- III -
Buồng của tôi thật ảm đạm, một căn buồng ba mươi phơrăng trông ra một mảnh sân ở đó, trên một đống rác ngất nghểu một chuồng chim bồ câu với những tiếng gù gù đến nản lòng.
Tôi chỉ nghe thấy thứ nhạc bực mình đó, và những tiếng nức nở của người đàn ở căn buồng tối tăm bên cạnh mà chị ta không trả được tiền thuê, và chị ta khóc – một giáo viên tóc hoa râm, mà không ai thuê mướn nữa, phải tìm những chỗ dạy học mười xu một bài.
Người đàn bà tội nghiệp! Tối hôm nọ, tôi đã bắt gặp chị với cái giá đó hiến những vuốt ve của cô gái già cho bọn con trai hầu buồng ở Van-đờ-Grax, và hé áo để cho người ta sờ vú.
Tôi những muốn bỏ đi chỗ khác: tôi thấy hình như lọt qua vách một mùi gì đầu độc tư tưởng tôi!
Tuy nhiên, tôi vẫn phải ở lại và không trả buồng, bởi lẽ tôi sẽ mất không một nửa tháng tiền thuê. Thế mà tôi đã có kế hoạch sinh hoạt – quyển sổ chi thu ở kia, bên cạnh cuốn hồi ký – ngân sách của tôi thật nghiệt ngã. Tôi chỉ có việc chúi đầu vào trang giấy và lấy bông nút tai lại để làm ngơ bên những tiếng nấc đau đớn của người hàng xóm và tiếng gù gù yêu đương của chim cu.
Có một con chim thường hay tới đậu ở cửa sổ gian buồng nhỏ để kiếm chút bánh mì do đôi bàn tay của người đàn bà tội nghiệp bẻ vụn ra đấy, đôi bàn tay vẫn còn mùi mồ hôi ân ái của bọn y tế.
Ở trường trung học, chim bồ câu được coi là con chim của lạc thú, nó vênh vang trên vai các nữ thần và vai các nhà thơ. Ở đây, nó tới làm đỏm và quyệt mỏ vào cửa kính của một gái đĩ. Con bồ câu tội nghiệp.
Tôi dậy vào sáu giờ sáng, tôi ủ chân trong mảnh áo choàng rách vì sàn gạch lạnh, rồi tôi làm việc tới lúc phải đến tòa thị chính.
Tôi chỉ quay vào viết từ năm đến tám giờ, không muộn hơn. Buổi tối làm tôi sợ, trong ngôi nhà tồi tàn phố Thánh Jắc ấy gần ngay Ngã tư máy chém cũ, sát bên bệnh viện quân y, kế liền Viện Câm Điếc. Quả là xung quanh đây chẳng có gì là vui vẻ!
- Nhưng ra đứng ở cửa sổ, máy có thể nhìn thấy điện Păngtêông, nơi một ngày kia mày sẽ đến yên giấc, nếu mày trở thành một vĩ nhân, Acsnun vừa bảo tôi, vừa cười giễu, khi tới chơi.
Tôi không tin tưởng ở điện Păngtêông, tôi không mơ ước mang danh vĩ nhân, tôi không tính chuyện trở thành bất tử sau khi chết – tôi chỉ cần được sống trong khi còn sống!
Tôi bắt đầu đạt được cái đó, nhưng trên đường đi còn nhiều bẩn thỉu và nhiều buồn rầu.
Người đàn bà hàng xóm trở nên táo tợn; bây giờ chị say sưa rượu chè, và dẫn trai về buồng chị cùng uống.
Một hôm, một thằng cha say rượu trong bọn đó quịt tiền, và định đánh chị: chị kêu cứu.
Chính tôi đã vặn cổ tay tên say rượu – hắn đã vớ lấy một con dao trên đĩa pho-mát và sắp đâm vào bụng người đàn bà. Tôi ẩy hắn ra ngoài hành lang và đóng sập cửa lại, hắn vừa đập cửa tới hơn mười lăm phút, vừa la lên: “Có giỏi ra đây, thằng ma cô!”
Ngay sau đó, người ta đuổi cô giáo đi “Chị ta, thế mà từ hai tuần nay, trả tiền sòng phẳng”, bà chủ nhà nói có ý hơi tiếc. Thế là chỉ còn đám chim bồ câu ân ái với nhau, và chúng tới ỉa trước cửa sổ buồng tôi, vì không thấy bánh mì ở cửa sổ bên cạnh nữa.
Tuy vậy, công việc của tôi cũng chẳng tiến triển được bao nhiêu. Là vì gian buồng này giá lạnh, mà đống than của tôi đốt lâu mới cháy! Tôi rét run người trong khi bật diêm, và dù tôi can đảm ngồi vào bàn mà không đốt lò sưởi, thì dần dần tôi cũng rùng mình và tư tưởng bay mất.
Tôi đã suy nghĩ nhiều. Tôi đã tới Xanhtờ-Giơnơvievơ để tìm trong sách những phương pháp đốt lò khả dĩ khiến tôi khỏi phải ngồi lâu, với chiếc sơ-mi phong phanh trên người trước lò sưởi đầy khói chứ không phải đầy lửa trong cái rét buổi sáng buốt đói chân trần trụi.
Nhưng tôi thất bại. Gió Bấc đã thổi. Từ tám hôm nay, tôi không làm được gì cả - ngoài việc ghi chú bằng bút chì, bằng cánh tay gọi là thò ra khỏi giường.
Tôi đã thử ra viết ở Thư viện. Nhưng nếu ở nhà tôi bị lạnh quá, thì ở đây tôi lại bị nóng quá. Trong không khí nhớp ẩm nặng nề ấy, tư tưởng của tôi nhũn đi và nhợt mầu, như miếng thịt đỏ trong đáy nồi,và tôi ngủ gục trên trang giấy trắng. Một thương binh đến đánh thức tôi một cách hỗn xược.
Vậy tôi sẽ không khởi công được cuốn sách của tôi, trước mùa xuân chăng?
Thế mà được! Tôi vỡ nợ còn hơn! Tôi vừa ở nhà Đaylamông và Côngty ra, tôi được giới thiệu với hiệu ở đó bởi một ông bạn đồng sự cũ của thầy tôi, ông ta hiện đang dạy thuê chữ la-tinh cho trẻ con.
Chúng tôi đã ngã giá may một chiếc áo ngủ có mũ trùm, dây lưng và đuôi dài, bằng loại dạ nhà tu. Sau một tuần, người ta sẽ đưa áo đến cho tôi, lấy nửa tiền trước theo giá đã thỏa thuận, còn nửa tiền sẽ trả nốt vào cuối tháng sau. Cả thảy! sáu mươi Phơrăng.
Tôi đi lang thang cho tới ngày nhận áo.
Áo đây!
- Trả ông ba mơi phơrăng!
Người kia bỏ tiền vào túi rồi chuồn thẳng. Còn tôi, tôi vênh vang trong chiếc áo choàng len.
A ha! Hỡi anh tư sản đã may chiếc áo, hơi anh hàng xén đã bán chiếc áo, các anh chẳng biết các anh vừa làm việc gì! Các anh vừa cung cấp một chòi canh cho tay lính gác của một đạo quân nó sẽ làm cho các anh điêu đứng!
Nếu không may chiếc áo trùm này, có lẽ tôi cũng đến rút lui trước chiếc lò sưởi đen ngòm, tôi sẽ trốn khỏi căn phòng giá lạnh, tôi sẽ ngả lòng – tôi sẽ không viết cuốn sách!
Hạn trả nợ gần đến! Hôm nay là ngày 22, hạn vào ngày 30!
Tôi lợi dụng cái gọi là ngày chủ nhật, cái điều là không phải đến sở, để sửa lại tác phẩm lần cuối cùng và để chép lại cho xong.
Mau lên, ta đọc lại!… Nào kéo, nào ghim! Phải bỏ điều này, phải thêm điều kia!
Tôi làm tung tóe mực khắp cả. Có từng đoạn trọn vẹn giống như băng vải đen bưng lấy mắt, hoặc như những vết tím bầm ở rốn! Tôi lấy kéo tự xén mình, lấy ghim tự đâm mình; những giọt máu tia lên những trang giấy – tưởng như những trang hồi ký của một tay lượm giẻ rách giết người!
Số là gã hàng xén chẳng chịu cho hoãn nợ! Hắn theo tôi đến tận tòa thị chính, giơ văn tự ra, làm toáng lên, rốt cuộc thế là tôi bị cách chức. Bởi vì bây giờ tôi là công chức, tôi phải tôn trọng chữ ký của tôi, nếu không, tôi sẽ làm mất uy tín của chính quyền, người ta cho tôi một nghìn rưỡi phơrăng một năm không phải để tôi sống phóng đãng.
Đã ba giờ. Tôi nghe tiếng chuông chiều. Trong nhà không một tiếng động – ngoài tiếng ho của một người bị lao khác hết hơi.
Ôi! Sống tối tăm, nghèo nàn, cô đơn thật kinh khủng!
Mười lăm phút, nửa tiếng!
Tôi ngồi, tay bưng lấy mắt để khỏi khóc. Nhưng vấn đề không phải mơ màng. Còn món nợ!
Vấn đề là phải đến viên chủ bút báo Figarô, phải vào tận nhà ông ta. Suốt cả tuần lễ, tôi không gặp ông ta ở tòa báo, lúc tan sở; và chăng ở những nơi ấy, người ta chẳng nghe những kẻ vô danh.
Liệu ông ta có tiếp tôi không? Phải chăng hôm nay là ngày nghỉ của ông? Người ta bảo ông rất yêu con, ông muốn ôm ấp chúng yên ổn, không bị ai quấy rầy, trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ nghỉ ngơi của ông.
Chà! Mặc kệ!
Chân tôi run làm sao khi leo lên cầu thang! Tôi bấm chuông.
- Tôi hỏi ông Đờ Vilơmétxăng?
- Ông ấy không có nhà. Ông ấy vê quê từ một tuần này, nửa tháng nữa mới về.
Đi vắng!… Thế thì nguy cho tôi!
Người hầu gái chắc đoán thấy niềm tuyệt vọng trên mặt tôi.
Vả chăng chị ta nhìn thấy bản thảo của tôi cuộn tròn, co quắp, nó có vẻ quằn quại đau đớn trong đáy túi tôi.
Chị ta không đóng cửa và cuối cùng bảo tôi rằng ông Vilơmetxăng đi vắng nhưng có con rể ông ở nhà, nếu tôi muốn, cho biết tên, chị sẽ vào nói, và chị lại nhận đưa cả cái gì, tôi đem đến cho ông ta.
Vừa nói vậy, chị vừa đưa mắt nhìn vào bài báo, nó giống như một con dím, với những chiếc đanh ghim cài vào nó. Tôi rút bài báo ra, đưa chị ta cầm vào giữa cho ghim khỏi đâm vào tay. Chị cười, vẻ thương hại, và quay tay vào – tay giơ thẳng để cầm bài báo.
Người ta để tôi đứng một mình, ít ra là mười lăm phút. Cuối cùng, cửa mở ra.
- Chà, bài của ông câu độc giả đấy, ông bạn thân mến ạ! Một ông to béo, đầu hói, vừa nói vừa khua những ngón tay trùng trục.
Tôi lẩm bẩm xin lỗi:
- Không sao cả! Tôi đã nhìn đầu đề, tôi đã đọc mươi dòng, nó sẽ câu cả công chúng! Chúng tôi sẽ cho đăng ông bạn trẻ ạ! Mà phải đợi ít lâu, bài dài khiếp!
Đợi! Thế nữa, tôi trình bày với ông ta rằng, tôi không thể đợi được.
- Tôi bị thua bạc, ngày mai phải thanh toán, vì vậy tôi mới đánh bạo tới thẳng đây.
- Ủa! Ông cũng mần cơ đầm pích à? Ông có rút năm quân không?
Tôi không biết rút năm quân là cái gì, nhưng cũng phải tìm câu gì đó để trả lời, và giọng khàn khàn, tôi đáp:
- Thưa ông, có, tôi rút năm quân.
- Rõ khéo! Ông xài lớn đấy!
Lớn quá ấy chứ! Tôi cảm thấy điều đó luôn luôn; nhất là những ngày tôi nhịn đói.
- Đây, tôi viết vài chữ cho ông thủ quỹ. Mai ông đưa giấy này cho ông ta, để lĩnh một trăm phơrăng. Giá đặc biệt đấy, nhưng bài báo của ông ác lắm! Thôi chào ông!
Chó?… Có lẽ thế thật!
Tôi không chú ý xem tôi viết giống Paxcan hay Macmôngten, giống Juyvênan hay Pôn-Luy Curiê, giống Xanh-Ximông hay Xanhtờ-Bơvơ, như người ta thường dạy ở trường Xoócbon. Tôi chẳng tôn trọng phép chuyển nghĩa, cũng chẳng sợ dùng chữ mới, tôi bất chấp phép của Naxto tích lũy lấy bằng chứng.
Tôi đã lấy những mẩu đời của tôi, và đem khâu mẩu đời của tôi với những mẩu đời của người khác, cười cợt khi muốn cười, nghiến răng khi những kỷ niệm nhục nhã róc thịt thấu xương tôi như người ta róc thịt ở đầu xương sườn súc vật để cho máu ứa ra ở dưới lưỡi dao.
Nhưng tôi vừa cứu vãn danh dự cho cả một đội quân thanh niên họ đã từng đọc Cảnh nghệ sĩ giang hồ và họ tin tưởng ở lối sống vô tư lự màu hồng ấy, những kẻ tội nghiệp bị lừa bịp mà tôi la mách sự thật!
Nếu họ còn đâm đầu vào lối sống đó có nghĩa là họ chỉ còn đáng làm đống phân của quán rượu, hoặc làm con mồi cho nhà lão Mazax! Qua tuổi ba mươi, họ sẽ tự sát hay phát điên, hoặc bị viên gác cổng Viện cứu tế hay viên cai ngục tóm cổ, họ sẽ chết non, hay tới lúc bị nhục.
Tôi sẽ không thương xót họ, khi tôi đã dứt băng ở vết thương của tôi để bày ra cho họ thấy mười năm tuổi trẻ phí phạm tạo nên một lỗ hổng trong trái tin con người như thế nào!