← Quay lại trang sách

- XXXIV -

Thứ bảy. Quảng trường Ba-cột.

Người ta phải đứng suốt đêm. Tới rạng đông. Cuốcnê, Theixz, Camêlina và tôi, chúng tôi lại xuôi về Pari.

Phố Angulêm vẫn còn cầm cự. Chính tiểu đoàn 209, mà Camêlina là người vác cờ, đang chống giữ một cách tuyệt vọng ở đó.

Lúc mọi người thấy Camêlina đến, họ đã hoan nghênh anh nhiệt liệt. Còn tôi, họ cũng mến thật đấy nhưng có chỗ hơi khinh thường. Trước hết, tôi là người của “Chính phủ”, sau nữa, cả đời tôi chẳng biết đeo cái gì kể cả chiếc băng mà tôi đeo khi thì quá cao, khi lại quá thấp, và trước hồi nguy biến này, tôi ỉu xìu cầm nó trong tay, cuốn nó trong tờ báo - như một con tôm hùm.

- Này! Cái nhà ông điệu bộ phải gió kia, đứng khoanh tay làm điệu Bôđanh[47] ở trên ấy thoải mái lắm nhỉ, trong khi bọn này phải bò bốn chân để nhai bùn như thế này.

Quả là từ một tiếng đồng hồ, họ phải nằm áp bụng xuống bùn, mặt mũi lem luốc, quần áo bê bết đất, để chĩa súng bắn qua lỗ châu mai sát đất, và làm cho bọn địch khốn khổ.

Vị ủy viên Công xã đứng tựa vào góc rào chướng ngại. Trán vị nhô lên cao hơn cả đống đá, và đạn bắn xung quanh thành một vầng hào quang đang bắt đầu thu hẹp lại. Nhưng dân đánh đấm không hài lòng: vị này cũng chia xẻ phần nguy hiểm thật đấy, nhưng vị cũng phải đánh đấm, phải ăn cát, lấm mõm, phệt xuống đất như anh em kia!

- Ông điệu bộ, thôi đi đi!

Chậc! Rốt cuộc, họ làm rầy tôi! Họ đã không nghe tôi nữa thì tôi lấy lại quyền tự do của tôi và chọn lấy miếng đất của tôi.

Hồi xưa, dạo tôi chỉ huy tiểu đoàn 191, tôi đã bù lại cái vẻ dân vệ và sự bất lực về quân sự của tôi bằng cách thề rằng lúc lâm nguy, tôi sẽ ở lại với tiểu đoàn hoặc với tàn quân của nó.

Tôi tới đó.

Đám tàn quân của tiểu đoàn cũng không nhiều nhặn lắm, nhưng nó rất hài lòng được gặp lại tôi.

- Thế anh không bỏ chúng tôi nữa chứ?…

- Không!

- Thế thì hay lắm, bạn công dân ạ!

Chủ nhật 28 tháng năm, 5 giờ sáng.

Chúng tôi đang ở cái rào chướng ngại khổng lồ ở cuối phố Belơvin, xế trước mặt phòng Faviê. Chúng tôi đã rút thăm, tôi với anh chỉ huy đã thay tôi, xem ai sẽ đi ngủ một lát.

Tôi trúng thăm, và bây giờ tôi nằm duỗi dài trên chiếc giường cũ, kê tít trong cùng một ngôi nhà bỏ hoang.

Tôi khó ngủ. Những con sâu đã cắn hại chăn nệm bỗng nhoi nhói dưới da tôi - Chúng nó thật vội vàng quá!…

Tôi đi thay phiên ông bạn.

Cho đến nay tôi tranh đấu với anh em Công xã nhiều hơn là với bọn Vécxây.

Lúc này chỉ còn có mỗi khu ngoại ô này là tự do, và cũng chẳng còn bọn phản bội hay bọn khả nghi để xét xử, công việc dễ dàng hơn. Vấn đề chỉ là cầm cự vì danh dự và ra đứng bên lá cờ như các sĩ quan đứng bên cột buồm chỉnh lúc con tầu đắm.

Thì có tôi đây.

Bằng súng trường và đại bác, chúng tôi đáp lại hỏa lực ghê gớm chĩa vào chúng tôi.

Ở cửa sổ nhà Vâyơdơ và tất cả các ngôi nhà ở góc phố, quân ta đã đặt nệm rơm mà một ổ nệm bốc khói do đạn xuyên vào.

Lát lát, một cái đầu nhô lên như con rối trên một hàng lan can.

Trúng!

Chúng tôi có một cỗ pháo do những pháo thủ im lặng, dũng cảm sử dụng. Một anh trong số đó không quá hai mươi tuổi, tóc mầu lúa mì, con ngươi mầu hoa mua. Anh ta đỏ mặt như con gái, khi người ta khen anh bắn trúng.

Một phút im ắng.

- Một tay tới điều đình chắc?

- Đến bảo chúng ta đầu hàng.

- Đầu hàng! Cứ để cho nó tới!…

- Anh định bắt nó làm tù binh à?

Anh cho tôi là người thế nào? Những trò phản phúc ấy thì dành cho bọn Vécxây! Nhưng tôi ưng ném vào mặt nó cái lời của Cămbron[48]!

Nghe có tiếng kêu nẻo phố Rơbơvan.

- Hay chúng luồn sau lưng trong lúc sứ giả của chúng đánh lạc sự chú ý của ta?… Vanhtrax, anh tới đó xem sao!

- Cái gì thế?

- Đây này, có anh thường dân kia ở lẫn với chúng tôi, bây giờ hắn không làm phận sự của hắn.

- Phải, tôi không làm… Tôi phản đối chiến tranh!

Và thằng cha, bốn mươi tuổi, râu cố đạo, vẻ ung dung, bước tới gần tôi nói:

- Đúng, tôi tán thành hòa bình chống chiến tranh! Tôi không đi với họ, cũng chẳng đi với các ông… tôi thách các ông bắt được tôi chiến đấu!

Nhưng cái lý sự ấy không hợp khẩu vị các chiến sĩ Công xã.

- Thế mày ngỡ mọi người không ưa làm như mày à? Thế mày ngỡ người ta bắn nhau để đùa à? Thôi đi! cầm lấy bao đạn này và cho khạc đi, hay tao cho khạc vào mày… không bỡn đâu!…

- Tôi tán thành hòa bình chống chiến tranh!

- Mẹ kiếp đồ súc vật! Mày muốn bao đạn… hay viên đạn?

Hắn khịt khịt trước viên đạn, rồi bước theo anh kia, kéo lê khẩu súng như lê cái nạng.

Tên sứ giả đi ra xa.

- Đ… m…! anh chỉ huy đứng trên cái bục đá chửi.

Thình lình các cửa sổ bật tung, ụ chiến lũy đổ sập.

Anh pháo thủ tóc hung thét lên một tiếng. Một viên đạn trúng vào giữa trán anh, và khoét thành như thể một con mắt đen giữa cặp mắt xanh của anh.

- Hỏng rồi! Chạy mau lên!

…………

- Ai muốn che giấu hai nghĩa quân?

Chúng tôi đã kêu lên như vậy trong cái sân, mắt ngước lên các tầng gác, như những người hành khất chờ một đồng xu.

Không ai bố thí cho chúng tôi cả! Cái bố thí cầu xin với vũ khí trong tay!

Cách chúng tôi mươi bước, một lá cờ tam tài!

Nó ở đó, tinh tươm, óng ánh và mới tinh, lá cờ với màu sắc tươi tắn như chửi với lá cờ của chúng tôi, mà đó đây từng mảnh rủ xuống, cháy xém, lấm bùn, và khét lẹt như những cánh hoa anh túc bị giẫm nát và tàn úa.

Một chị phụ nữ đón tiếp chúng tôi.

- Chồng tôi ở chiếc xe cứu thương gần đây. Nếu các ông bằng lòng, tôi dẫn các ông tới đó!

Rồi chị dẫn đường chúng tôi, dưới trận mưa đạn rít lên ở đàng trước, đàng sau chúng tôi, phá vỡ những bóng đèn lồng, xén đứt những cành cây hạt dẻ.

Chúng tôi đã tới! Thật đúng lúc!

- Một bác sĩ mổ xẻ bước ra, tay đeo băng chữ thập Giơnevơ.

- Bác sĩ có cho chúng tôi trốn nhờ không?

- Không, các ông sẽ làm cho bệnh nhân của tôi bị tàn sát! Lại lang thang ngoài phố.

Nhưng người chồng biết một trạm xá khác không xa lắm.

Chúng tôi tới đó.

- Ở đây có cho chúng tôi trốn nhờ không?…

Được!

Câu trả lời dứt khoát và ngang nhiên ấy là của một chị bán căng-tin vận đồng phục đường làng - một giai nhân chừng hăm nhăm tuổi, ngực nở nang và dáng thanh tú trong bộ giáp bằng dạ xanh. Cô ta không hãi cô nàng lực lưỡng ấy!

- Các ông xem kia, tôi có mười lăm người bị thương. Ông sẽ đóng vai bác sĩ; còn bạn ông là sinh viên thực tập.

Rồi cô lấy áo khoác bệnh viện buộc vào sườn chúng tôi.

Chúng tôi lấy lại sức. Cô đánh trứng, rán lên, rót rượu hồi sức cho chúng tôi. Tới lúc ăn tráng miệng thì người ta quên cả nguy hiểm… da thịt nóng ran và mắt sáng quắc!

Nhưng từ phòng những người bị cụt, một tiếng thở dài vọng đến làm tim chúng tôi căng lên.

- Ôi chao! Hãy đến đây nói chuyện trước khi tôi chết!

Chúng tôi đứng dậy khỏi bàn ăn… nhưng muộn rồi!

Bên cạnh cái xác chết còn ấm ấy, trong gian buồng tối tăm ấy - cửa tò vò đều phủ đệm kín - những tư tưởng buồn bã trở lại xâm chiếm chúng tôi. Chúng tôi câm lặng; cố nhìn qua một khe hở ra vỉa hè.

Một người lính thủy lượn đi lượn lại như con chó rừng. Sau hắn, một người lính thủy nữa rồi đến một lính bộ binh; một đại đội, một viên trung úy mặt nhẵn nhụi.

- Bảo tất cả mọi người xuống!

Tôi xuống đầu tiên.

- Trạm trưởng đâu?

- Tôi đây.

- Tên ông là gì?

Người ta đã dặn tôi cách nói, tôi lắp lại.

- Tại sao lại có chiếc xe kia?

Chính cô bán căng-tin đã cho thắng ngựa vào xe, để hễ ngớt tiếng súng là chúng tôi nhảy lên và chuồn thẳng.

Tôi đáp lại không nao núng:

- Ông tới đây hành nghề của ông, tôi cũng sắp hành nghề của tôi: đi chữa chạy và thu nhặt phế binh.

Hắn chau mày, và nhìn tôi chằm chằm.

- Có phải tháo ngựa ra không?…

Hắn nhìn tôi một lần nữa, rồi vẩy cái đầu roi ra hiệu mở đường.

- Larốtsét, anh có đi với tôi không?

- Không, ông không đi quá được hai mươi mét đâu. Ông đi vào chỗ chết đấy!

Tôi cứ phóng vào chỗ ấy, vì tôi thúc ngựa.

Có hàng mười lần tôi suýt bị bắt, và tôi sắp bị bắt thật sự, thì một viên sĩ quan chính quy vô tình đã cứu tôi. Hắn nhảy ra trước con ngựa.

- Đừng đi về phía này! Bọn khốn kiếp vẫn còn đang bắn từ trên kia xuống!

- Thế đấy! Vậy thì vị trí của tôi là ở đây; con dao mổ của tôi được việc gì chăng?

Và tôi nhảy từ xe xuống.

- Đối với một thường dân, ông là gan dạ đấy! Tay quân nhân vừa nói vừa cười.

Thưa đại úy, tôi khát quá. Liệu có cách nào kiếm được một cốc sâm-banh, ở cái xứ run sợ này không nhỉ?

Ở tiệm cà-phê kia, có lẽ có đấy!…

Tôi với hắn làm một hơi hết chai rượu, rồi tôi lại leo lên bậc xe.

- Rất sung sướng sẽ được gặp lại bác sĩ!

Lời chào tạm biệt đó đã làm yên tâm mấy bộ mặt khả nghi, từ nãy vẫn lượn lờ quanh chiếc xe, làm tôi phải giở cái trò hề đó và cuộc chạm cốc đó.

- Bác đánh xe, ra roi đi!

Bác đánh xe của tôi dường như chẳng biết là mình chở ai, và có vẻ ra roi chỉ vì tiền diêm thuốc thôi.

Tuy nhiên vẫn phải tiến lên.

- Tới trạm xá!

Tôi chạm trán với bọn đồng nghiệp đang thơ thẩn với chiếc cổ áo tím và hoa thêu kim tuyến giữa những người đang nấu xúp hoặc đang rửa bệ pháo.

Không ít người quay lại khi thấy tôi qua. Nhưng ai mà nhận ra Jăc Vanhtrax được?… Cằm tôi nhẵn nhụi và tôi đeo kính xanh!

Lúc nãy, tôi bắt gặp trong một tấm gương cửa hàng một cái đầu mày râu nhẵn nhụi, xương xương, và tái nhợt như mặt thầy tu, tóc lật về đằng sau, không rẽ ngôi! Diện mạo một kẻ tàn nhẫn! Vẻ mặt một quân du kích hung dữ! Chắc họ cho tôi là một gã cuồng tín đi tìm thương binh để kết liễu tính mạng hơn là để cứu chữa.

- Thương binh à? Chúng tôi không gây ra thương binh! một viên quản nói với tôi, còn thương binh của ta thì đã có các bác sĩ mổ xẻ của trung đoàn đưa họ tới những địa điểm riêng. Nhưng nếu ông mang được những xác chết kia đi, thì ông giúp chúng tôi được một việc rất tốt; từ hai hôm nay nó thối xông lên chúng tôi.

May mà… hắn lại im! Tôi đã đỏ mắt lên.

- Một! Hai!

Chúng tôi khiêng xác chết lên xe.

Thế rồi, chính bọn lính kéo cương ngựa và đẩy bánh xe, để chúng tôi mang đi cho mau những thây ma sắp gây bệnh dịch cho chúng.

Trên một xác chết mà chúng tôi nhặt được ở đằng sau một đống gỗ, trong một công trường, ruồi nhặng vo ve như vo ve trên một con chó chết!

Chúng tôi chở đi bảy cái xác. Không tài nào chở hơn được nữa; và chiếc tạp-dề của tôi chỉ còn là một mảng máu đặc to tướng! Ngay bọn lính chiến cũng quay mặt đi, và chúng tôi phóng thênh thang trên một vệt dài kinh khủng.

- Xe đi đâu? một tên gác cuối cùng hỏi.

- Kia, bệnh viện Xanh-Ăngtoan!

Đầy những người đeo băng tay.

Tôi tiến thẳng tới họ và ra hiệu chỉ vào mớ thịt người của tôi.

- Ông đổ những xác của ông vào trong buồng này! Buồng ngổn ngang những xác chết; một cánh tay cản đường tôi, một cánh tay mà cái chết đã chộp lấy và giữ lại ở cái điệu thách thức anh dũng, giơ thẳng, hăm dọa với một quả đấm chắc đụng vào một cái mũi sĩ quan trước tốp lính hành hình!

Người ta đang lục soát các nạn nhân. Trên một xác thấy một quyển vở học sinh: đấy là một em gái mười tuổi, bị một nhát lưỡi lê vào gáy nhưng vẫn còn nguyên chiếc băng nhỏ màu hồng buộc một huy hiệu bằng đồng.

Trên một xác khác, có một hộp đựng thuốc, một cặp kính, bốn xu, và một mảnh giấy nói chị ta là hộ lý, đã bốn mươi tuổi.

Chỗ này là một cụ già mình trần nhô lên ở giữa nhà xác. Máu trong người đã chảy hết, mặt ông cụ đâm trắng bệch đến nỗi bức tường quét vôi trắng bên cạnh tưởng như màu xám. Người ta ngỡ là một tượng bán thân bằng cẩm thạch, một mảnh tượng bị đem bêu.

Cái người đang thống kê chợt bị gọi đi nhận mặt một người khả nghi. Hắn nhờ tôi thay chân hắn một lúc.

Ông ngồi ở góc bàn kia.

Như vậy làm tôi giấu được ánh mắt của mình, nhưng đôi khi vẫn phải trả lời một câu hỏi, và lộ cái giọng nói của mình ra!

Tay thống kê trở vào và lại ngồi vào bàn.

- Thôi, ông được tự do, cảm ơn ông!

Tự do! Tôi chưa được đâu; nhưng cũng sắp thôi… hoặc sẽ bị bắt.

- Đi! Đi ngay đi! người dẫn đường thì thào ra vẻ kinh hãi. Người ta thắc mắc muốn biết ông là ai đấy.

May sao, người ta đang giết người cách đấy không xa; họ chẳng muốn bỏ lỡ dịp thưởng thức cái cảnh tượng ấy, và họ chạy cả tới đó.

Cảnh xô đẩy che chở chúng tôi. Chúng tôi lại ra đi.

- Đứng lại! Ông là ai?

Tôi giơ tờ giấy ký nhận bi thảm của tôi ra.

- Được! Thôi đi… Đứng lại!

- Sao vậy?

- Ông có thể chở giúp một phế binh tới bệnh xá được không?

- Được lắm chứ!

Bây giờ thì chúng tôi là những người ngay thật! Chúng tôi nắm trong tay anh lính chiến. Tôi những muốn ôm hôn anh!

Anh ta đòi được băng bó. Chà! Quái ác!

- Không tốt đâu, băng bó không tốt đâu, cậu ơi! Băng bó có khỏi được đâu!

Anh vẫn nằn nì. Thôi mặc, tôi sẽ băng bó cho anh ta… anh sẽ chết mất!

Cuối cùng người ta cũng thuyết phục được anh. Nhưng anh ta còn muốn gì nữa!

- Bác sĩ ơi! bác sĩ! Trung tá và thiếu tá của tôi kia. Tôi muốn chào vĩnh biệt các vị.

- Không tốt! Xúc động không tốt đâu, cậu ạ! Rồi sốt đấy!

Bây giờ xe chúng tôi chạy trên nhung.

Mỗi lần phải vượt qua một cửa ải đầy lính tráng, tôi lại lấy cậu lính bộ binh làm thần hộ mệnh. Cậu ta yếu lắm!… miễn là cậu sống được đến Nhà thương!

Tai họa! Con ngựa bị tuột móng sắt và chạy khập khiễng. Nó không muốn đi nữa; người ta đã bắt nó làm việc nhiều quá.

- Đấy ông xem, bác đánh xe nói, đáng lẽ ta phải cho nó uống máu!

Ôi chao! Lần này tôi nguy mất!

Một người đứng đó, mắt hắn soi mói nhìn thẳng vào mắt tôi, và tôi cảm thấy hắn đã đoán được ra tôi! Phải chăng là cái gã hồi ở báo Tranh luận, đã chau mày khi đọc lá thư của Mitsơlê bênh vực các bạn tôi ở La Vilet, và hắn có vẻ muốn để người ta trừng trị những người bị kết án?… Hôm nay hắn chỉ cần ra hiệu một cái, là bọn đao phủ của hắn sẽ thịt tôi ngay.

Nhưng lần này vẫn chưa sao.

Gã kia ngỡ mình bị lầm chăng? Hay hắn ghê tởm một sự tố giác?… Hắn bỏ đi.

- Ông đuy Căng vừa bỏ đi đấy, một tay đeo ngù vai vừa nói vừa chỉ hắn.

Đến lượt chính tay đeo ngù đứng sững trước mắt tôi. Tim tôi nhảy thon thót trong ngực…

Nhưng bỗng mui xe hé ra, anh lính hấp hối thò bộ mặt hết máu ra, vừa giơ cánh tay ngọ nguậy chơi vơi, vừa lẩm bẩm:

- Thưa sĩ quan, cho tôi bắt tay trước khi chết!

Anh thốt ra một tiếng: “Ơi!” rồi ngã vật xuống.

Sọ anh nảy lên đập vào thành xe.

- Khốn khổ! Cám ơn bác sĩ!

Mau, đi thôi! Ôi! Ngựa với nghẽo! Nhong ếp!

Phải trao lại xác anh lính: chúng tôi vụt vào cổng Nhà thương.

Viên giám đốc đứng ở sân… ông ta nhận ra tôi lập tức.

Tôi bước thẳng tới.

- Ông có định tố giác tôi không?

- Năm phút nữa, tôi sẽ trả lời ông.

Năm phút ấy, tôi thấy ngắn thôi. Tôi vừa đủ thì giờ vuốt lại áo sơ-mi, kéo cổ áo cho ngay ngắn, lấy ngón tay chải đầu. Bao nhiêu việc phải làm! Sửa qua loa quần áo, tìm lời trối trăng, định thái độ cần thiết!

Viên giám đốc quay lại và bảo người gác cổng:

- Mở cổng ra.

Ông ta vội quay gót vì đã gắng hết sức và không muốn để tôi có cử chỉ cám ơn.

Con ngoẽo khập khiễng lại lên đường.

- Ta đi đâu bây giờ?

- Phố Môngpacnatxơ.

Tới nhà anh thư ký của Xanhtơ-Bơvờ! Anh sẽ cho tôi ẩn náu, nếu tôi tới được nhà anh.

Nhưng, với con ngựa tàng thở phì phò, chúng tôi đi qua các xó xỉnh ở đó tôi đã sống hai mươi năm, tôi đã qua ngày thứ ba với tiểu đoàn Bố Đuysên, ở đó người ta chỉ thấy độc mình tôi trong ba ngày đầu của tuần lễ…

Nhưng đã đến lúc lòng can đảm của bác đánh xe đã bị kiệt.

- Thôi đủ rồi… tôi muốn cứu cái tính mạng của tôi. Ông xuống đi… vĩnh biệt!

Bác quất một roi kinh khủng làm con vật chạy lồng lên, và biến mất.

Tôi náu vào đâu bây giờ?

Xem nào! Ở ngõ Commecxờ, cách đây mươi bước có một khách sạn tôi đã trọ hồi xưa, đường vắng là con đường đi qua phố Êpơrông và cái ngõ!

Khu phố này đã bị chiếm từ năm hôm nay; ít thấy quần dạ đỏ.

Tôi leo lên cầu thang, người ta đang rống lên ở trong nhà.

- Phải, chính tôi, đại úy Lơteriê, nói với các anh rằng thằng cha Vanhtrax của các anh đã chết như một thằng hèn! Nó đã lăn ra đất! Đã khóc, đã xin tha!… Chính tôi đã trông thấy nó!

Tôi khẽ gõ cửa. Bà chủ trọ ra mở cửa.

Tôi đây mà, bà đừng kêu lên! Nếu bà đuổi tôi tôi sẽ chết…

- Vào đi, ông Vanhtrax.