← Quay lại trang sách

TÁI SINH

Hôm ấy, trên đường về địa điểm mới của đoàn địa chất, vì lạc đường nên tôi không về kịp tối. Tôi rẽ vào quán trú ở một ngôi nhà hoang cạnh rừng. Bóng tối trùm lên khắp nơi khi con ngựa gõ chân lên sân gạch. Cái cá sắt vừa đặt xuống, một viên gạch mủn vỡ ra làm đôi. Con ngựa nhìn thấy bếp lửa hừng hực cháy trong nhà, liền vươn lên, đập đuôi, rung vai cho vắt rơi xuống làm đai thắng kêu lách cách.

Tôi xuống ngựa, gặp ngay một ông già mặc quần áo xanh ra đón trên thềm. Sau khi biết tôi ở đoàn địa chất, ông vui vẻ mời tôi vào. Ông nói:

– Cùng cánh ta cả!

Tôi đã rơi vào một đội tái sinh rừng. Tôi trút gạo trong bao, thổi cơm tối. Vừa ăn, tôi vừa nghe ông già – mà mọi người đều gọi là bác Nuôi Tạo – điều khiển một cuộc hội ý ngắn về kế hoạch gieo hạt. Hạt trên chưa phân phối cho, công việc gặp khó khăn. Mấy tay thanh niên không kể có tôi là người lạ, tập trung lại chế giễu ông già vì một chuyện gì đó mà tôi nghe không thủng. Mặc, ông già không tỏ vẻ nao núng. Ông tủm tỉm:

– Các chú nói gì thì nói. Kế hoạch của tôi nhất định là gạo bỏ hũ rồi.

Tôi ngồi ăn cơm, lắng tai nghe chuyện. Nhưng câu chuyện của họ không làm tôi chú ý bằng ngôi nhà này.

Nhà làm theo kiểu Tây, có trần, tuy rằng xương tre đã trơ ra. Ba bốn cửa sổ không có cánh, trơ hai lớp bản lề trong ngoài. Tường không một vết đinh, chắc không phải xây gạch mà đổ bằng bê tông hẳn hoi. Nhưng mọi màu sắc trong nhà đều có vẻ cũ kỹ tàn phế. Càng ngắm cái nhà, tôi càng phân vân trong bụng.

Tôi ăn xong thì mấy anh thanh niên đã đi ngủ, nằm úp thìa với nhau trong ổ lá khô trải chiếu. Chỉ còn một mình ông Nuôi Tạo ngồi sưởi với tôi. Tôi chăm chú nhìn khuôn mặt ông qua làn khói bốc lên từ bếp lửa gần tàn. Một khuôn mặt đầy đặn, gân thịt xoắn ốc hai gò má. Và đôi mắt, tuy mi dưới trễ xuống nhưng nom còn khá dữ. Tôi đánh bạo hỏi ông:

– Cái nhà này trước kia ai ở hả bác?

Như không nghe lời tôi, ông Nuôi cho thêm lá khô và củi vụn vào đống lửa, thổi cho bớt khói. Và ông cũng chẳng buồn trả lời tôi.

– Trông cũng bề thế đấy chứ – Tôi gạn.

– Nhà Tây ở mà – Ông chỉ hơi nhếch mép, đủ để nói trọn câu. Tôi không hiểu sao ông già có vẻ dễ tính này lại trở nên kín đáo khi tôi nhắc đến chuyện ấy. Và tôi ngồi im, lòng phân vân khó hiểu. Bỗng ông Nuôi bảo tôi:

– Anh ra ngoài này giúp bác một tay nhé.

Ông với tay lấy cây cà boong ở bên tường thắp lên, đưa cho tôi và bảo cùng đi ra suối với ông. Ông xách một cái thùng, còn tôi chỉ có mỗi việc là cầm đuốc. Con suối chảy phía trái ngôi nhà, tiếng suối lóc bóc giữa các lùm cây đen. Ông Nuôi xuống suối, vục một thùng đầy rồi xách lên, bảo tôi theo ông ra phía sau nhà. Đến một miếng đất mới phủ lá khô, ông tưới thùng nước xuống. Nước thấm nhanh, kêu rin rít.

– Bác đổ nước vào đấy làm gì vậy? – Tôi hỏi ông. Ông thủng thẳng đáp:

– Bác ủ hạt lim. Dạo này trạm hạt giống của lâm trường không phân phối hạt kịp, để anh em nằm không thì chết cơm chính phủ, bác với các cậu ấy vào mãi rừng Ăn Người nhặt được hai gánh hạt lim. Ủ mấy lần rồi mà chúng cứ trơ như đá. Không biết lần này ra sao đây.

Chúng tôi vào nhà. Ông Nuôi duỗi chân bên bếp, lấy tay nắn đầu gối, chép miệng:

– Công việc khó khăn lắm anh ạ. Các cậu ấy còn trẻ người, hay nản, rõ là chưa nếm hết mùi khổ sở ở đời. Tôi ủ như mấy lần trước, nó không lên, bèn đập vỡ mấy hạt ra xem. Té ra thứ hạt này già quá, có những ba lần vỏ. Một lần vỏ nhựa, lần vỏ cứng, lại đến vỏ lụa bọc trong nữa. Nhưng được cái mầm còn xanh lắm. Tôi đem luộc lên, xát cho bong từng lớp vỏ rồi đưa ủ. Thế là các cậu ấy cứ chế tôi hoài…

Ông rút trong túi ra một hộp hình bầu dục nhỏ xíu:

– Thứ hạt lim già kỳ cựu này đây.

Tôi cầm nhanh lấy cái hộp, đưa lên lửa xem. Cái hộp thuốc chỉ bằng trứng chim câu, đen bóng và xinh xinh như một thứ đồ chơi quý. Trên mặt hộp chạm một con tắc kè cuộn tròn, mồm ngậm vào đuôi. Bất giác tôi rùng mình. Nếu không kịp trấn tĩnh thì tôi đã rút trong túi ra một cái hộp như thế. Bao năm nay tôi suy nghĩ về cái hộp của tôi, tôi thường trằn trọc không ngủ vì nó. Nhưng tôi không thể biết gì hơn ngoài những ức đoán vẩn vơ. Vì vậy cả người tôi như rung lên khi nhìn thấy cái hộp nhỏ trong tay ông Nuôi Tạo. Tôi nói với ông:

– Bác kể cho cháu nghe đi. Chuyện cái nhà này, cái hộp thuốc này nữa.

Ông Nuôi càng đăm chiêu, tay vẫn mân mê hộp thuốc. Rồi ông mở ra, véo một điếu cho vào đầu cái ống trúc, réo vo vo, thở ra một cuộn khói dài.

– Chuyện à? Anh có thức được suốt đêm mà nghe không? Tôi nói với ông sẽ thức để nghe chuyện của ông. Thấy không thể dừng được, ông cho củi vào đống lửa, bảo tôi ra dắt ngựa vào phía sau nhà cho khuất gió đông bắc. Rồi ông bắt đầu kể chuyện:

– Cách đây vài chục năm, tôi đã sống ở vùng Yên Cát này. Dạo ấy thằng Tây kiểm lâm Rô-giê còn ở đây, ngay cái nhà này. Nó mang tai vạ về cho anh em sơn tràng chúng tôi. Thằng Tây này vừa gian lại vừa ngoan anh ạ. Nó sống như con khỉ độc. Mà nó nói tiếng ta sành như tôi với anh vậy.

Ông Nuôi Tạo khởi một miếng đầu gỗ còn ướt ra ngoài cho bớt khói.

– Trước khi thằng Rô-giê đến, ở đây chúng tôi có một phường sơn tràng bảy tám anh em. Nói đến sơn tràng chắc anh chẳng lạ gì. Toàn người tứ chiếng. Con chim đã bỏ miếng đất lành đi tìm chốn ma thiêng nước độc mà đậu thì hẳn phải là đến nước cùng đường tắc ngõ. Có anh trốn sưu thuế nặng ở nhà quê. Có anh vì bị ức hiếp không chịu được lỡ tay đánh phải trương tuần, hay vì có máu đỏ đen mà cầm vợ đợ con trong canh bạc. Ai cũng hết phương sống nên mới chui vào rừng. Kẻ cơ hàn gặp người khốn khổ, đám sơn tràng kết nghĩa với nhau một phường làm ăn. Chúng tôi cũng có ông trùm của phường. Dạo ấy, người được tín phục nhất là anh Tám Thọ…

Một cơn gió nhẹ xào xạc trong rừng sâu, tôi rùng mình, kéo vạt áo che kín ngực.

– Anh lạnh à?

– Không ạ. Bác cứ kể tiếp đi – Tôi nói.

– Năm hai mươi ba tuổi, tôi có vợ, có nhà, hai sào ruộng và một con chó cái, mỗi năm đẻ hai lứa, mỗi lứa năm con. Tôi cày rẽ thêm hai sào nữa, hai vợ chồng đùm bọc lấy nhau, ngày hai bữa cũng có mà đắp đổi. Tôi thường nói với nhà tôi: “Sống cực, sống khổ, nhưng ra khỏi cảnh ở năm nhà người ta là sướng cái thân rồi”.

Vợ tôi là gái vào loại sắc nước. Đã đành là tôi thương nó, nhưng cái thời trẻ, thằng đàn ông nào mà chả ghen. Vả lại, thời buổi quạ cắp trứng gà giữa ban ngày ấy, có vợ nhan sắc cũng như chứa thuốc phiện lậu trong nhà.

Nhưng chính cái thằng bố nuôi tôi lại làm nhục tôi mới cay đắng anh ạ. Bố nuôi tôi là bá Thích. Tôi đi ở cho nhà nó năm mười ba tuổi, tức là năm Bảo Đại lên ngôi. Sở dĩ tôi nhớ mãi ngày đó là vì, sau khi mẹ tôi theo cha tôi về chín suối, ông chú họ mới dắt tôi đến nhà bá Thích. Hôm đó, nhà thằng này treo đèn lồng, mở sòng bạc, bảo là để ăn mừng vua mới đăng quang.

Năm Bảo Đại thứ ba, ông chú họ tôi chết. Thím tôi chạy không đủ tiền mua áo quan mới bảo tôi xin cụ bá khoản công xá ba năm, đưa thím ấy giật tạm vài đồng. Tôi gãi đầu xin. Hắn bảo: “Mày là con nuôi tao, công với xá cái đếch người ta!”. Tôi ngã ngửa người, nhớ là khi chú tôi dắt đến có nói chuyện con nuôi con nấng gì đâu. Chú tôi chỉ bảo: “Cụ thương cho cháu ở năm, lớn lên cụ để dành cho nó tiền công làm vốn, nó lập nghiệp”. Con nuôi gì mà tôi lại phải làm đủ việc khó nhọc bẩn thỉu trong nhà. Tôi cõng cậu út đi ỉa, ăn cơm xong là cậu dính mắt lại, thõng chân xuống giường, tôi phải bê thau nước đến vuốt ve, rửa ráy chân cẳng cho cậu. Cô Lan, con gái thứ ba nhà bá Thích, đưa quần áo cho tôi giặt. Thế mà tôi là con nuôi à? Hừ, con mới cái…

Ông Nuôi Tạo nghiến răng:

– Thế nhưng tôi vẫn phải gọi bá Thích bằng thầy. Nó vừa được tiếng nhân đức lại vừa lợi mỗi năm mấy đồng bạc về món công xá của tôi. Tôi thì được gì? Tôi bị đánh nhiều hơn những anh thầy tớ khác vì tôi là con cụ bá, cụ có thương mới cho roi cho vọt chứ! Năm hai mươi tuổi, tôi chán đến cùng cảnh đi ở, bèn xin bá Thích ra. Hắn biết nuôi gà có cựa rồi thì khó giữ, đành ưng thuận. Tôi cất nhà ở góc vườn. Đầu tiên là tôi cấy ruộng rẽ của bá Thích. Nhưng vì có chí lập thân, lại pha được nghề ngược ngàn, nên ba năm sau, tôi tậu được hai sào ruộng của nhà lý Túc. Thằng cha này thua xóc dĩa nên ruộng nó mới sang tay tôi. Nghĩ mình là dân khố rách mà lấy được ruộng lý trưởng, tôi sướng quá nảy ra ý định lấy vợ. Thế là tôi lấy nhà tôi, nguyên trước ở trong nhà lý Túc, nay nó khánh kiệt phải cho ra. Sau đó, tôi mua thêm được con chó cái. Tôi đã tính kỹ, nếu mát tay, tích tiền mua bán chó con vài năm cũng đủ mua một con bê, chỉ mong thoát được cảnh ruộng thuê, bò mướn.

Một hôm, tôi đương đi cày thì thằng cu Dương vốn ở cách nhà tôi có một cái hàng rào, hớt hải chạy đến bảo:

– Anh Nuôi Tạo ơi, em thấy…

– Gì vậy? – Tôi hỏi nó.

– Cụ bá…

Tôi gửi trâu cho cu Dương, cầm lấy cái rạ phạt bờ, chạy về nhà vừa đụng đầu bá Thích ở sân khệnh khạng đi ra, bộ râu dê dính mồ hôi bết lại. May mà tôi không cho nó một nhát. Nhà tôi ngồi khóc trên võng, tóc với yếm sổ ra như người điên. Tôi bặm miệng lấy rạ phạt đứt luôn cái quai võng. Nhà tôi khóc: “Em xin nhà…, tại thầy, thầy giơ dao ra, thầy còn đánh diêm dọa đốt nhà nữa”. Tôi đổ người xuống phản, mặt tím lại, lo tính kế trả thù. Thế rồi tôi trả thù được anh ạ.

Tôi hỏi ông:

– Bác giết bá Thích?

– Không, tôi không dám giết nó, mà cũng chẳng thèm giết nó làm chi cho bẩn tay. Nhưng…

Ông ngập ngừng cho có điều gì không tiện nói ra.

– Anh tính, cái thời đốn mạt ấy, hòn đất thó có khi cũng phải giận đổ mồ hôi. Vợ tôi, tiếng tăm nhà tôi bị thằng bá Thích giày xéo dưới chân. Tôi trả thù nó bằng cách gì bây giờ? Đâm cho nó một nhát ư? Cũng gọi là xong đời nó. Nhưng đời mình, đời vợ con mình rồi sẽ ra sao?… Bây giờ kể lại với anh chuyện này cũng khí ngượng cái mồm, nhưng lúc đó thì tôi cho mình làm vậy là rất phải, rất chi là phải…

Ông đưa tay với cái điếu ống trúc:

– Thế này, anh ạ. Tôi nghĩ bụng, nó làm nhục tôi, tôi tiếc gì không bôi tro trát trấu vào mặt nó? Một hôm nó nhờ tôi lên chạn xúc thóc. Chạn này vừa chứa thóc, vừa là chỗ chất mâm thau nồi đồng và của nả. Cho nên, theo lệ nhà bá Thích, mỗi lần có anh thầy tớ nào lên chạn phải có người nhà lên theo. Con Lan theo sát lấy tôi. Nó to béo, phục phịch quá, lại nổi tiếng là chanh chua, ác bạc với người làm nên chẳng ma nào khiêng. Vậy là nó ế. Mỗi lần gặp tôi đầu vườn cuối ngõ, mắt nó cứ lịm đi như rắn nuốt phải hồng hoàng… Và thế là hôm đó, trên cái chạn ấy, ngay chỗ bên trên bàn thờ nhà bá Thích, thôi, nói thế là anh hiểu rồi…

Nhưng không ngờ bá Thích biết được chuyện đó. Tôi liền tức tốc bán ngay cái nhà, hai sào ruộng với cày bừa, chỉ trừ có con chó cái. Làm văn tự xong, tôi đưa vợ lên đây.

Ông Nuôi Tạo chỉ tay về phía cửa lớn, nói giọng rạch ròi hơn:

– Bây giờ ở trước cái mặt nhà này, về phía bên kia đồi, có mấy cái trại của anh em ngược ngàn ở. Tôi đến nơi, xách con gà trống thiến đến nhà anh Tám Thọ, cắt tiết ăn thề với nhau. Anh Tám trao cho tôi cái hộp thuốc này, uống với tôi ba tuần rượu rắn pha mật ong. Anh Tám nói: “Từ nay chú được nhập phường, anh em đói cơm rách áo nhưng giàu tình nghĩa, cái hộp thuốc này là của làm tin, chú phải giữ gìn nó như giữ bản mệnh của chú”. Thế là tôi được nhập phường làm gỗ.

Chúng tôi hạ gỗ tứ thiết, cho trâu kéo ra tận cửa suối bán trao tay cho bọn lái. Bọn này trường vốn, thường ăn chặn của chúng tôi đến hai phần tiền. Rìu của chúng tôi, mồ hôi nước mắt của chúng tôi. Còn bọn chúng? Nước bọt và mưu ma kế quỷ! Có những lúc chúng tôi cũng chẳng có tiền mà mua ký ninh. Nhưng đi lối nào cho thoát?...

Bấy giờ là lúc thằng Rô-giê chưa lên.

Phải, nó chưa lên. Nhưng rồi nó lên ngay sau đó. Số là thấy tứ thiết lậu về xuôi quá nhiều, bọn nhà đoan với sở kiểm lâm mới cho lập một trạm công tôn ở đây. Thế là thằng Rô-giê lên. Từ khi nó lên thì phường sơn tràng của chúng tôi có cơ mạt vận. Đầu tiên là nó bắt mất của tôi con chó cái. Hôm ấy đi săn về, nó gặp con vật tha một con đa đa, thế là nó ra lệnh cho tôi phải nộp con chó vào bầy săn nhà nó.

Phường chúng tôi khốn đốn mất một dạo. Gỗ không được đụng rìu tới, đành phải xoay ra chặt nứa, tìm măng, nhặt củ nâu qua ngày. Nhưng hai búp măng ra khỏi rừng thì một búp rơi vào tay Rô-giê vì thuế với má rồi. Chúng tôi chỉ còn hai lối ra: Một là bỏ đất này mà đi, hai là phải chặt gỗ lậu. Đi đâu? Người nghèo như con gà con sống giữa bầy cáo. Ở đây tuy khổ nhưng cũng còn tạm gọi là thoát được nạn cường hào. Thế là chúng tôi ở lại đây…

Bác Nuôi Tạo im bặt như con ve động bước chân người. Bỗng bác sực nhớ ra điều gì:

– À, tôi quên kể cho anh nghe về chuyện nhà tôi. Lên đến rừng, nhà tôi sinh được một lần nhưng vô dưỡng. Từ đó người trông sởn sang ra. Một hôm, nó đi tìm nấm về, mặt tái mét. Nó bảo vừa gặp quan kiểm lâm đi săn trong rừng. Quan hỏi nó nấu ăn có ngon không và xin một xâu mộc nhĩ. Tôi hơi lo, chỉ nơm nớp nó gặp tai họa gì đây. Ba hôm sau, Rô-giê gọi tôi đến nhà. Hắn cho tôi điếu thuốc lá rồi bảo:

– Mày bảo con vợ đến nấu bếp cho tao, tao trả công nhiều. Tôi thoái thác là nó hay bị động kinh, không làm bếp được.

Vả lại, vợ tôi chỉ biết kho cá, làm nộm, không biết nấu các món Tây. Nó trợn mắt lên:

– Quan muốn ăn cơm An Nam mà mày không chịu giúp. Quan đuổi cả vợ chồng mày khỏi đất này.

Tôi lưỡng lự hỏi nó:

– Quan có cho vợ con về nhà ngủ không? Nó nghĩ ngợi rồi cười:

– Được rồi. Tao không thèm vợ mày.

Tôi xin khất nó, bảo về hỏi vợ đã. Về sau, tôi nghĩ dù sao thì mình cũng là cá trên thớt, vả lại vợ tôi chỉ làm ban ngày, chẳng sợ gì. Thế là tôi cho nhà tôi đến nấu bếp cho nó. Nó giữ đúng lời hứa. Đêm nào cũng cho vợ tôi về và chẳng đụng gì đến vợ tôi cả. Tôi đã yên tâm.

Ông Nuôi Tạo ngừng lại. Nét mặt ông nguội đi như một hòn than vừa mới tắt. Một lát, ông nói tiếp:

– Phường của chúng tôi cũng làm ăn được. Tây Rô-giê khôn nhưng chúng tôi lại còn lõi hơn nó. Tôi nghiệm ra, trị được cái dân Việt Nam mình là khó lắm. Thằng Rô-giê nó lêu đêu như con đười ươi, mặc quần soóc kaki vàng, đội mũ lính Tây, đeo thập ác to bằng ngón tay lủng lẳng trước ngực. Nó mang súng hai nòng sục khắp rừng. Vừa kiểm tra gỗ lại vừa săn bắn. Nó bắn nai, hoẵng, lợn lòi và cả chúng tôi nữa. Nhưng chúng tôi vẫn không sợ, gỗ cứ lọt như nước qua sàng. Thế rồi…

Ông Nuôi Tạo khúng khắng ho. Tiếng ho khô khan nghe như nỗi buồn từ ngực dâng lên cổ. Con ngựa của tôi đáp lại tiếng ho ấy, hí lên khe khẽ, rung người khó chịu.

– Giá anh cởi hàm thiếc cho nó mới phải – Ông Nuôi Tạo nói – Mình phải quý lấy nó, lúc gặp hổ báo nó có thể chết thay mạng mình…

Tôi không thể rời câu chuyện của ông Nuôi được. Và tôi ngồi im.

– Thế rồi – Ông tiếp tục nói – cái chuyện tôi nơm nớp lâu nay đã đến. Thường lệ đi bắn lợn lòi có mang chó thì Rô-giê ở biệt trong rừng suốt ngày. Nó thuê người ẩy chó vào thung lũng, đuổi lợn rừng lên đầu nguồn suối. Vì vậy cả buổi trưa nó túc trực nằm chờ. Những ngày khác, anh lính khố xanh phải mang cơm cho nó. Nhưng hôm ấy, anh ta lên cơn sốt rét, thành ra nhà tôi phải mang thay. Lúc đó, chúng tôi đương đẵn trộm gỗ ngay rừng, bên cạnh chỗ Rô-giê đi săn. Chúng tôi bỗng nghe một tiếng súng…

Ông Nuôi Tạo im bặt. Cành cây gãy lắc rắc phía sau nhà.

– Đá lăn xuống suối – Ông Nuôi lắng nghe rồi nói – Anh đi rừng nên cẩn thận, thường khi một hòn đá cũng có thể giết được mình. Mạng các anh bây giờ là quý lắm, chết đã thiệt thân mà còn hại đến dân đến nước nữa…

– Cháu cũng quen rồi – Tôi nói.

– Nói vậy chứ tinh ý là tránh được cả. Bây giờ sống chết là ở mình, còn trước kia thì…

– Bác kể tiếp đi – Tôi nóng ruột, gạn ông.

– Chuyện thương tâm lắm. Nhà tôi mang cơm đến cho thằng Rô-giê lúc nó vừa bắn được một con hoẵng con. Nó bao giờ cũng thủ trong người một chai rượu lậu – nó thích uống rượu ta lắm – bắn được thú thì hứng lấy tiết trộn rượu tu luôn. Lúc nhà tôi đến nó vừa nốc hết nửa chai rượu máu hoẵng. Nó chỉ ăn uống qua quít rồi nhìn vợ tôi chằm chặp, giữ không cho về. Xong nó bổ xuống suối tắm và gọi nhà tôi xuống kỳ lưng cho nó. Nhà tôi vừa xuống thì nó nhảy lên như con đười ươi, ôm chầm lấy vợ tôi. Vợ tôi vùng ra được, bỏ chạy một mạch.

Cơn điên của thằng Rô-giê bùng lên như ngọn lửa. Nó vượt cạn, la ó, gọi vợ tôi quay lại. Ô! Ô! Ô! A! A! A! – Nó gọi. Nhưng vợ tôi không chịu nghe, cúi cổ chạy dọc theo bờ suối. Khổ thay, chỗ này là bãi trống trơn, không có lấy một mô đất che kín người. Vậy là thằng Rô-giê cầm súng. Nó bắn…

Mắt ông Nuôi Tạo sáng long lanh. Tôi tưởng như câu chuyện vừa xảy ra hôm qua đây, chứ không phải hàng chục năm về trước.

– Vợ tôi chết. Rô-giê bắn vợ tôi một viên đạn chín, loại đạn bắn lợn lòi. Năm viên chì bằng hạt ngô đâm thủng cái áo nâu bạc của nhà tôi như lỗ dế. Anh em trong phường và tôi chạy sang, đưa xác nhà tôi lên cái võng, đắp chiếu lại, gánh đến nhà Rô-giê. Bấy giờ ở cái cửa này, nó còn kê một tấm phản gụ để nằm hóng mát. Chúng tôi đặt xác vợ tôi lên đó, bắt vạ. Thằng khỉ đột chỉ mỉm cười bảo: “Tao xin lỗi!”. Chúng tôi không nghe. Nó rít rằng: “Vậy tao làm một cái ăng-két là xong, hả!”.

Nhưng đối với tôi thì không thể nào xong được. Nếu không có anh em can ngăn thì tôi đã bóp họng nó ngay lúc đó rồi. Tôi chôn cất vợ, chôn chặt mối tử thù vào trong lòng chờ ngày rửa hận. Một hôm, chúng tôi theo anh Tám Thọ đi rừng. Anh lạnh à?

– Không ạ – Tôi ném một cái cành nhỏ vào bếp lửa bắt đầu cháy to, lẩm bẩm – Ông Tám Thọ… Bác kể tiếp đi…

– Hôm ấy, vô phúc tam đại thằng cướp rừng Rô-giê. Nó lọt vào chỗ chúng tôi giữa ban ngày. Nó đi săn, đuổi một con lợn lòi từ rừng bên kia sang, bắt gặp chúng tôi đương cho một cây lim ăn rìu. Nó dọa nổ súng. Rồi nó bắn thật. Anh Tám Thọ bị một viên chì móc vào bắp chân. Tôi chằm chằm nhìn vào con quỷ. Bao nhiêu gan mật trong người dồn lên tay chân tôi. Các anh em khác cũng bước theo. Chúng tôi không thể tha thứ cho thằng đầu trâu mặt ngựa này nữa. Anh tính, rìu sơn tràng mà chúng tôi cho mỗi người một nhát thì chẳng mấy chốc mà nó về chầu ông bà ông vải nhà nó…

Ánh lửa lung lay trên nước da mặt đồng đen của ông Nuôi Tạo, ánh lên như những kỷ niệm của buổi thiếu thời trở về.

– Chúng tôi nhét xác thằng Rô-giê vào một hốc cây chò đại mấy người ôm. Mãi đến một tháng sau, thằng sếp đồn Như Xuân mới bắt cho đi tìm quan kiểm lâm. Chó đánh hơi được quan ngồi trong hốc cây. Bộ quần áo kaki vàng còn nguyên, vải Tây bền lắm.

Biết không còn đất làm ăn nữa rồi, anh em chúng tôi phát tán mỗi người một ngả. Tối hôm đó, chúng tôi họp lại nhà anh Tám Thọ, vật một con lợn cấn, mở vò rượu ngang, ăn uống với nhau gần suốt đêm. Người hát bội, người khóc vì cảnh chia lìa sắp đến. Mãn tiệc, chúng tôi châm lửa vào mấy nóc nhà, quẳng rìu vào lửa, thề với nhau là suốt đời không có làm cái nghề này nữa. Vẫn chưa hả giận, chúng tôi đốt luôn cánh rừng sa nhân và tứ thiết sau nhà.

Rừng cháy như nổi bão. Cho đến nay, tôi vẫn còn nhớ như in trong óc trận cháy rừng hôm ấy. Nghĩ cũng đau lòng thật. Chúng tôi đã từng sống chết với rừng, lăn lộn tìm bát cơm manh áo trong rừng. Nhưng uất ức quá, chúng tôi chỉ nghĩ: Rừng có phải của mình đâu, rừng của Tây, của nhà đoan, của Rô-giê, tiếc gì mà không đốt cho hả. Hồi đó chúng tôi chỉ nghĩ như vậy mà thôi.

Giọng ông Nuôi Tạo như tắt đi, chỉ khe khẽ rung lên giữa hai hàm răng nghiến chặt. Bếp lửa lụi dần và bóng rừng đêm bò vào cái cửa trống hốc. Tôi ném vào bếp một vốc tướng lá khô, khói bốc lên rồi lửa phần phật cháy như mối thù truyền kiếp giữa lửa và đống lá đã được trả xong. Phút chốc, những chiếc lá chỉ còn một vết bụi mỏng.

– Thú thật với anh là bấy giờ chúng tôi không tưởng được có ngày rừng lại về ta. Bây giờ tôi đã già rồi, làm công tác chẳng còn được mấy năm nữa, thành ra phải hối hả mà gieo lại rừng cho con cháu ngày sau. Anh hỏi bọn nó mà xem, tôi chắt chiu từng cây gỗ con một, đứa nào làm gẫy cây nào thì cứ là mất ăn mất ngủ với tôi.

Khuôn mặt ông Nuôi bóng lên dưới ánh lửa. Ông lặng yên, suy nghĩ. Ông nghĩ gì? Ông hối hận vì mấy chục năm trước đây đã tự tay đốt cháy những cây gỗ mà mình yêu quý? Hay là ông đương miên man với những dự định tương lai của người đội trưởng tái sinh rừng, về đống hạt lim mà ông đã tìm đủ cách để nó phải nảy những cái mầm hàng chục năm chôn chặt trong ba lần vỏ cứng?

Tôi sẽ sàng hỏi ông:

– Sau đó thì bác đi đâu?

– Tôi ký “công-ta” đi Sài Gòn làm cao su, trôi nổi cùng trời cuối đất. Mãi đến lúc nghe tin cách mạng, ta lật được Tây Nhật, tôi lần mò về quê, tay trắng vẫn hoàn tay trắng.

Nhưng tôi đâu có bỏ được nghề rừng hả anh. Mấy năm nay rồi tôi đi gieo lại rừng. Đất mình là đất vàng, đất bạc, gieo là mọc, gỗ quý lớn như thổi. Chỉ nghĩ đến anh em mình ngày xưa mà thương. Không biết còn ai được cái phúc sống mà nhìn quang cảnh hôm nay như tôi không nữa…

Ông Nuôi Tạo đứng lên.

– Anh lại cầm đuốc giúp tôi một tay nhé. Phải tưới ba bốn tiếng một lần đấy.

Tôi châm cây cà boong vào bếp lửa rồi đi ra với ông. Mùi nhựa trám thơm nức cả một lối đi rừng. “Cà boong là cây cà boong”. Tôi nhớ lại lời ru của cha tôi hồi nhỏ. Ông Nuôi xách nước tưới vào đống hạt lim đương ủ. Ông làm thong thả, tuy tôi biết ông nóng ruột lắm. Còn tôi cũng bồi hồi không kém. Tôi còn một câu chuyện hệ trọng muốn nói với ông mà tôi phải nén từ tối đến giờ: Đó là chuyện cái hộp thuốc.

Lúc hai chúng tôi đã ngồi bên bếp, đăm chiêu nghĩ đến câu chuyện quá dài của cả một đời người, về những cánh rừng và những con người được tái sinh, tôi mới từ từ rút trong túi áo ngay chỗ trái tim tôi, một vật nhỏ màu đen và đưa cho ông Nuôi Tạo. Nhìn thấy nó, ông lộ vẻ kinh hoàng, rồi ôm chầm lấy tôi, hỏi:

– Anh là ai?

– Cháu là con thứ ba ông Tám Thọ.

Tôi cố bình tĩnh nói. Vâng. Tôi là con ông Tám Thọ. Cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe cuộc đời trai trẻ của ông. Có lẽ ông muốn chết mang đi những ngày quá cay đắng. Tôi chỉ biết cha tôi là một người tài ba, tháo vát, không chịu sống quỳ. Ông loay hoay suốt đời để tìm miếng đất sống, nhưng chưa sống được một ngày cho ra người. Nhắm mắt xuôi tay lòng còn thấp thỏm cho tương lai của chúng tôi. Bởi vì tất cả gia tài mà ông để lại cho tôi cũng chỉ có cái hộp thuốc này. Tôi không hiểu vì sao ông lại quý vật nhỏ mọn này như thế. Nhưng đêm nay thì tôi đã rõ.

– Trời ơi, con anh Tám Thọ! Thế chứ! – Ông Nuôi Tạo nói như khóc, vai ông run run – Con anh Tám Thọ! Kỹ sư địa chất hả? Thế là bác cháu mình lại cùng đi rừng với nhau.

Chúng tôi hàn huyên suốt đêm, đốt lửa sưởi và nghe tiếng vọng quá khứ từ đêm rừng vang lại. Tôi tưởng như được gặp lại cha tôi. Còn ông Nuôi thì thỉnh thoảng lại nói:

– Hừ, con anh Tám Thọ, con anh Tám Thọ…

Sáng tinh mơ, tôi bước ra sân, sửa soạn buộc ngựa để lên đường. Sương mùa đông bò chậm chạp trong thung lũng vào các hốc núi, leo lên cao rồi tan biến đi. Tôi bâng khuâng, không muốn rời khỏi ngôi nhà hoang phế này, càng không muốn rời ông Nuôi Tạo, người anh em của cha tôi nữa. Bác Nuôi Tạo buộc ngựa giúp tôi, bốc cho nó một nắm sắn khô to tướng. Rồi hối hả đi ra sau nhà, nơi có đống hạt lim đương ủ. Một lát sau, bác vui vẻ trở vào, đưa cho tôi một cái mầm lim.

– Có thế chứ! – Bác nói.

Tôi mân mê cái mầm lim trong tay, nhìn bác Nuôi Tạo như muốn thu vào mãi trong ký ức khuôn mặt gân guốc, sạm đen, kỷ niệm của một cuộc đời trôi nổi. Tôi chào ông, chào mọi người và lên ngựa.

Chỉ một chốc thôi, ngôi nhà đã khuất. Cả tiếng cười vui vẻ của anh em tái sinh rừng không còn nghe nữa. Con ngựa đưa tôi len lỏi trong một cánh rừng lim.

Đã từ lâu rồi, đi một mình trong rừng, tôi thường tự hỏi: Không hiểu vì sao gỗ lim lại cứng hơn những thứ gỗ khác, những con người này lại có một sức sống mãnh liệt hơn những con người khác.

Và bây giờ, tôi đã hiểu.

Quảng Bá, tháng 10/1963