- XI -
Tôi đã bắt tay vào viết lịch sử những người thất bại tháng Sáu. Tôi đã gặp lại nhiều người trong số đó, tất cả đều nghèo khổ, nhưng hầu hết vẫn giữ được phẩm cách trong cảnh bần cùng. Chỉ một vài người bị hư hỏng vì thói quen lười nhác trong nhà tù, và họ trút cho vợ gánh nặng lao động và sự chăm nom nuôi nấng gia đình.
Nhiều người vợ đó đã tỏ ra anh hùng. Họ nuôi nấng con cái trong lúc người bố ở Đu-lenx hoặc ở trong nhà ngục, họ nhịn tất cả để cho đám công dân tí hon không bị thiếu thốn gì, họ tiêu hao bao nhiêu tài năng cũng như can đảm khiến cho đất xảy ra một nghề, một công nghệ, một thuật kiếm bánh. Và bọn lau nhau đã mọc lên – mầm hạt của dân khởi nghĩa!
Một vài cô gái đã hẳn hoi biến mất vào cái tuổi mà một chiếc băng xanh làm thích điên lên được và cảnh bần cùng làm xấu xí con người. Đó là niềm đau khổ của những căn gác xép, nơi kẻ tù đầy trở về chỉ còn thấy hình ảnh hoen ố, nhơ bẩn của đứa con mà họ đã cho chụp ảnh, mất mười xu, một ngày chủ nhật chợ phiên, ở vùng ngoại ô Pa-ri. Thật là gay go mới giữ được nó đứng yên được; ông bố đã phải ôm hôn con hàng chục lần, và bảo con phải ngoan.
Xưa kia nó ngoan thật.
Nhưng từ lâu rồi, nó không ngoan nữa, và bây giờ không ai biết nó ở đâu mà tìm. Nó không dám trở về thăm mẹ: nó sợ ông cụ nhẩy xổ vào nó.
- Không phải! một cô trong số đó vừa nức nở vừa nói với tôi, cháu rất sợ thấy cha cháu khóc!
Tôi sống trong cái thế giới đang nảy mầm ấy, quả thật bị xúc động hơn khi ở cái thế giới những anh hùng cổ đại, dưới con mắt những nhà giảng giải Côn-xi-o-nex. Những mũ áo kia của các vị anh hùng đó đã nhanh chóng làm cho tôi bực mình.
Thế rồi vì tiếp xúc với những người bạn mới, trong lúc giao du với những người bình thường, trong tôi cũng nảy nở niềm khinh bỉ đối với chiếc áo Ja-cô-banh.
Tất cả cái mớ lộn xộn về truyền thuyết năm 93 ấy đối với tôi có tác động như mớ áo rách lờm xờm và bạc màu mà người ta đem bán cho lão Grô buôn rẻ rách trong cái cửa hàng của lão ở phố Mu-fơ-ta mở đón gió bốn phương.
Thỉnh thoảng tôi vinh dự được lão mời đến ăn cơm gia đình; và tôi hết sức sung sướng, tôi tự cảm thấy mình, một kẻ mất gốc mà được người dân lao động chính cống ấy quý trọng và yêu mến, và để thết công dân Vanh-trax, lão bỏ thêm một miếng mỡ vào cái nồi bốc khói và thơm phức mùi da thuộc của khu Biev-rơ.
Lão nói với vợ:
- Bà lão ạ, chẳng cần phải chắt bóp, miễn sao hàng ngày có miếng ăn…
Rồi, quay sang tôi:
- Đời sống vất vả thật; nhưng dân thợ chúng tôi được an ủi khi thấy những người có học thức như anh đứng về phía người vô sản. Chà! thế đấy, rõ như anh hứa với tôi: nếu có khi nào cần phải đào lấy khẩu sung mà tôi đã chon tối hôm 24 tháng Sáu đằng sau xưởng Gô-bơ-lanh thì anh sẽ đến ăn xúp bên rào chướng ngại cũng như anh đến ăn bữa nay phải không?
Vợ lão tức thì trả lời, với một nụ cười nghiêm trang:
- Phải bố nó ạ, tôi tin chắc, thế nào ông đây cũng sẽ đứng về phía những người cùng khổ.
Tôi thì tôi chỉ vào một mẩu dạ đỏ thò lò ra khỏi miệng một cái túi:
- Chúng ta sẽ cắm cái kia vào ngọn lưỡi lê.
- Chà! anh bạn trẻ ơi! Không phải Ma-ri-an[16] là tất cả, mà là Xô-xi-an[17]! Khi nào chúng ta thành công, người ta sẽ xé cờ đi!
Xô-xi-an, Ma-ri-an – hai kẻ thù địch.
Những tay kỳ cựu tháng Sáu 48 đã kể lại với tôi rằng trong những nhà tù mà có những người của ngày 13 tháng Sáu 49 đến với họ, người ta hăm dọa những kẻ mới đến bằng ánh mắt và bằng cử chỉ và, ngay hôm đầu, người ta đã dựng rào lũy giữa đôi bên. Đã xẩy ra những cuộc đụng đầu ghê gớm dưới cùng một cái mũ trùm nhà tù, mặc dù trong những ngày lễ chung, đám ma hoặc lễ kỷ niệm, tất cả đều đeo ở khuyết áo cái màu đỏ thắm bất tử.
Mối thù tồn tại, quyết liệt giữa các đảng phái, mượn đủ mọi cớ để nổ ra. Nhân một mảnh vườn con rào hở, một cành dâu vượt qua đường sỏi ranh giới, một gốc hoa kim liên vươn dài giữa hai buồng giam, người ta hắt vào mặt nhau tất cả mọi nỗi gian khổ và lỗi lầm của Cách mạng!
Tôi đã biết được rất nhiều điều trong cái quán cơm của một tay kỳ cựu ở Đu-lenx, nơi giạt đến tất cả những mảnh chuyện về cuộc khởi nghĩa của tôi vào những buổi tối ngày lĩnh lương hoặc những buổi sáng ngày thất nghiệp. Mỗi người tới đó cung khai, làm chung những điều họ trông thấy vào những giờ phút bi đát.
Người ăn nói giỏi trong đám ấy là một chàng mắt màu thép xám, long lanh và sắc sảo, gò má như thoa son, vầng trán quá rộng như vầng trán của mấy gã múa rối cho cạo đi để tôn nó lên, tóc dài và rủ xuống thành mớ quăn lại như tóc của bọn nhào lộn, hoặc chiếc vòng hoa giấy của Làng thơ.
Người ta không bao giờ đoán được rằng chính một người thợ mộc cũ đã bị kết án chung thân vì với chiếc khăn che bụng, anh đã hoàn thành chiếc bục đá to dựng ở góc Chợ đen.
Lúc này, nghề mộc không ăn thua, anh quay ra làm nghề chào hàng và đặt hàng, và, theo anh nói, anh cũng chỉ tạm đủ sống. Chiếc áo rơ-đanh-gốt màu lơ của anh sạch sẽ; tuy nhiên anh vẫn giữ lại chiếc cát-két thợ.
- Việc đó không làm phí phạm cái mũ những lúc tôi không tới khách hàng, anh nói. Vả lại, các bạn ạ, tôi vẫn là một người thợ: thợ chạy chứ không phải thợ tại chỗ, có vậy thôi.
- Còn Ruôn, bây giờ hắn ra sao? Lâu nay cậu có gặp hắn không?
- Không, có chuyện gì vậy?
- Này, bảo thật, cậu không biết đấy, người ta bảo nó làm mật thám.
- Ay, ta hãy nói chuyện khác, các bạn! Lão Mabi ngắt lời. Nếu cứ nghe lời đồn thì ai cũng sẽ là mật thám cả! Ta cứ việc khử những thằng nào có bằng chứng hẳn hoi… bọn chúng sẽ phải gờm!
Lão Mabi nguyên là một thợ chạm kim loại, đã mất tay nghề vì cảnh nhàn rỗi ác nghiệt lúc bị cấm cổ, và bây giờ lão bán hàng rong các phố.
Nhưng, trong những năm ở tù, lão đã học trong những sách mượn của các bạn cùng nhà giam; lão đã suy nghĩ, bàn cãi, kết luận. Vầng trán rộng nhăn nheo và trụi tóc nói lên suy tư của lão; người bán quạt hoặc chao đèn – tùy từng mùa – có bộ mặt một triết gia chiến đấu. Nếu lão vận một chiếc áo đen, người ta sẽ dừng đứng lại trước mặt cụ già cao lớn và sẽ ngả mũ chào cái đầu uy nghiêm của lão.
- Ông cụ dạy môn gì thế? những người ở trường Xoocbon hoặc trường Sư phạm sẽ hỏi.
Ông lão dạy môn gì à? Giảng-đàn của lão cũng đi rong như cuộc đời lão; nó là cái bàn của một quán ăn nghèo khổ, mà lão tì tay vào để tuyên truyền bạo động cho thanh niên, hoặc nó là cái thùng lấy ở rào chướng ngại và dựng đứng để lão trèo lên đó hô hào khởi nghĩa.
Tôi trông thấy không ít người quần áo rách rưới, nhiều kẻ bị đói đã đọc Pru-đông và đã đánh giá Luy Blăng.
Cái điều ghê gớm! Ở phía đầu những tính toán của họ và ở phía cuối những lý thuyết của họ, bao giờ cũng đứng một người canh gác của bạo động!
- Còn phải đổ máu, anh thấy không!
Thì tại sao?
Tại sao những con người sống kham khổ rất ít nhu cầu ấy, tại sao những bậc lão thành râu dài, mắt hiền yêu trẻ nhỏ và ý lớn ấy, lại bắt chước những bậc tiên tri Ixraen và tin rằng cần phải có hy sinh, việc tàn sát là không tránh được?
Hôm nọ, một em bé gái lên tám tuổi bị đứt tay – một người dữ tợn, ngực đầy lông lá, đã ngất đi. Phải nhìn thấy tất cả những con mồi của ngục tù Nhà nước ấy đổ xô vào dỗ dành và ôm hôn đưa bé như thế nào! Một người đã tết một con nộm bằng một mảnh vải, một người khác chạy đi mua con búp bê một xu. Đồng xu ấy là tiền thuốc lá của anh, tối hôm đó anh đã nhịn hút. Và người ta lấy giẻ buộc vết thương nhỏ với mối xúc động mạnh hơn cả khi người ta băng bó vết thương lớn của một chiến sĩ bị gẫy chân, gẫy tay một cách thảm hại, trong một trạm cứu thương lưu động ở ngã tư.
Chàng trai có cặp mắt sắc sảo định viết một cuốn sách. Anh đang viết; tôi ngờ là như thế.
- Phải, tôi đã ghi lại những điều tôi trông thấy ở Tu-lông. Tôi đã viết đầy hai quyển vở to bằng này. Tôi sẽ đưa ông xem, nếu ông quá bộ tới nhà tôi.
Chúng tôi đã hẹn nhau.
- Ông sẽ gặp vợ tôi, đó là con gái ông Pooc-nanh, ông Chân gỗ.
Một con người mảnh dẻ, duyên dáng, vẻ cao quý, nhưng buồn rầu – buồn đến chết! – và một mối u sầu không tên, không biết từ đâu đến, phản ánh một niềm đau đớn khôn nguôi và âm thầm! Tóc chị màu tro, một màu tro để lộ ra vì buồn phiền mà đổi màu; một sự phát hiện đau đớn nào đó, chắc một buổi tối, đã rắc tro lên mái đầu xanh ấy, bằng những vết nhăn nhỏ hằn lên như sợi tơ.
Chị hững hờ đáp lời chào nhạt nhẽo của chồng và gần như đau lòng mà phải đón tiếp tôi.
Tôi đã nói chuyện với chị về ông thân sinh chị, chiếc Chân gỗ nổi tiếng đã có giờ phút vang âm của nó trong lịch sử âm thầm của những biến cố tháng Hai.
- Vâng, tôi là con gái ông Pooc-nanh. Cha tôi xưa là một người chính trực!
Chị đã nhắc đi nhắc lại điều đó nhiều lần: “một người chính trực!”, con mắt nhìn xuống, hai cánh tay nhỏ khoanh trên ngực, chị xích ghế ra – tôi tưởng như thế - để chồng khỏi chạm vào mình khi anh ta chạy lại gian buồng để tìm tập bản thảo.
Cuối cùng, anh ta vỗ trán và nói:
- Tôi nhớ ra rồi, để ở dưới kia.
Anh đi xuống – rón rén – khom lưng, chân lê, cử chỉ vụng về, nhưng con mắt vẫn long lanh và xuyên bóng tối gian buồng thiêm thiếp trong cảnh hoàng hôn.
Những cửa sổ vẫn đóng kín; chị chỉ thốt ra mỗi một lời:
- Chắc ông cũng là người trong cuộc âm mưu với nhà tôi?
- Tôi không mưu mô gì cả.
Chị chẳng đáp lại một lời, và chúng tôi ngồi câm lặng trong bong tối.
Anh ta trở lại với những quyển vở của anh.
- Cái này không viết kiểu như nhà văn chuyên nghiệp nhưng có nhiều hồi ức. Ông có thể lợi dụng cho công việc của ông. Ông chỉ cần in tên tôi vào đó để thiên hạ thấy rằng những người bị tù tháng Sáu không phải những kẻ dốt đặc, hoặc những tên đại ác như người ta tưởng.
Chị vợ đã ngước mắt lên, và rọi về phía chồng một ánh mắt lạnh lẽo làm tôi thấy giá buốt khi nó lướt qua chỗ tôi, còn anh chồng thì tiễn chân tôi, khe khẽ bước và nói như trong một nhà cấm không được nói to vì có người đang hấp hối – hoặc có một xác chết.
Tôi đi về phía Pa-ri, qua những phố kín đáo và tối đen, óc bị ám ảnh bởi những ý nghĩ vẩn đục, tự hỏi có tấn bi kịch gì đang diễn ra giữa hai nhân vật ấy.
- À! Anh đã đến chơi nhà anh ta đấy, ông lão thoát nạn ở Đu-lenx nói với tôi. Vợ anh ta có nhà không? Cô gái ấy là một con người can đảm. Tôi đã thấy chị ta hoạt động, hồi còn con gái… tinh ranh như con ruồi và vui vẻ như chim sơn ca! Anh chồng tốt số mà chẳng xứng.
- À phải, đúng vậy! Nhưng có phải họ đồn về anh ta cũng như về Ruôn: Anh ta làm mật thám, phải không?
- Không thể thế được! Chị ta, mặc dù bé nhỏ, sẽ tát vào mặt hắn rồi nắm râu kéo hắn đến nộp chúng ta. Và chị ta sẽ trao chồng cho Mabi để Mabi cắt tiết! Phải không, Mabi?
- Phải. Trừ phi chị ta sợ xấu hổ quá; hoặc yêu hắn… trường hợp này cũng đã xảy ra!
Có người bước vào.
- Các bạn đang nói ai đấy?
- Lac-gi-lie (Largillière)…[18].
Chú thích:
[16] La Marianne: Cộng hòa tư sản.
[17] La Sociale: Cộng hòa xã hội.
[18] Largillière, người cộng hòa bị kết án hồi tháng Sáu, về sau làm mật thám thật và đã phải nộp mạng trong những ngày Công xã.