn tay run rẩy. Tôi say sưa bằng nước bọt.

Và thường khi tôi can đảm một cách vô ích.

Chính ngay những kẻ mà tôi cống hiến một niềm vui để che giấu nỗi đau khổ tôi hay để giải khuây nỗi đau khổ của họ, họ đã không hiểu và cảm ơn tôi mà lại còn cho tôi là dân xứ Ôvecnhơ và là kẻ độc ác. Bọn đầu óc thiển cận tâm địa đớn hèn ấy, họ không thấy rằng tôi đã ném lời mỉa mai lên những niềm đau đớn, như người ta đeo mũi giả trên một mụn ung thư, và ruột gan tôi quặn đau khi tôi bông lơn để khuây dịu nỗi khổ cực chung của chúng ta, tựa như người ta nắm tay đấm vỡ một ô cửa kính để khí trời vào một nơi ngột ngạt!

Thật cực lòng mà phải quy phục!

Tôi đã làm gì từ khi tỉnh nhỏ kia về?… Tôi không nhớ nữa. Tôi đã sống kiểu như một con vật, như ở tỉnh ấy, nhưng không còn niềm vui có đồng cỏ để gặm và có ổ để nằm.

Chẳng lẽ cho tới khi nào nằm nghĩa trang, tôi chỉ có việc chống chọi với cuộc sống mà không ra được khỏi bóng tối, không có được ít nhất một trận giao tranh dưới ánh mặt trời hay sao?

Mặc kệ! Họ muốn bảo là phản bội cũng mặc!

Tôi sẽ tìm bán tám tiếng trong thì giờ mỗi ngày của tôi đối với miếng bánh được đảm bảo, đầu óc tôi được thanh thản.

Rút cục thì Acnu, vốn là một con người quân tử, cũng đã vào Thị chính; Lidel mà tôi gặp sáng hôm nọ đã cho tôi biết.

Bây giờ tôi phải xin chữ ký nhận vào lá đơn… Lại thêm một lời tuyên thệ phải giày xéo!

Chẳng sao!

Tôi đã bội ước khi làm giám học – tôi lại bội ước một lần nữa khi đi xin chữ ký những kẻ đã định giết hại chúng ta ngày Mồng Hai tháng Chạp.

Khốn khiếp! đã không tiến lên được, tôi lại còn lùi, và tôi vừa nhận thấy tóc mình đã bạc!

Thế là xong! – Một viên tướng của quân Cận vệ, một ông chủ hiệu sách ở Tuylơri, một viên hiệu trưởng cũ của thầy tôi đã cho tôi mỗi người vài dòng giới thiệu.

Thế là đủ. Tôi vừa được bổ chân trợ tá, lương một trăm phơrăng một tháng, ở một tòa thị chính heo hút và trông như một đồn nhỏ.

Tôi bay tới đó, leo cầu thang và xin gặp viên trưởng phòng.

Một ông đeo kính và lưng hơi gù tiếp tôi:

- Được rồi. Anh sẽ làm ở bộ phận khai sinh.

Ông ta dẫn tôi đến phòng khai báo và trao tôi cho một viên chức, ông này nhìn tôi từ đầu đến chân, ra hiệu cho tôi ngồi xuống và hỏi xem tôi viết có tốt không (!!)

- Cũng không tốt lắm.

- Ông viết thử xem.

Tôi cầm một quản bút chấm vào lọ mực, tôi chấm mạnh quá, nên khi nhấc bút ra, tôi làm bắn tóe một vệt to tướng lên trang giấy một quyển sổ to ở trước mặt ông ta.

Ông làm hiệu tuyệt vọng đến là dữ dội.

- Đúng vào tên người!… Thế là phải ghi chú!

Ông lao ra cửa sổ, cúi người ra ngoài, vùng vẫy tay, la hét.

Ông ta kêu cứu chăng? Ông ta cảm thấy sắp lên cơn trúng phong chăng? Hay ông định gọi người để bắt tôi?

Ai trả lời ông vậy? Thầy thuốc, hay cảnh sát?

Không. Đó là một người bán than, một người bán rượu vang và một chị đỡ đẻ chạy xộc vào buồng và kinh ngạc hỏi “Có chuyện gì vậy?”

- Có chuyện là cái nhà ông kia kìa, ông ấy bắt đầu công việc bằng cách vẩy một vết nhơ bẩn lên sổ sách của tôi, và bây giờ các ông bà phải ký ra lề, để cho đứa bé có hộ tịch.

Ông ta hầm hầm quay về phía tôi:

- Ông nghe rõ không? H-ộ t-ịch! Nhưng liệu ông có hiểu nó là cái gì không đã?

- Có, tôi đã học trường luật.

- Thế mà tôi không biết đấy!

Và ông ta cười nhạo:

- Họ đều như thế cả… Các bố tú tài làm chết sổ sách!

Lại những tiếng oe oe và tiếng giấy thô nện, lại một chị đỡ đẻ, một ông bán than và một ông bán rượu.

Ông bạn đồng sự của tôi ném tôi vào giữa tai họa.

- Ông tự hỏi để bà ta khai.

Tôi xoay xở ra sao đây? Tôi phải nói gì vậy?

- Thưa bà, bà đến cho một cháu bé?

Ông ta nhún vai, ra vẻ tuyệt vọng:

- Thì ông muốn bà ta đến về việc quái gì nữa?…

Thôi, có lẽ ông biết cách thị thực. Vậy ông hãy kiểm tra giới tính đi.

- Kiểm tra giới tính… Nhưng bằng cách nào?

Ông ta sửa lại mục kỉnh và sững sờ nhìn tôi; dường như ông tự hỏi có phải tôi lạc hậu về mặt giáo dục và e lệ quá quắt đến mức không biết cái gì phân biệt con trai với con gái.

Tôi làm hiệu là tôi biết rõ cái đó.

Ông thở phào khoan khoái, và nói với bà đỡ đẻ:

- Bà cởi quần áo cháu ra. Còn ông thì ông hãy nhìn. Nhưng đứng xa thế thì ông chẳng nhìn thấy gì, ông đứng gần lại!

- Con trai.

- Đúng đấy! người bố vừa nói có vẻ đắc ý, vừa nháy mặt với người bán than.

Thế là tôi trở thành vú em, hoặc cũng gần gần như thế.

Vì phép lịch sự, tôi bắt buộc phải giúp đỡ tí chút cho việc cởi tã lót, tháo ghim, cởi áo cho đứa trẻ, và khẽ xoa cằm nó khi nó thét to quá.

May mắn là nhà giữ trẻ Ăngtêta đã luyện cho tôi một lề lối và bàn tay khéo léo của tôi đâm nổi tiếng trong quận, cũng như xưa kìa cái cách tôi nhét áo sơmi cho trẻ. Thạo nhất là tôi!

Các bạn đồng sự của tôi, họ chẳng tài giỏi gì, nhưng họ không phải là người ác. Ở họ không có cái chất men oán hận và buồn phiền nó dấy lên ở bọn đại học luôn luôn ghen tị, sợ sệt, bị dò la.

Họ không làm cho tôi cảm thấy đau đớn sự kém cỏi của tôi; người bạn đồng sự của tôi đã không cáu kỉnh, càu nhàu quá hai ngày.

- Nói tóm lại, người ta đã dậy anh những gì ở trường trung học? Tiếng la-tinh phải không? Nhưng cái đó chỉ tốt để phục vụ lễ Thánh! Vậy bay giờ anh nên học viết nét sổ, nét đậm và nét thanh thì hơn.

Và ông ta bảo tôi cách viết đuôi những chữ dài và vòng khuyên những chữ tròn. Có khi Sở đã đóng cửa, chúng tôi còn ở lại để luyện lối viết chữ ngả, mà học đến ướt cả mồ hôi.

Một hôm, một người bạn cũ trong nhóm cộng hòa, qua cửa kính đã trông thấy tôi.

- Hồi xưa mày làm loạn; bây giờ mày viết chữ hoa!

Phải đúng thế đấy! Nhưng viết chữ hoa xong, tôi được tự do, tự do cho đến ngày hôm sau.

Tôi có cả buổi tối của tôi, – mơ ước cả cuộc đời tôi! – và tôi chỉ cần dậy sớm bằng công nhân là tôi có hai giờ làm việc tươi tỉnh, trước khi tới sở kiểm tra giới tính của hài nhi.

Tôi lột truồng chúng ra, nhưng tôi cũng tự lột truồng và tôi sẽ có thể chứng minh tôi là một thằng đàn ông cho kẻ muốn nhìn để biết giới tính.

Đám ma Muyêcgiê

Tôi đã xin phép để đi đưa đám một bậc danh nhân.

Tôi muốn nhìn mặt những nhân vật nổi tiếng, họ sẽ kéo đến đông đảo; và tôi cũng muốn nghe người ta nói những gì trên mộ ông ta.

Người ta đã khóc lóc, chỉ có thế thôi.

Người ta đã nói tới một cô nhân tình và một con chó mà người quá cố rất yêu, người ta rắc hoa hồng vào ký ức của ông, ném hoa xuống huyệt, rẩy nước thánh lên quan tài – ông đã tin Chúa, hoặc đã bắt buộc phải tỏ vẻ tin chúa.

Lại có lính bồng súng theo sau đám ma: tiểu đội những người có huân chương.

Ông ta có huân chương Bắc đẩu bội tinh: nó như một huân chương cấp cho kẻ mù lòa, như một dấu thêm của lòng từ thiện. Người ta không thể để cho những người có Bắc đẩu bội tinh chết đói; nhưng sống cực khổ, ông đã phải buộc vinh quang của ông bằng cái dải đỏ của huân chương, như buộc đuôi ngựa.

Tôi trở về tư lự, và thình lình tôi cảm thấy ruột gan quặn lại vì căm giận. Phải mất tám ngày sau, tôi mới hiểu cái gì quằn quại trong tôi – tôi vỡ lẽ vào một buổi sáng.

Đó là quyển sách của tôi, con đẻ của niềm đau khổ của tôi, nó đã cựa quậy trước quan tài người nghệ sĩ giang hồ được chôn cất long trọng và được biểu dương tại nghĩa trang, sau một cuộc đời không hạnh phúc và một cơn hấp hối không thanh thản.

Vậy thì bắt tay vào việc! Và rồi các bạn sẽ thấy cái mà tôi có trong bụng, khi đói khát không lẩn quất ở đó, như một bàn tay phá thai gắng bóp vỡ trứng bằng những móng đen!

Tôi là kẻ được thoát nạn, tôi sẽ viết lịch sử những ai không thoát nạn, những kẻ cũng khổ không kiếm ra miếng ăn.

Thật là quái quỷ với quyển sách ấy, tôi không gieo mần loạn một cách không lộ liễu, không ai ngờ dưới những chiếc áo rách mà tôi treo lên, như ở Nhà xác, lại có một võ khí để trao cho những ai còn giữ mối căm giận, hoặc ai không bị cảnh bần cùng làm sa đọa.

Chúng đã tưởng tượng ra một đoàn lang thang những kẻ hèn – tôi sẽ bầy ra cho chúng thấy một đoàn lang hang những người tuyệt vọng và uy hiếp!