- XXIV -
18 tháng Ba.
Cộc, cộc!
Ai đấy?
Đấy là một trong ba người bạn thân biết chỗ ẩn núp của tôi; anh ta thở hổn hển, mặt tái xanh.
Chuyện gì vậy?
Một trung đoàn chiến đấu đã chạy sang phía nhân dân.
Vậy là đánh nhau à?
Không, nhưng Pari hiện đã thuộc về Ủy ban Trung ương. Sáng nay hai viên tướng bị quân lính bắn tan sọ.
Ở đâu?…. Chuyện thế nào?….
Một tên đã hô bắn vào đám đông. Quân lính của hắn, hòa mình với các chiến sĩ công xã, đã lôi hắn xuống và giết chết: chính một viên đội vận đồng phục bộ binh đã nổ súng đầu tiên. Còn tên kia là Clêmăng Tômax tới để do thám, một tay cựu tháng Sáu nhận được mặt hắn. Thế là cũng ẩn hắn vào tường, bắn!…. Xác chúng, lỗ chỗ vết đạn, bây giờ nằm trong một khu vườn phố hàng Hoa, phía bên kia, ở Môngmactrơ.
Anh bạn ngừng nói.
Thế đấy! Cách mạng nổ ra rồi!
Vậy là nó tới, cái giây phút đã ước mong và đợi chờ, kể từ hành động độc ác đầu tiên của người cha, từ cái tát đầu tiên của kẻ lên mặt mô phạm, kể từ cái ngày đầu tiên không có bánh ăn, từ cái đêm đầu tiên không có nhà ở - đó là sự trả thù của trường học, của bần cùng, và của tháng Chạp!
Dù sao tôi cũng thấy rùng mình. Tôi chẳng muốn có những vết máu ấy trên bàn tay chúng ta, ngay buổi bình minh của chiến thắng.
Cũng có khi viễn ảnh của cuộc rút lui bị chặn, của cuộc chém giết không tránh được, của mối nguy đen tối, đã làm tôi ớn lạnh…. ít vì sợ mình bị buộc vào cuộc đại tàn sát hơn là vì nghĩ rằng một ngày kia tôi có thể phải chỉ huy nó.
Tin cuối cùng của anh là từ lúc nào?
Cách đây một giờ.
Và anh chắc rằng người ta không đánh nhau, không xảy ra chuyện gì mới, chuyện gì bi thảm, từ sau cuộc nổ súng đó à?
Không.
Phố xá mới yên tĩnh làm sao!
Chẳng có dấu vết gì chỉ ra rằng đã có một cái gì đổi khác dưới bầu trời, rằng những Bruytuyx ăn lương ba hào đã vượt sông Ruybicông để chống lại một tên Xêda lùn oặt!
À, còn Futrikê bây giờ ra sao? Chie ở đâu?….
Không ai trả lời được cả.
Người thì nghĩ hắn đang ẩn náu và chuẩn bị chuồn; người khác cho rằng hắn đang cựa quạy trong một xó nào đó, và ra lệnh để cho các lực lượng tư sản tập hợp lại và kéo tới đè bẹp cuộc khởi nghĩa.
Quảng trường Thị chính lúc này vắng tanh; trước tôi nghĩ nó phải đầy ngập quần chúng xôn xao, hoặc nó phải tua tủa những đại bác quay họng về phía chúng tôi.
Ngược lại, nó câm lặng và rỗng không; chưa có đám quân xung phong nào trong đó cả - cũng chưa có kẻ liều mình nào, với sự táo bạo của lòng tin, đến đốt cháy cả Nghị trường, như người đốt đèn châm lửa cả chùm hoa đăng!
Đám đông đứng ở rìa Quảng trường, thành hàng người tò mò chứ không phải thành vòng vây chiến đấu.
Và họ bàn tán rôm rả!
Trong sân đầy pháo, mồi lửa đã châm sẵn, pháo thủ đang đợi lệnh…. Bạn có nhớ ngày 22 tháng Giêng không? Nếu ta tiến lên một bước, cửa ra vào và cửa sổ sẽ mở toang, và chúng ta sẽ bị súng kề tận nơi mà bắn!
Đấy là điều người ta nói với nhau xung quanh quảng trường mà bóng đêm đã lẩn, và ở đó tôi ngỡ trông thấy sừng sững bóng hai viên tướng đẫm máu.
Nhưng một công dân chạy tới.
Phố Đền đã bị Răngviê chiếm đóng…. Bruynen đã tập hợp tiểu đoàn của anh ở phố Rivôli….
Răngviê và Bruynen đang ở đó! Tôi phải tới!
Anh cứ đi men theo bờ tường! Nhỡ có nổ súng cũng đỡ nguy hiểm.
Tôi chắc không có đâu! Nếu có súng liên thanh trong sân và có quân cơ động Brơtông ở đàng sau cửa kính, thì ta đã trông thấy!
Và chúng ta rẽ hàng người ra; chúng tôi kéo theo một số trong đám do dự, một số khác bỏ hàng và đi theo chúng tôi.
Đây Bruynen quả thật mặc lễ phục, nhưng anh đã chạy ra cửa với quân lính của anh.
Tôi chạy tới.
Anh giải thích tình hình cho tôi rõ.
Chúng ta đang làm chủ trận địa. Dù chúng tập hợp lại ở chỗ nào mà ta không biết và chúng tấn công chúng ta, chúng ta vẫn có thể chống giữ được khá lâu để đợi Ủy ban trung ương mang viện binh tới…. Đúng là Răngviê đang ở gần đây, như người ta đã nói với anh. Lại có tin chắc chắn rằng Đuyvan đã cùng quân quận V và quận XIII tấn công Sở cảnh sát: nếu tin đó không đúng thì phải ra lệnh cho anh ta tiến quân ngay…. Chẳng hạn, phải đặt phố Đền suốt đêm trong tình thế chiến tranh. Tôi đã làm lính, và tôi chủ trương kỷ luật của khởi nghĩa, chống với kỷ luật của trại lính…. Vậy anh hãy đi tìm Răngviê vì anh là bạn thân thiết của anh ấy, anh lấy danh nghĩa bạn truyền đạt cho anh ấy những nhận xét trên. Tôi mà làm như vậy không được, tôi sẽ có vẻ lên mặt chỉ huy.
Đồng ý!
Cái anh chàng xanh xao ấy, đang đứng kia, đốc thúc dựng một rào chướng ngại.
Đấy! Xong rồi. Cậu nhìn xem.
Một hàng lưỡi lê đen ngòm cả một hàng người câm lặng! Đấy là đội quân của Đuyvan, im lặng như đội quân của Aniban hoặc của Napôlêông, sau khi có lệnh phải bí mật qua Xanh-Goota hoặc núi Anpơ.
Nhân dân đã phòng bị - đêm nay sẽ đảm bảo.
Nhưng ngày mai, khi mặt trời mọc, cần có một tiếng kèn dữ dội gọi nhân dân.
Và tôi tới đánh thức một anh bạn.
Tiếng kêu của dân chúng sắp tái bản!…. Anh chạy đi báo tin cho Macxen, anh xem vấn đề giấy cho nhà in…. Cho tôi ngay một cái bút, để viết bài đầu tiên!
Và tôi ngồi vào bàn.
Nhưng không! Tôi chẳng viết được.
Máu sôi quá mạnh trong huyết quản tôi; tư tưởng thiêu cháy cả lời trong óc tôi; câu tôi viết ra có vẻ, hoặc khoa trương quá, hoặc đơn giản quá, không xứng với tấn bi kịch lớn vừa mở màn, nó như màn sân khấu, có hai lỗ thủng – do hai phát đạn đâu như bắn giữa trán hai kẻ bị hành hình.
Khi mạch máu tôi đã nguội bớt, khi bên cửa sổ mở, tôi ngồi tựa và nhìn đăm đăm vào đô thành, thì giấc ngủ và sự yên tĩnh của nó làm tôi phát sợ!
Thành phố phải chăng không đồng ý với khởi nghĩa. Việc bắn hai viên tướng, khi xuyên qua mục tiêu con người, phải chăng đã chạm vào trái tim của Pari không sẵn sàng chiến đấu? Khởi nghĩa phải chăng chỉ là sự nghiệp của vài thủ lĩnh và vài tiểu đoàn táo bạo?
Tại sao không thấy có một cơn chuyển mình, một tiếng chân bước, một tiếng loảng xoảng của vũ khí?
Tôi có nên đi xuống và quay lại chỗ những người khởi nghĩa, chỗ đám quân đen của Đuy-van, chỗ rào chướng ngại xám của Răng-vi-ê?
Thôi đi! Làm kẻ bênh vực những người nghèo hèn như tôi, tôi vẫn còn cái lo sợ của bọn mặc áo rơ-đanh-gốt trước những tên tuổi tối tăm!
Và tôi đóng cửa sổ lại trước cái Thành phố bí hiểm và dường như chết, khi mà người ta bảo là nó hồi sinh! Tôi đã đóng cửa sổ lại, và óc tôi cũng kín bưng – ý kiến không đến với tôi nữa!
Trên một chiếc ghế trường kỷ lòi cả rơm nhồi, tôi đã trải qua những giờ đáng lẽ phải đứng, hoặc nằm co, sẵn sàng nổ súng, trên một tấm phản.
Sáng hôm sau, tôi chạy tới những bạn thân.
Họ cũng thế, họ đang chờ đợi – sững sờ vì vụ Mông-mac-trờ như sét đánh.
Thế mà, trong đám bạn ấy, có những người gan dạ như những lưỡi kiếm. Điều đó làm tôi vững tâm, và lòng tôi khỏi áy náy.
Đây không phải trước một nguy hiểm các bạn tôi và tôi đã chùn lại cả một đêm, mà chính là trước một nửa cuộc chiến thắng thu được không có bọn tôi, chúng tôi có thể bỏ mất nếu vào trận quá muộn.
Tôi đi về phía tòa Thị chính.
- Ủy ban Trung ương ở đâu?
- Ở trên gác. Bên tay phải.
Tôi bước qua những người nằm ngủ vật xuống như những con vật mệt lử, tên bậc cầu thang. Họ làm tôi nhớ lại những con bò ngã gục trên đường phố hồi bị vây hãm, dưới ánh trăng phơi ra những thân hình to lớn đỏ hung.
Những người đó, đứng suốt từ rạng đông hôm qua, đã làm nhiệm vụ và phần việc lao công: họ sau khi dùng lưỡi lê đâm vào ức ngựa bọn đảo ngũ chop bu Vi-noa, tối đến lại thái bánh, phân phát thức ăn: nhiều người trong số đó đã tưới phần thịt và cơn mệt nhọc của họ bằng một chút rượu vang làm họ lại sức – và họ ngà ngà say.
Nhưng không một ai trong số những người không thể vồ lấy khẩu súng nhằm và bắn ấy, nếu như Mô-rô, hoặc Đuy-răng hoặc Lăm-be – đó là tên các vị tướng của họ! – bỗng kêu lên là Fe-ry đã trở lại với một I-bôx và tiểu đoàn 106 như ngày 31 tháng mười [38].
- Cầm vũ khí!
Tất cả sẽ vứt bỏ chiếc cốc thiếc để cầm lấy bao đạn, và sẽ xỉa, không phải thịt trớp ngoại ô bằng con dao mười ba xu nữa, mà là xỉa vào mạng mỡ bọn tư sản bằng chiếc fuốc-sét một răng cắm ở đầu súng.
Nhưng, trong lúc này, không có gì bộc lộ cơn giận dữ, mà cũng chẳng có gì kích thích nhiệt tình!
Người ta ngỡ đây là một trung đoàn được phép ngủ trên bậc thềm một cơ quan hàng quận vì thiếu nhà trú quân, và người ta đã bảo họ tự tổ chức, được chăng hay chờ, việc nấu xúp đốt lửa và đèn nến.
Chú thích:
[38] Tiểu đoàn 106 do Thôx chỉ huy đã cứu thoát Chính phủ lâm thời trong vụ 31 tháng mười 1870.