NHỮNG CHÙM CÚC BIỂN
Tôi là một cô giáo vùng biển. Câu chuyện tôi sắp kể ra đây không gì hơn là chuyện xẩy ra giữa những đứa trẻ và cô giáo của chúng.
Cuộc đời sư phạm và cái số lận đận đã dẫn tôi vào những cảnh ngộ khác nhau. Những khó khăn hàng ngày của một cô giáo trẻ, bờ biển, bão mùa hè và gió mùa đông, nỗi đau vì người chồng chết sớm, cuối cùng là những đứa học trò hư hỏng, rồi đến chuyện tẩn mẩn, gần gũi, uốn nắn và khêu gợi năng khiếu các em. Đây là phần quan trọng nhất của đời tôi.
Hôm đó tôi đến lớp như mọi lần. Lớp nằm trên bờ biển. Từ bãi cát ẩm đầu thu bốc lên mùi những con sứa giạt vào đêm hôm qua đang tan chảy trong nắng. Thêm vào đó là tiếng thì thầm của cánh rừng thông kéo dài từ đồn biên phòng đến cuối phố chợ. Tôi bắt đầu kiểm tra bài.
– Em Tý lên bảng!
Một em học sinh trong hàng ghế cuối cùng miễn cưỡng đứng lên. Ngay từ hôm khai giảng, thằng bé đã làm tôi chú ý. Tý mặc quần ống cao, ống thấp, một dòng mũi sữa bò bám vào môi trên như con đỉa. Linh tính mách tôi: “Lại gặp một ông tướng rồi đây”. Tôi đã không nhầm. Tý không phải là đứa ngỗ ngược, nhưng đời sống của nó là của biển. Trong những giờ ra chơi, Tý cởi quần áo chạy xuống bãi cát, nhảy xuống nước bơi một chập rồi vào lớp với cái đầu ướt, nước chảy ròng ròng. Lại còn chuyện vườn cây. Tý đưa vào vườn trường những loại cây xương rồng kỳ quái không biết lấy đâu ra. Xương rồng phát triển rất nhanh, trên bãi cát khô cằn nó có ưu thế hơn những thứ cây khác, đến nỗi sau một thời gian ngắn, cả miếng vườn xinh xắn của lớp tôi chỉ còn lại mỗi xương rồng. Rồi đến những bài tính đố không làm ra, hay đúng hơn, không bao giờ ngó đến nữa. Tất cả điều an ủi còn lại chỉ là môn văn. Tý đã nhiều lần làm tôi ngạc nhiên vì những câu văn giầu tưởng tượng và ngộ nghĩnh: “Con cá chim giống như bàn tay em bé đập đập trong rổ cá của mẹ em”, “Sừng bò nhọn, nhưng sừng trâu còn nhọn hơn nhiều”…
Tôi không mừng mà lo. Bởi vì, đối với một học sinh hãy còn chảy mũi mà năng khiếu phát triển không đều thì cô giáo không thể bỏ qua được. Vì vậy, Tý là cậu bé được tôi gọi lên bảng nhiều nhất lớp, và nó khiếp sợ, nếu có thể nói như thế. Và hôm nay, tôi không ngờ sự uốn nắn có dụng ý của tôi đã gây ra một phản ứng thật sự.
– Một người đi chợ... – Tôi ra đầu bài.
Tý nép người vào bảng, tay run run viết những con số. Nhưng nó bỗng dừng tay lại, đỏ mặt nhìn tôi. Lại thêm một bài toán không giải được nữa rồi.
– Đó là do em không chịu làm bài tập ở nhà – Tôi nghiêm giọng nói.
– Thưa cô…
– Ở nhà em làm những gì?
– Bạn ấy bơi suốt ngày ạ – Liêu, một cậu bé chăm chỉ ngồi đầu bàn, nhắc tôi.
– Không phải, xin cô đừng nghe bạn Liêu. Em phải đến lớp nửa ngày, còn đâu mà bơi suốt ngày nữa ạ – Tý nhìn tôi vẻ oan ức.
– Thôi, thế những lúc không đi bơi thì em làm gì?
– Em đọc Đảo giấu vàng ạ.
– Đọc sách là tốt, nhưng nếu chỉ đọc truyện mà không làm toán thì có nên không? – Tôi hỏi cả lớp.
– Không ạ – Các em trả lời.
– Bây giờ em làm một bài toán khác.
Tôi không muốn nhân nhượng và phải làm cho thằng bé bất trị này quen với môn số học mới được.
Mặt Tý đỏ nhừ và đúng là một nỗi khiếp đảm đang hiện lên.
– Một đàn bò... – Tôi lạnh lùng đọc đề bài khác.
Tý đứng im, chỉ hơi ngọ nguậy người. Bỗng kỳ lạ chưa, tôi thấy, rõ ràng như hai với hai là bốn trước mắt tôi, một con rắn bằng ngón tay út ló cổ ra khỏi túi rồi từ từ bò dọc theo ống quần nhem nhuốc của Tý. Lúc bị dồn vào tử địa, con mực phun ra một làn hỏa mù, bây giờ thì cậu học sinh nhỏ của tôi thả ra một con rắn.
Con vật rơi bẹt xuống đất, ngóc cổ lên, bò trườn người một cách thoải mái giữa đám bụi phấn và sấn sổ lại phía tôi. Thú thật là, cái mà tôi sợ nhất trên đời có lẽ là loài bò sát nguy hiểm đó. Tôi nhảy ngay lên bàn và kêu lên một tiếng hoảng hốt. Thế là cả lớp vỡ tung. Lũ học sinh cũng nhảy lên, không phải chúng sợ mà hình như để nhìn cho rõ hơn cô giáo sợ như thế nào. Và tất nhiên cậu học sinh nổi tiếng của tôi thoát nạn.
Tý lặng lẽ xuống bàn, mặt tỉnh khô.
Ngày hôm sau Tý không đi học. Sau đó, hai ba ngày liền em không đến trường. Chiều hôm đó tôi đến nhà em. Một túp lều hai gian nhỏ, rách nát, nằm giữa vòng hàng rào dày đặc ghép bằng cây sậy, một thứ sậy biển to lớn, cành lá xum xuê. Cũng như những xóm chài nơi khác, ở đây người ta không muốn mà cũng không thể làm nhà đẹp. Những hàng sậy chống lại bão biển và bụi cát, kêu vi vu trong gió bốn mùa làm nên điệu nhạc quen thuộc của bờ biển.
Nhà Tý đã lên đèn. Một giọng đàn ông trầm trầm vang lên sau mái tranh. Tôi bước vào nhà và gặp ngay anh Hợi, bố Tý, một người đàn ông vạm vỡ, mắt ốc nhồi, đang ngồi trên phản nhắm rượu. Trước mặt anh, trên cái mâm gỗ, một con cá dưa bằng cánh tay khoanh tròn, bốc hơi nghi ngút. Tý ngồi hầu rượu bố, đang gỡ từng miếng cá trắng như bông, mặt ỉu xìu. Ở góc nhà, chị Hợi ngồi đan lưới trong ánh sáng chiếc đèn con để tận trong vách, trên cái phản. Tý nhận ra tôi trước tiên rồi đến ông bố. Tôi biết anh Hợi, dù không quen lắm nhưng cũng như mọi người trong làng, tôi còn biết mỗi ngày anh nốc hết bao nhiêu rượu.
– Chào cô ạ – Tý bẽn lẽn chào tôi rồi tụt xuống phản.
– Chào cô – Anh Hợi xỏ chân vào đôi guốc mộc – Hừm, cô ngồi chơi, ngồi xuống đây, hay là không dám, cô uống với bố con tôi một chén nước nhé?
“Một chén nước” ở vùng này là bữa cơm. Tôi mạnh dạn ngồi vào phản và cầm lấy đũa. Tôi đã quen tập tục ở đây và nói đùa:
– Giá có thêm một chai nữa mới đủ bộ đấy, anh ạ.
Tức thì, anh Hợi tươi hẳn lên:
– Cu Tý! Chạy ra quán bà Thủ cầm về cho bố một chai bảy nghe không con! Mấy dịp được tiếp rượu cô giáo.
Tôi cười:
– Em đùa đấy thôi, em có uống được đâu – Tôi nói với chị Hợi – Sao chị không ngồi tiếp anh ấy? Đáng lẽ chị phải cáng đáng việc này hơn là bắt học trò em đấy, bà chị ạ.
– Chả giấu gì cô. Tôi đâu có dại, ngồi ăn với ông ấy để lúc rượu vào ông ấy hắt mâm lên mặt à.
Anh Hợi gãi tai:
– Thật oan cho tôi, cô giáo. Tôi bảo anh:
– Các anh ở đây thì em còn lạ gì. Chỉ bắt nạt các chị ấy là giỏi. Chị Hợi này, chị ngồi ăn cho vui, em còn chút việc nói với cả hai anh chị đây.
Chúng tôi vào mâm, tôi chưa ăn cơm nên cũng không làm khách. Vả lại, với bà con miền biển mà khách sáo thì họ giận thật.
Sau khi con cá dưa chỉ còn cái xương dài thì tôi bắt đầu nói đến việc học hành của cu Tý. Anh Hợi đặt mạnh cái bát xuống mâm, trừng mắt bảo ông con:
– Thế mấy hôm nay ông quý tử không đi học à? Bây giờ ông lại học được ở đâu môn lủi đấy hả?
– Nó học bố nó hồi nhỏ đấy! – Chị Hợi đế chuyện.
– Này, mẹ nó đừng có nói leo, rồi chớ trách – Hợi dọa vợ rồi quay sang tôi – Cô tính, tôi còn kiểm soát được làm sao nữa cơ chứ? Chúng tôi thì suốt ngày đêm ra bể... thế... thế mà…
Những tiếng nói cục cục trong miệng anh như sỏi lăn rồi tắt hẳn. Tôi nghĩ nếu không có tôi ở đây thì thế nào cu Tý cũng không thoát đòn. Nhưng Tý vẫn lo xa và nhanh như con mèo, nó biến mất lúc nào tôi cũng không biết nữa.
Sau khi biết được “chiến công hiển hách” của con ở trường, chị Hợi tỏ rõ nỗi bực mình bằng một câu than phiền bạo gan:
– Anh Hợi này, anh còn nhớ cái hồi xửa hồi xưa, lúc thầy đồ Nghệ còn ngồi nhà ông phó Bách ấy mà. Cha gửi anh đến học được ba ngày thì anh bắt một con muỗi dán vào cánh tay, anh đập vào sau lưng thầy một cái rồi bảo: “Thưa thầy, con muỗi ạ”. Phải thế không? Cả làng người ta còn nhắc chuyện ấy – Chị phân bua với tôi – Trứng cá măng thì phải nở ra cá măng chứ, phải không cô?
– Vì ông ấy đánh tôi chứ bây giờ cô giáo làm gì mà nó dám hỗn láo thế? U mày ạ, con dại cái mang, người ta cũng thường bảo vậy. Vả lại cái chuyện thời đế quốc sài lang thì u mày lôi ra làm gì cho nó lạc hậu hả?
Anh Hợi ngượng nghịu chống chế và nhấp nốt chén rượu thừa. Tôi nói:
– Thôi, chuyện trẻ con em không để bụng đâu. Nhưng từ nay trở đi, em chỉ xin anh chị chú ý cho mấy điều: một là anh không được bắt cu Tý ngồi hầu rượu nữa, hai là bảo nó ngày mai phải đến trường, ba là anh nên kèm thêm cho cháu môn toán...
Tôi chưa ra khỏi ngõ thì chị Hợi chạy theo. Chị nói như nấc:
– Trăm sự nhờ cô... Tôi chỉ trông mong vào mình nó... Bố nó thì không dạy được ai đâu, cô bỏ qua cho cháu, cô còn lạ gì lũ trẻ ở cái làng này – Và không nín được nữa, chị òa khóc.
Mặt trăng treo trên biển như một cánh chim hải âu. Những giọt nước mắt của người mẹ làm tôi xúc động. Nếu ta cứ chịu khó đục đẽo thì khúc gỗ thông kia cũng có thể thành một thứ đồ dùng. Nhưng đối với những đứa trẻ thì sự việc lại khác hơn nhiều.
***
Tý lại đến trường. Mấy ngày đầu em còn bẽn lẽn. Nhưng chỉ vài hôm sau, đâu lại vào đấy. Nó lại chạy đuổi những bông hoa đuôi ngựa cánh nhọn như lông chim trên bồn cát hay ngụp lặn trong giờ chơi. Còn môn toán và môn “lặn” trong giờ thì hình như chẳng có gì thay đổi. Vẫn những bài toán dễ mà không có đáp số, những quy tắc được trình bầy lộn tùng phèo. Và mỗi lần gỡ bí, con cá măng ấy lại nhìn ra biển để cầu cứu. Nhưng biển thì làm được gì?
Tất nhiên sách lược của cô giáo thì vẫn như cũ. Tôi cố tìm ra những dịp tốt để kiểm tra, đưa cậu bé bất trị của tôi lên bảng đen. Và tôi không biết rằng những việc xét hỏi đầy tình mẫu tử ấy của tôi đã dẫn đến những chuyện không ngờ.
Mùa đông năm nay đến sớm hơn mọi năm. Những trận gió may đầu mùa đuổi sạch mây xám trên bầu trời và quét hết lo âu trong lòng dân đánh cá. Trời trong vắt soi gương được, còn biển thì êm dịu như một bà mẹ hiền. Cơn thịnh nộ của mưa bão đã qua. Sóng mang lên đất liền mùi thơm của biển ấm, sưởi những dải bờ nâu bốc hơi trong buổi sáng sớm.
Mọi năm vào thời gian đó, khi những bầy cá hồng, cá nụ ven bờ đã vãn, những cặp giã đôi bỏ lộng ra khơi tám chín mươi sải nước đánh cá gúng, cá thủ, câu cá dưa. Nhưng năm nay cả xóm đánh cá đóng được năm chiếc thuyền to. Để tránh mất công đi về, họ neo thuyền hàng chục ngày ngoài biển. Họ trú ở một cồn cát trông trơ trụi gọi là Cồn Vàng, dựng lên những chiếc lều tạm để thổi nấu, trú nắng. Những khi cá nhiều, cửa hàng thủy sản không thu mua kịp thì nửa Cồn Vàng biến thành sân phơi cá khô. Mỗi buổi chiều hợp tác đưa thuyền ra đón cá và cũng những chiếc thuyền ấy mang ra khơi gạo, muối, những lời thăm hỏi, nhắn tin, báo Nhân dân và các thông tư chỉ thị gửi cho chủ nhiệm hợp tác xã. Suốt thời gian đó, nhiều đứa trẻ đến tuổi đi học lại ở trên bờ. Chúng nó tự chợ búa, nấu ăn lấy nên đứa nào cũng gầy đi vì ăn uống thất thường và nhớ bố mẹ. Những ngày đó chúng tôi thường bận bịu, ngoài việc dạy ở lớp còn phải để mắt đến cuộc sống của các em ở nhà, lòng vẫn nơm nớp những bất trắc có thể xẩy ra.
Đúng năm ngày sau khi đoàn thuyền ra khơi, Tý vắng mặt ở lớp. Ngay chiều hôm đó, tôi đến nhà em. Không một bóng người. Gian nhà Tý cửa phên đóng kín, không khóa nhưng cột chặt bằng một sợi chão to tướng. Trên phên cửa dán một mảnh giấy bằng hai bàn tay, viết nguệch ngoạc mấy chữ: “Chúng tôi đã đến Đảo Vàng. Cấm vào nhà. Ai vào nhà sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm”.
Đảo Vàng? Tôi bối rối lặng người suy nghĩ. Phải chăng đó là hòn đảo mà Xti-vân-xơn đã cất giấu kho vàng của những tên cướp bể? Không. Ở đây chỉ có Cồn Vàng, nơi tạm trú của xóm chài. Nhưng Cồn Vàng, hai tiếng đó đủ sức kích thích óc tưởng tượng của những đứa trẻ như cu Tý của tôi. Tôi quay lại, men theo lối mòn trên cồn cát, suy nghĩ một mình. Thế rồi tôi hiểu, tôi dần hiểu hết. Tôi chắc Tý đã lên một chiếc thuyền tiếp tế và ra Cồn Vàng với bố mẹ. Ôi, tuổi nhỏ ngông cuồng, sức mạnh của các quyển sách và trí tưởng tượng. Nhưng ngoài ra còn một cái gì nữa, một cái gì do tôi mà ra, tôi lờ mờ cảm thấy trách nhiệm của mình. Bây giờ thì chuyện đó đã xẩy ra rồi...
Tôi bất lực đứng một mình trên bờ biển. Khoảng cách giữa tôi và đứa học trò đã đo bằng hải lý. Biển như cười cợt cho hoàn cảnh của tôi, bất chợt đón một vì sao.
Vì phải chờ gió, mười hai giờ đêm, tôi mặc áo bông ra thuyền. Khi buồm giương lên thì gió chỉ mới hiu hiu thổi từ đất liền ra bể. Bầu trời trong vắt, sao hiện ra ngay trên đầu sóng càng làm tăng thêm vẻ bí mật nhưng hấp dẫn của biển khơi. Lòng tôi hồi hộp, không biết cái gì sẽ chờ đón tôi ở ngoài kia. Hòn đảo nhỏ, đứa học sinh đã bao lần làm tôi vất vả mà không hiểu được, nhiệm vụ thiêng liêng của một cô giáo. Tất cả hấp dẫn tôi lạ lùng.
Đúng lúc trời rạng, chúng tôi đến Cồn Vàng. Từ đây có thể nhìn rõ Cửa Lân như một nét mực Tàu vạch ngang chân trời về phía Nam. Một vạt biển màu nâu, sóng lăn tăn. Đó là nơi sông Hồng đổ ra biển.
Cồn Vàng hoang vắng đúng như trong tưởng tượng của tôi. Một dải cát chạy dài hơn một cây số, lơ thơ cúc biển và cỏ đuôi ngựa. Tôi ngạc nhiên nhìn thấy phía cuối bãi mấy cây phi lao đã lên quá đầu người.
Bà con đi phàng từ sáng sớm. Chỉ còn lại trên bãi những túp lều lợp cỏ lác và lá chung sậy, những cái bếp còn bốc lên làn khói xanh nhạt. Một con mèo đen như hạt na lang thang giữa bãi cát, trông hoang rợ như một chú sói rừng. Anh lái thuyền vốn ít nói, bảo tôi:
– Bây giờ cô hãy lên bãi nghỉ, cứ vào lều mà trú nắng. Chúng tôi đi tìm họ, có lẽ trưa mới về. Buồn chết được, thế mà cô cũng đòi ra chơi. Hay là cô đi với chúng tôi?
Đến bây giờ anh ta vẫn không biết tôi ra đây để làm gì. Tôi ngước mắt nhìn anh hỏi:
– Trẻ con chúng nó có theo thuyền không anh?
– Làm gì có trẻ con. Chỉ mỗi con thằng Hợi mới ra từ hôm trước thôi.
– Nó ở nhà hay đi?
– Thằng bé làm cái gì suốt ngày trên bãi ấy. Vả lại cũng cần có người trông đồ đạc, bếp núc chứ.
Anh quay mũi thuyền.
Thế là còn lại một mình tôi trên bãi cát vắng. Nhưng tôi không cảm thấy cô đơn. Bởi vì mặt bể bỗng ngời lên rất đẹp, làm tôi thấy sung sướng.
Lòng bối rối nhưng vẫn bình tĩnh, tôi bước về phía những túp lều con. Bỗng sau mấy cây phi lao hiện ra một đứa bé. Đúng là Tý rồi. Cả nó chắc cũng nhận ra tôi. Dù có vẻ sợ sệt nhưng gặp cô giáo nơi chân trời góc biển này, Tý không giấu một tia mắt mừng rỡ, ánh lên rồi bất chợt tan ngay.
– Chào cô ạ.
– Chào “ông tướng” – Tôi vui vẻ – Tôi ra thăm “ông” đây. Để “ông tướng” được yên tâm, tôi không đả động gì đến chuyện Tý trốn học. Tôi bảo Tý đưa tôi đi thăm cái Đảo Vàng trứ danh này. Chúng tôi đi về dãy phi lao đang lắc lư vì gió mỗi lúc một mạnh. Bỗng tôi chú ý nhìn dưới chân tôi một cồn cát nhỏ màu vàng óng ánh hiện ra.
– Thưa cô, cả cửa bể này chỉ đây có cát vàng. Từ cồn Thoi đến đây chỉ có cát nâu, đây mới có thứ cát này – Tý giải thích, vẻ thành thạo.
– Sao em biết?
– Em đã đến những nơi đó rồi ạ. Từ lúc còn học lớp hai cơ. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao người ta gọi đây là Cồn Vàng.
Chúng tôi ngồi xuống đám cỏ non và nhìn ra bể. Tôi chỉ về phía trước mặt hỏi Tý:
– Em có biết đằng xa kia là đâu không?
– Thưa cô, trước mặt cô và em là cửa sông Hồng đây ạ. Bên phải là Cửa Lân, xóm em đấy mà.
– Sao em biết đây là cửa sông Hồng?
– Thưa cô, cũng dễ thôi. Sáng nào cũng có những con giang bay về phía đó, chúng nó vào cửa sông kiếm ăn. Gần tối chúng lại bay ra những hòn đảo ngoài bể. Bố em bảo còn có những hòn đảo toàn chim. Được đến đó xem chim cũng thích, cô nhỉ?
Tôi mỉm cười nhưng trong lòng lo ngại. Và tôi hỏi:
– Mấy hôm ra đây em làm gì?
– Thưa cô – Tý chớp mắt – Em nấu cơm, luộc cá, vun gốc phi lao...
– Mấy gốc phi lao này ư?
– Thưa cô, vâng ạ. Mấy gốc này em đưa ra trồng từ năm kia cơ. Lúc em còn theo học lớp hai ấy. Em theo bố ra đánh cá, nhổ mấy gốc con mang theo. Bố em bảo: “Mày trồng phi lao ở đây làm gì? Làm đóm à?”. Em bảo bố: “Không phải, con trồng để chắn cát, bố không thấy bụi mù lên đấy à? Cô giáo con bảo thế”.
Thế là em moi cát lên, cho mấy cây con vào hốc vun lại. Cô trông kìa!
Tý bỗng đột ngột chỉ tay ra biển. Một bầy cá thủ đang tớm ở ngoài kia, nhiều quá đi mất!
Tôi nhìn theo tay Tý và thấy trên mặt bể lặng lẽ, nảy tanh tách những giọt nước như mỡ sôi trong chảo và những chú tôm hay cá nhỏ nhảy vút lên.
– Cá thủ tớm mồi đấy cô. Hôm nay thế là trời sắp mưa rồi. Cá thủ vào gần bờ là chắc có mưa.
Tôi như bước vào một thế giới chưa từng thấy bao giờ. Cái thế giới làm tôi rung động sâu sắc đó hình như đã do chú học trò bé nhỏ của tôi tạo nên và giờ đây em đang dắt tôi bước vào giấc mộng. Bên cạnh chúng tôi, những gốc phi lao cao quá đầu người, thân cây xoắn như chão vì đã chịu nhiều bão táp. Biết đâu nhờ những cây nhỏ nhắn đó, cát được giữ lại, và một ngày kia, một xóm chài trù mật sẽ ra đời, dân làng còn nhắc đến đứa trẻ yêu thiên nhiên và đã từng biết chinh phục thiên nhiên từ những ngày còn hơi sữa này không.
– Tý này – Tôi bảo em – Em bỏ đi như vậy mà không xin phép cô làm cô và các bạn lo lắng cho em quá.
– Thưa cô, em muốn xin cô cho em thôi học.
– Sao vậy? – Tôi ngạc nhiên.
– Em dốt lắm ạ. Em không làm được toán.
– Không, em chỉ thỉnh thoảng mới cắn bút thôi chứ – Tôi thấy cổ họng tôi cay xè và muốn lựa lời, thận trọng như nâng một bông quỳnh sắp nở, lo sợ làm những nhụy hoa tuyệt vời rụng mất – Hôm nay em về làng với cô, nếu cố gắng, em sẽ giỏi toán. Cô và các bạn sẽ giúp đỡ em.
– Em sợ lắm ạ.
– Sợ cô hỏi bài ư?
– Vâng ạ. Em sợ… – Tý ngập ngừng – Nếu sau này thành người lớn đi đánh cá thì có phải học toán không ạ?
– Cần lắm chứ. Sao lại không cần học toán hả em?
Đây là lần đầu tiên, một lời phê bình kín đáo nhưng làm tôi xúc động sâu sắc. Tôi bỗng hiểu ra rằng trước nay tôi chưa thực sự yêu mến các em. Tôi không biết rằng các em có bạn bè, có không gian riêng và những gì chúng hiểu biết được trong khi tiếp xúc cùng thế giới ấy thường vượt ra ngoài những điều người lớn có thể tưởng tượng được. Chính trong thế giới mỹ miều thân thiết ấy, bản lĩnh làm người của chúng đã hình thành, cái bản lĩnh còn rất mong manh và rất dễ tan vỡ.
Tôi suy nghĩ một cách nghiêm khắc về điều đó và giật mình tự cho là may mắn. Nếu như tôi không đến đây mà kết thúc câu chuyện bằng một hình thức quở trách đơn giản... thì sẽ ra sao?
Tý vẫn đi cạnh tôi. Nó cúi đầu xuống. Tôi hái một bông cúc biển và nói:
– Tý này, không biết làm sao mà những cây cúc biển lại có thể mọc được ở đây?
– Thưa cô, phải có người mang ra chứ.
– Hay là gió mang ra hở em?
– Thưa cô, em ạ. Em mang ra từ năm ngoái.
Bất chợt, như một bà mẹ cúi xuống chiếc nôi của con mình, tôi ôm choàng lấy vai Tý rồi cúi xuống hôn vào trán em. Cử chỉ đó của tôi làm Tý cởi mở, nó bắt đầu thích khơi chuyện.
– Năm ngoái em còn đưa ra đây một con mèo và ba con chuột. Đến năm nay con mèo đen vẫn còn đó, nhưng chuột thì không thấy nữa. Có lẽ cậu mèo đã xơi mất rồi cô nhỉ? Nó béo mượt ra thế kia.
– Một năm trời mà nó chỉ ăn có ba con chuột thôi à?
– Thưa cô, còn cá lác chứ. Thứ cá này có hai chân trước, nó theo sóng lên bờ và thế là chú mèo ta ngồi rình bên mép nước. Nhưng có những lúc nó vồ được các thứ cá nhỏ nữa, nó ngồi nhai, lông ướt mềm nhưng vẻ thích chí lắm.
– Thế là em...
Tôi chưa nói hết câu, bỗng kêu thét lên. Trước mắt tôi, một con rắn đen sì đang lách mình giữa những chùm cúc biển.
– Thưa cô, rắn nước đấy ạ. Nó không bao giờ cắn. Mà cắn cũng chẳng đau, chỉ như con kiến đốt thế thôi.
Tý buông hàng lông mi xuống như sợ tôi quở trách.
– Chắc lại em mang rắn ra đây chứ?
– Thưa cô, vâng ạ.
Chúng tôi thong thả đi về lều vì mặt trời đã lên cao nhưng trời vẫn lạnh và da tôi bắt đầu nhớp nháp vì hơi muối trong không khí.
Chiều hôm ấy, tôi và Tý xuống thuyền cá về đất liền. Mọi người không ai biết được giữa cô trò chúng tôi đã có chuyện gì xẩy ra.
Tôi ngồi bên Tý nhìn về phía Cồn Vàng. Bây giờ có lẽ không nên gọi nó là cồn nữa. Nó thật sự được gọi là đảo, bởi vì ở đấy cuộc sống đã hiện lên giữa trời nước hoang sơ. Cuộc sống đã xuất hiện với màu xanh của những chùm cúc biển, những con rắn không cắn người và con mèo đen lang thang như một ông chúa sơn lâm.
Tý cũng nhìn về phía đảo. Em không giấu được luyến tiếc khi phải xa cái thế giới huyền diệu của em. Cái thế giới được sức mạnh sáng tạo của con người dắt ra từ những trang sách. Tôi nhìn em và nghĩ bụng: Cái chú Kha-Luân-Bố này, rồi ra chú sẽ có một cái gì đó góp cho đời. Chú sẽ là nhà văn, một nhà sinh vật hay một kỹ sư chuyên khẩn hoang những vùng đất mới? Nhưng chú ạ, giờ đây, chú còn phải cố gắng mà giải cho được những bài tính đó, cũng như mai sau những câu hỏi của cuộc đời.
Tôi chắc rằng bước đường của chú còn nhiều gian khổ. Nhưng chú có bản lĩnh, phải không cu Tý của tôi?
Thái Bình, tháng 10/1960