← Quay lại trang sách

EN-XI

Thường là cữ tháng Năm, trời trở nóng, chiếc quạt trần trong phòng thí nghiệm đã chạy trơn, thôi không còn kêu “mệt, mệt” một cách nghịch ngợm nữa. Vụ tôm hè đã tới.

Nhìn qua cửa sổ gác hai viện nghiên cứu, kỹ sư Chinh Hà trông thấy những con vịt trời từ đảo Ngọc từng đôi bay qua những đám mây dông đen sẫm viền hồng. Giữa vụ tôm, đảo Ngọc ồn ào, những con vịt sót đàn không có chỗ nương thân nữa. Rồi tiếng chuông điện thoại lanh canh. Trưởng phòng hải sản nhấc máy lên nghe, quay phắt lại phía Hà, cười tươi tắn:

– En-xi!

Thế là Hà thu xếp công việc làm dở, giặt nốt mấy cái áo quần ngâm mấy ngày nay, tìm kính lúp, đèn pin, xuống nhà ăn cắt vài cân tem gạo rồi cùng với nhóm nghiên cứu ra đảo Ngọc vào chập choạng tối hôm đó.

Năm nay, từ chỗ sơ tán chỉ có Hoan và Hà quần áo chăn màn lỉnh kỉnh đi bộ đến bến sông Khê. Hợp tác xã đưa đò ngang đón khách về dự khai mạc mùa tôm. Khách các nơi mỗi năm một lần đến đảo trong ngày đầu tiên này để làm việc của mình: vài nhà báo địa phương, cán bộ thu mua, đại biểu nhà máy cá hộp và cán bộ Sở Thủy sản Hà quen mặt mà chẳng nhớ tên.

Chiếc thuyền ba ván hai chèo bập bềnh một lúc lâu trên quãng sông vừa rộng vừa cả sóng rồi lần theo một con lạch đục ngầu giữa bãi sú. Bãi xanh đen lại trong buổi hoàng hôn tháng Năm, giữa mùa hoa súng nở. Không nhìn thấy những chùm hoa nấp sau lá mà hương thơm lẫn với mùi bùn sa cứ tỏa lên ngào ngạt. Niền chèo ken két, tiếng nói râm ran, thỉnh thoảng giật lên nhịp cười vô tư của anh cán bộ thu mua vốn trước là dân chài. Ngồi nép vào sau tấm lưng to béo của Hoan, Hà ngây ngất ngửi mùi tinh khiết của hoa sú đầu mùa, của lớp phù sa vừa kịp lắng xuống đang se mình trên bãi. Ba năm, mọi việc đều lặp lại y nguyên, như vẫn những con người này, những câu chuyện này. Trừ một chuyện đáng buồn: Anh thủy thủ làm thơ đeo kính cận năm ngoái ra đảo lần đầu tiên đã chết trong trận bom ngày mười sáu tháng Tư. Một người nào đó trong thuyền vừa nhắc đến anh.

– Còn “En-xi”?

Một người hỏi. Hà thấy câu hỏi thật không đúng lúc. Cô đang cố nhớ lại hình dáng của anh thủy thủ làm thơ. Người nào đó nhắc đến mình chỉ vì cũng đeo kính cận như anh thủy thủ ấy. Đêm tối đen. Hà im thin thít, thấy tấm lưng của Hoan không che nổi mình nữa. May quá, Hoan đỡ lời Hà:

– Vẫn “En-xi” đấy ạ.

Cảm giác nhẹ nhõm được ngồi trên con thuyền nhỏ trong đêm tối rơi đâu mất. Ba năm rồi, Hà chủ biên nghiên cứu đề tài En-xi. Ba năm. Ba lần ra đảo Ngọc. Mọi người gọi Hà là cô En-xi. Nhưng Hà vẫn giẫm chân tại chỗ. Thực ra cũng có vài bước tiến nào đó. Nhưng cái chủ yếu nhất của vấn đề thì chưa lần ra, chưa một tia sáng nào hiện ra.

Câu chuyện vô tình về anh thủy thủ đã làm Hà suy nghĩ một mình trong đêm tối. Hà thấy mình sao mà giống chiếc thuyền đang bò chậm chạp, trong khi bạn bè vút lên. Như Dũng đấy, Dũng đã thành phi công giỏi, máy bay Dũng đã được sơn hai ngôi sao đỏ... Không, Hà mím môi như vừa có một quyết định trong đầu, không thể kéo dài vụ En-xi qua một năm nữa. Hoặc phải đi đến đích, hoặc cam chịu thất bại, một sự đầu hàng.

Cả đảo Ngọc chỉ có ba gian nhà chật ních, sực mùi bùn của những người đơm tôm tha vào, mùi bùn thum thủm bám vào gót chân nứt nẻ của những người vừa lội xuống đầm, dính vào những chiếc quần đùi ướt, những tấm lưng mập mạp. Đèn măng-sông sáng rực đặt trên cái bàn mộc lam nham. Đồng chí chủ nhiệm mời khách uống nước, hút thuốc lá, ngà ngà vì sự khích lệ của các ngành và chắc rằng, nhờ sự giúp đỡ tích cực của công ty vật liệu kiến thiết, mùa tôm năm nay sẽ đạt hơn năm ngoái nhiều “dù hoàn cảnh có chiến tranh”. Cũng như mọi năm, Hà lặng lẽ đặt gói quần áo đúng vào chỗ năm ngoái trên sạp nứa rồi ra ngoài. Khát khô cổ, nhưng Hà biết chắc rằng nếu đến cái bàn kia cầm lấy chén nước thì lập tức Hà sẽ trở thành trung tâm của mọi chuyện (ở đây chỉ có Hà là gái). Người ta sẽ hỏi chuyện Hà về En-xi, về cái chân thứ tư của con tôm rảo là chân bơi hay chân bò, về chuyện chồng con của Hà, người đã từng tuyên bố: “Không lấy chồng trước khi xong đề tài En-xi”.

Hà bước ra cửa, nghe thấy tiếng ông chủ nhiệm nói sau lưng mình: “Chúng tôi xin trên cho một số cống lãi, vâng, phải thêm...” và ngay bên cạnh cửa có hai người khách đứng hút thuốc lá, tiếng một người thì thầm: “Thế nào cũng có cháo cá bớp và cua luộc đấy nhá, nhưng phải nửa đêm... nửa đêm...”.

Hà lướt qua, cả hai cùng ngừng nói, một người vứt điếu thuốc hút dở vào bóng tối, ánh lửa vẽ một đường ngoằn ngoèo. Hà cởi dép ngồi cạnh gốc dừa đứng cô đơn trên đảo. Năm ngoái Hà ra đây, ở đọt dừa có một tổ chích chòe. Chắc vẫn là đôi chích chòe năm ngoái ấy kêu đêm.

Không ngờ bên kia gốc dừa có một người đang đưa võng. Một người đàn ông. Anh ngồi dậy, bóng lực lưỡng in lên bầu trời sáng thiếc.

– Xin lỗi anh, em tưởng... – Hà lúng búng.

– Ô, có sao đâu!

– Trong ấy đông người và nóng quá.

Hà cảm thấy rất rõ có một cái gì vừa xảy ra ở người lạ mặt. Anh vứt điếu thuốc lá hút dở đi và mặc dù không đung đưa, dây võng vẫn cọ xát nhè nhẹ vào thân cây dừa. Cũng lạ, tất cả chỉ là cảm giác mà thôi.

– Cô mới ra? Chắc cô là nhà báo?

Hà cố đoán xem anh ta nói tiếng vùng nào. Chịu! Không phải Hà Nội rồi, nhưng không biết là miền Bắc hay miền Nam. Có lẽ là miền Trung? Nhưng tiếng nói của anh đã gây cho Hà một cảm giác khó tả. Giọng nói vừa nhẹ vừa ấm, tin tưởng ở mình.

Hà lễ phép:

– Không phải ạ, em chỉ ra dự khai mạc mùa tôm thôi.

– Nghe nói đêm nay sẽ rất khá đấy. Cô xem, cái đó đằng kia tôm nhảy rung cả đèn. Cô là cán bộ thu mua phải không? Tha hồ mà phấn khởi nhá!

– Không ạ, em nghiên cứu về tôm, tôm rảo anh ạ.

– Thế kia à? Cô kỹ sư... biết gọi thế nào đây, kỹ sư tôm, có phải không? Một chuyên gia về tôm... Cô nghiên cứu về cách bắt tôm, chế biến tôm hay là cách kho tôm? Thế thì tôi phải nhờ cô chuyện này mới được. Từ ngày mẹ tôi mất đến nay tôi không còn được ăn một bữa tôm kho nào vừa ý nữa...

Lần nữa, giọng cởi mở chân tình của người thanh niên làm Hà thích. Cô cười (ngay lập tức cô tưởng nhận thấy anh chăm chú nhìn nụ cười ấy trong đêm):

– Thế thì anh không gặp may rồi. Em nghiên cứu tất cả những vấn đề thuộc về con tôm. Nhưng… trừ cách kho tôm.

– Cô đáo để lắm – Anh nhận xét – Cô rất có ý thức chống việc độc quyền bếp núc của người phụ nữ (anh cười). Nhưng tôi thì từ lâu vẫn nghĩ rằng, như bà cụ nhà tôi, bà cụ chưa bao giờ tham gia công tác xã hội, vậy mà...

Hà đã gặp nhiều người thường tìm mọi cách để kể chuyện về người thân của mình. Về con mình, vợ mình, bạn bè mình... Không phải bao giờ những người ấy cũng được thông cảm. Nhưng giờ đây sao Hà muốn nghe chuyện bà cụ của anh quá. Bây giờ Hà chỉ sợ anh ngừng lại. Quả thế, anh im bặt như dòng nước đang chảy bị đông lại trong đất. Hà chỉ còn nghe thấy tiếng dây võng cọ nhè nhẹ vào thân cây dừa. Tự dưng Hà thấy buồn. Cô nghĩ đến mẹ, đến anh thủy thủ làm thơ, đến bà cụ, những người cô muốn gặp lại nhưng không bao giờ gặp được nữa, cô cố xua nỗi buồn ấy đi.

– Anh vừa làm tôi nhớ lại mẹ tôi...

– Chắc cô cũng mồ côi mẹ như tôi? Không hiểu sao từ khi cô nhắc đến chuyện tôm, tôi bỗng nhớ mẹ ghê gớm.

– Vì anh nằm võng một mình. Ngủ võng cũng rất dễ nằm mơ. Tôi thì cứ nằm võng là tôi lại thấy mẹ tôi về. Đầu tiên tôi nghe một lời ru, tôi nhận ra tiếng mẹ tôi, thế rồi tôi thấy mình bé lại trong cái tã nhuộm vỏ đà vá víu của các anh tôi, rồi mẹ tôi ngồi xuống. Hồi ở Xăng-chi-a-gô đê Cu-ba, trên tàu thực tập đánh tôm hùm, tôi cũng thấy lại cảnh đó, tôi khóc thét lên và thấy ngồi bên cạnh mình là một cô bạn chứ không phải mẹ tôi...

– Thôi, ta hãy quay về những con tôm đi. Cô thấy không, chỗ cái đó cạnh chúng mình, tôm đã vào chật, đang nhảy tắt cả đèn...

Hà nhìn xuống mặt đầm. Chiếc đèn trong cái đó gần nhất đã tắt. Một vùng đầm tối om. Xa hơn, những chiếc đèn khác đang đung đưa trong cái đó ướt át. Hà đứng dậy:

– Họ sắp chèo thuyền đi đổ đó. Tôi phải đi đây – Cô ngừng lại, rụt rè – Anh có đi xem không?

Hà bấm đèn pin để xỏ chân vào dép. Cô muốn hất ngược cái đèn lên... nhưng không thể làm thế được. Vả lại cũng chẳng cần làm thế để làm gì. Anh đứng dậy.

– Tôi còn rỗi đến mười hai giờ đêm. Định chợp mắt chút, nhưng thế này thì chẳng ngủ được nữa.

Cụ già tổ trưởng mặc chiếc áo lót trắng đẩy thuyền (cụ khoe là năm ngoái, do hoàn thành kế hoạch bán tôm đông lạnh xuất khẩu nên cả tổ được thưởng mỗi người một chiếc áo lót, mở đầu mùa tôm năm nay cụ mặc lấy may).

Anh thanh niên đưa võng (Hà rất muốn biết tên anh, nhưng không có dịp nào để hỏi) ngồi ở mũi, con người hiếu động ấy không ngồi yên, thỉnh thoảng anh đưa hai tay xuống nước làm bơi chèo và lại còn hát nữa! Hà như bị ngập vào giữa những cái sạ đựng tôm nứa tươi ngai ngái. Chiếc thuyền lướt trên mặt đầm đen thẫm, xòe ra hai bên hai cái rẽ quạt lân tinh. Ở đằng xa, giữa đầm, trong những khóm sú, những con sít dạn người đang gọi nhau “cúc... cúc...”.

Hà soi đèn pin xuống mặt nước:

– Anh có thấy những chấm đỏ xếp dọc theo mạn thuyền kia không? Rất nhiều. Đây, nhiều lắm...

– Có phải đấy là những vì sao biển?

– Ai bảo anh là có những vì sao biển? Họ bịa ra đấy. Đó là mắt của En-xi...

– Mắt tôm rảo đấy chứ! – Cụ già phía cuối thuyền nói như gắt – Thế ra bây giờ vẫn còn nhiều người thích nói tiếng Tây! Mùa tôm năm nay rồi phải biết!

– Vâng, đúng là mắt tôm rảo đấy ạ.

Đầu mũi thuyền, người thanh niên quay lại. Hình như tất cả mọi điều gì xảy ra đêm nay đều làm anh ngạc nhiên.

Anh ngạc nhiên vì âm hưởng tiếng nói của cô kỹ sư và mong muốn được nhìn thấy rõ mặt cô. Nhưng đêm vẫn tối mò. Ánh sáng từ những chiếc tàu bị kẹt lại sau ngày địch phong tỏa càng làm đêm ở đây sẫm lại.

Trong bóng tối, anh bàng hoàng nghĩ đến những điều kỳ diệu của cuộc sống. Giữa những ngày ác liệt này, sau những trận phá lôi mở đường trên mặt biển, không ngờ anh lại có thể một lần ngồi trên chiếc thuyền cũ kỹ và nhẹ bẫng lướt trên mặt đầm, trong một thế giới tưởng như là giấc mơ. Một cô kỹ sư về tôm, cả điều ấy bây giờ anh cũng vừa mới biết...

Nhưng đấy chưa phải là điều quan trọng nhất. Tất cả rồi sẽ qua đi, chiếc thuyền, mặt đầm nức mùi hoa sú, những quả thủy lôi đang chờ anh ngoài khơi kia... Nhưng anh tin rằng cái tiếng nói của cô gái đang ngồi trong bóng tối trước mặt anh đã hằn dấu vết trong anh mãi mãi...

Ông già ghé thuyền vào cái đó đầu tiên. Mũi thuyền đụng nhẹ vào nan tre làm chiếc đèn dầu treo bên trong tắt ngấm. Anh phải giúp ông một tay nhắc hàng chục cân tôm đổ vào lòng thuyền. Anh reo lên. Chưa bao giờ anh thấy cảnh này. Một đống tôm lấp lánh dưới ánh đèn pin, những con tôm ướt nước nây nây, đuồn đuỗn, đang nhảy lách tách như vui mừng được ra khỏi cảnh chật chội, lớp vỏ sừng căng mọng và ướt át.

Như quên tất cả, Hà sục tay vào đống tôm, nâng lên từng con một, nhìn, và lắc đầu, trong khi ông già cho thuyền lướt nhẹ trên mặt đầm, đến một cái đó khác.

– Cô tìm cái gì thế? – Anh hỏi.

Hà đưa một con tôm ra, ý tứ lia nhanh luồng ánh sáng qua trước mặt anh, nhưng cô sợ hãi hạ xuống.

– Vấn đề là thế này anh ạ. Đây là những con tôm rảo. Tên nó là Mê-ta-pê-nớt En-xi. Ta hãy tạm gọi nó là En-xi...

– En-xi – Anh nhắc lại.

– Vâng. Chỉ riêng bờ biển miền Bắc, hàng năm từ quãng tháng Tư đến tháng Mười, chúng ta thu trên hai ngàn tấn En-xi. Nhưng đối với chúng em, En-xi vẫn còn là một bí mật. Đàn tôm đã sống, đã lớn lên ở vùng nước lợ ven biển ta, nhưng bãi đẻ của nó ở đâu, quá trình sinh đẻ thế nào? Ba năm rồi, em đi tìm một con En-xi có mang trứng, chỉ cần một con thôi.

Nhưng vẫn không tìm thấy – Hà nói như nức lên – Đến nước này thì em phải bỏ đề tài này mất, em phải bỏ mất thôi anh ạ. Ở viện người ta đã gọi em là En-xi rồi đấy...

Anh cảm thấy một điều gì quan trọng cho cuộc đời anh đã xảy ra. Anh không biết đó là cái gì nhưng rõ ràng là anh đang sống những giờ phút khác hẳn với những ngày đã sống. Anh nói không chút đùa nghịch như hồi nãy:

– Ước gì tôi có thể tìm giúp cô một con tôm như thế. Hà không nghĩ rằng anh nói đùa.

– Chúng em hy vọng tìm thấy nó ngoài biển. Có thể là chúng đến đây và từ đây ra đi theo một dòng hải lưu nào đó. Kô-rô-si-vô... Nhưng thằng Mỹ đang dội bom đổ đạn thế này...

– Cô có tin rằng tôi sẽ tìm cho cô một con tôm rảo mang trứng không?

– Có, nếu anh đi biển nhiều.

– Tôi đã đánh cá nhiều năm ở ngoài khơi, và chắc chắn sau này tôi sẽ lại được đi đánh cá. Bởi vì, thằng Mỹ rồi sẽ thua, nhất định thế.

– Còn bây giờ?

– Tôi đi phá bom. Nhưng thôi, tôi đã nghe tiếng còi tàu gọi rồi – Anh nói với ông già đẩy thuyền – Cụ ghé vào chỗ này hộ cháu. Bây giờ cô cho tôi địa chỉ đi.

– Nguyễn Chinh Hà, Viện Nghiên cứu biển, anh nhớ nhé. Hà cảm thấy mình sắp mất đi một cái gì. Ít nhất là tiếng nói của anh, tiếng nói không lẫn. Cô bối rối:

– Anh nán lại một chút, anh cần rõ những đặc điểm của con tôm rảo để khỏi nhầm. Có hàng chục loại tôm nhưng anh phải nhớ, chỉ có En-xi là còn nằm trong màn bí mật, bốn chân trước của nó...

Bây giờ thì Hà cũng nghe rõ tiếng còi tàu vọng sang từ bên kia bãi sú và những ngón tay của Hà run lên.

Một chuyện xảy ra làm xôn xao cánh kỹ sư trẻ trong Viện Nghiên cứu. Hà xin hủy bỏ phần công việc quan trọng nhất của đề tài En-xi. Cô hoàn thành vội vàng một bản báo cáo nửa vời và xin chuyển sang một tổ khác. Mọi người ngạc nhiên. Nhưng ai cũng biết rõ Hà đã khóc nhiều (mặc dầu Hà có tiếng là gan góc) và rồi người ta cũng dễ dàng thông cảm với Hà. Việc tìm ra bãi đẻ của đàn tôm rảo đòi hỏi một thời gian dài hơn. Và cũng khó mà bắt một cô gái đang độ tuổi ấy dành cả một cuộc đời để đi đến các đầm nước lợ, đến các chợ bán tôm cá tìm một con En-xi mang trứng. Lúc đó đất nước còn bị chia cắt, bờ biển đang bị phân đôi ra, biết đâu con tôm rảo Hà cần đến đang ở một nơi nào đó ven bờ biển miền Nam.

Hà giúp việc cho một đồng chí phó tiến sĩ. Anh đang say mê cho tôm he đẻ trong đầm và gây giống nó. Ở trong viện, ai cũng biết anh đã để ý Hà, theo đuổi Hà từ lâu. Mọi người đều nghĩ: “Đẹp đôi đấy!”. Nhưng sao Hà thấy lòng mình quá dửng dưng trước những săn sóc vừa kín đáo vừa chân tình của anh, một người Hà nhận thấy là rất tốt. Có một điều Hà không hiểu nổi: Hình như Hà đã yêu một người nào đó rồi. Hình như rung động sâu kín và tinh tế nhất của mối tình đầu đã qua rồi không trở lại nữa. Tất cả có lẽ đã đi qua như một chuyện cổ tích bà kể ngày nào: Chàng trai mồ côi, bãi sú rì rào và thơm nức, mặt đầm phẳng lặng, ngọn đèn rung rinh trong những cái đó đầy tôm. Và lời hứa về con tôm rảo mang trứng. Trong những chuyện cổ tích, chàng hoàng tử bao giờ cũng ra đi không hẹn ngày trở lại. Hà không nhớ mặt anh (Hà đã thấy rõ anh đâu), nhưng Hà không quên được tiếng nói của anh. Dù sao thì đó chẳng qua cũng chỉ là một chuyện cổ tích.

Một lý do nữa làm Hà dửng dưng trước mối tình của anh phó tiến sĩ tốt bụng và hiền lành: Hà đau khổ thực sự vì phải từ bỏ phần quan trọng và thú vị nhất của đề tài En-xi. Một thất bại chua chát đầu tiên trong đời. Có lúc Hà thấy như con đường của khoa học đã khép lại trước Hà. Hy vọng lớn bao nhiêu thì thất vọng càng cay đắng bấy nhiêu!

Thế rồi một hôm anh đã trở lại. Hà ngồi làm việc một mình, cô đang hoàn thành tiêu bản của con tôm he Nhật Bản, một loại tôm có nhiều triển vọng về trữ lượng khai thác. Anh bước vào cửa, trân trân nhìn Hà. Mãi một lúc anh hỏi:

– Chị Chinh Hà?

Hỏi hay gọi, Hà cũng không biết nữa. Mãi đến lúc đó, đến lúc tiếng nói của anh cất lên, Hà mới sực nhớ ra anh. Cô lúng túng đến nỗi quên cả mời anh ngồi. Từ gác ba có thể nhìn thấy bãi biển ở chân trời. Mép nước vờn đến chân rừng sú.

– Tôi đưa đến cho cô...

Anh đưa cho Hà một con tôm ướp đông trong cái túi nhựa nhỏ. Qua tinh thể nước đá trong vắt, nó hiện ra như được gọt bằng đá ngọc. Nhưng Hà cảm thấy con tôm trong tay mình còn quý hơn tất cả các thứ đá ngọc, các thứ bảo vật khác nữa.

– Không ngờ phải đến hai năm tôi mới tìm thấy nó. Đó là buổi chiều tháng Mười một, lúc tàu đánh cá của chúng tôi kéo lưới ở phía Nam quần đảo Hạ Mai... Tọa độ của địa điểm này là...

Quên cả lời cảm ơn, cũng không mời anh uống nước (thật ra trong phòng chỉ có nước cất), Hà cầm túi nước đá chạy sang phòng bên. Cô hơ gói đá lên bếp điện rồi gắp con tôm ướp đông ra. Cô hớt hải mượn cái kính lúp của anh phó tiến sĩ.

– Trời ơi! – Hà kêu to lên – Không phải En-xi! Mà là con tôm vàng, con Gioay-nơ-ri! Hai con tôm giống nhau như đúc, anh ấy đã nhầm. Thế mà anh ấy đã mất bao nhiêu công tìm kiếm!

Hà đặt cái kính lúp xuống, ngồi thừ ra trong những suy nghĩ đau xót. “Anh ấy đã tìm kiếm những hai năm trời! Vì mình hay vì khoa học? Không, mình không hy vọng anh ấy yêu mình, một cô bé xoàng, nửa đường bỏ nhiệm vụ và đầu hàng. Mình không xứng đáng với anh ấy”. Lần đầu tiên Hà nhận ra một điều đơn giản: Hà đã không giữ được lời hứa của mình với viện, với bạn bè khi từ bỏ En-xi. Thật nhục nhã, mắt cô nhòa đi, nhưng cô định tâm ngay lại như một người trượt ngã vội bấm được vào mặt đất trơn. Cô sung sướng thấy mình đã có thể dứt ra khỏi những dằn vặt lâu nay và tình trạng chập chờn để đi tới một quyết định. Mình có thể xứng đáng với anh ấy. Phải xứng đáng với anh ấy. Anh phó tiến sĩ ngạc nhiên:

– Cái gì thế em?

– Không có gì anh ạ – Hà nói nhanh, tưởng như không nói nhanh thì Hà sẽ nói một câu khác – Em muốn báo cáo với anh một việc. Em thấy tổ anh đã đủ người. Em sẽ xin viện trở lại đề tài En-xi! Đất nước thống nhất rồi, có nhiều điều kiện nghiên cứu hơn phải không anh? – Cô nói thêm – Và không phải chỉ vì thế...

Không chịu được đôi mắt vừa ngạc nhiên vừa đau khổ nhìn mình qua cặp kính dày, Hà chạy vội sang phòng bên. Anh vẫn ngồi kia, bàn tay to, đen, cầm chặt cốc nước trong suốt mà không uống. Giá như anh biết được anh đã làm thay đổi cả cuộc đời của một con người.

Hải Phòng, 1975