NGÔI MỘ CỔ
Đang trên đường đến ngôi mộ cổ thì một cơn lốc bất ngờ nổi lên, cuốn họ vào một lùm cây dưới chân đồi. Buồn ngủ gặp chiếu manh, trong đám cây càng trở nên âm u vì mưa gió, có một cái miếu vừa đủ cho hai người, ngồi hay nằm cũng được. Họ đang ở một vùng đất cổ có nhiều đình chùa miếu mạo và di tích. Rặng núi đá vôi gấp khúc và con sông giữa hai bờ sú làm say mê các nhà khảo cổ.
Bây giờ thì không biết làm gì cho qua đêm nay trong cơn bão. Trời tối nhanh vì mưa gió, vì những đám mây đùn lên không ngớt từ phía cửa sông. Tùy và Ái rời thành phố sáng nay. Giá hai người chịu khó nghe bản tin sáng thì đã biết có cơn bão nhỏ. Giờ chỉ còn việc nằm chịu đói, mơ tưởng và kiên nhẫn chờ bão tan.
Nhưng bão có nguy cơ kéo dài thâu đêm. Tháng Sáu, mùa của những ngày bất thường vùng duyên hải. Trời đang trong xanh vụt cái mưa dập gió dồn. Mưa càng lớn, trời càng tối. Trong gian miếu còn tối hơn nữa. Ẩm ướt, khí lạnh và mùi rêu mốc. Đành tự an ủi là ngôi miếu còn có cửa, đóng lại rồi ngủ đói một đêm trên sàn nhà nhớp nháp và khả nghi, vậy thôi. Nghĩ thế, Ái thấy thư thả. Chẳng dễ gì gặp được những bước phiêu lưu trong thời công nghiệp hóa này.
Tùy mở túi du lịch. Cái khóa kêu roạt roạt. Bóng dáng cao lớn của Tùy làm Ái yên tâm hơn, vả lại, Ái hy vọng vào tính tháo vát của Tùy. Trong nháy mắt, Tùy đã rút ra khỏi túi chiếc bật lửa, cái máy lửa của Tùy bao giờ cũng nhạy, chỉ bật một cái là mặt trời mọc ngay trong đêm tối. Anh đưa mắt sục sạo bàn thờ, phát hiện ra một cây đèn Hoa Kỳ còn dầu. Tùy thắp lên. Ánh sáng trở nên vững chãi, xua hết bóng tối. Những khe hở qua tấm cửa gỗ biến mất.
– Bây giờ có nắm lạc rang với một cút rượu nhỉ? – Tùy vui vẻ nói – Tớ đã bảo mà. Giá ở lại một ngày nữa rồi hãy đi thì có hay không! Mưa gió thế này, rủ cô bé tóc vàng ở ghi sê chơi tú lơ khơ thì tuyệt! Ái này, có phải tóc vàng đẹp vì nó hiếm phải không?
– Tại vì anh xa vợ đấy mà!
– Đâu có. Nhưng dù sao cũng phải công nhận rời Hải Phòng sáng nay là một sai lầm tuyệt đối. Thôi, quên tất cả đi. Tớ tranh thủ đọc lại vài lá thư cái đã.
Tùy lấy ra mấy lá thư hôm qua đọc chưa kỹ. Anh quay người về phía ngọn đèn. Tiếng mưa bên ngoài mỗi lúc một ầm ĩ. Ái thấy cả không gian ngoài ngôi miếu biến thành nước và hai người đang nằm trong một con thuyền. Mui thuyền đã hạ kín, thuyền đang trôi trong đêm và giờ của những giấc mơ đã đến. Ái đi dần vào tâm tưởng mình. Hễ có dịp là anh nghĩ tới Dim. Thật lạ, cứ rời công việc và những giao đãi hàng ngày là Dim liền hiện ra tận cõi sâu kín nhất của lòng anh. Có lẽ vì thế mà anh chấp nhận một cách thoải mái cơn bão này, cái đêm vừa đói vừa lạnh này. Vì Dim mà anh chấp nhận thêm một lần nữa nghề khảo cổ, chấp nhận thêm một lần nữa cuộc sống giữa những di vật cổ xưa, những xác ướp, những mảnh tước, những mảnh rìu. Dim đã làm anh yêu những thứ đó hơn trước kia, hơn cả những ngày sinh viên sôi nổi ở trường đại học.
Tùy không có thói quen “đi vào bên trong” như Ái. Tùy thích nói hơn trước. Trước đây Tùy kín đáo hơn bây giờ, Tùy đòi hỏi người tiếp chuyện như con men đòi người đối ẩm. Bỗng chốc Tùy sinh ra như thế. Tùy nói, giống như người sợ ma, để trấn an mình. Vì vậy mà Ái thấy những chuyến đi với Tùy không làm anh thích thú như trước kia nữa, nó nặng nề, không như ngày anh chưa yêu Dim và cái vòng đá chưa bị mất. Đúng thế, sau chuyến đi nọ và sau khi cái vòng bị mất thì giữa anh và Tùy đã có một khe nứt... Họ vẫn thường ngủ chung giường, ngồi cạnh nhau trên ghế tàu hỏa, nhưng không còn như trước nữa. Thỉnh thoảng, Tùy đưa đôi mắt sâu dưới cặp lông mày rậm nhìn xoáy vào anh như muốn lôi gan ruột anh ra. Thỉnh thoảng, Tùy buông ra một câu nói mập mờ, khó hiểu như để thăm dò. Anh em trong viện vẫn cứ tưởng hai người thân nhau như xưa, nhưng Ái thì hiểu rằng đã có một khe nứt, nhỏ, khó nhìn thấy nhưng sâu tận trung tâm trái đất. Ngay cả những câu chuyện và lối ăn nói có duyên của Tùy có khi làm Ái thích, nhưng sau ngày anh yêu Dim, sau ngày cái vòng bị mất thì anh lại thấy chúng nhạt nhẽo. Có thể vì Tùy không còn đủ tự tin để nói hay như trước. Cũng có thể vì đối với Ái thì không ai nói chuyện hay bằng Dim. Không ai nói chuyện có duyên bằng Dim. Nhưng cũng có thể vì một lẽ quan trọng khác... cái khe nứt. Tùy quay ngoắt người lại. Ái cũng đoán là Tùy khó có kiên nhẫn đọc hết bức thư. Tùy sẽ hét lên hay nói một chuyện gì đó. Tùy vứt lá thư như người ta vứt cái bánh sau khi ăn xong, chống hai tay ngồi dậy.
– Ái này, mình vừa đọc thư thằng Yêm, một thằng bạn thân từ nhỏ. Thằng bạn mà mình phải thường xuyên gà cho những bài tính đố. Một thằng đội sổ quanh năm. Bây giờ nó hùn vốn lập một tổ hợp nước chấm, nấu lông vịt thành magi xì dầu. Nó khoe là đã mua được xe cúp, còn tổ hợp thì tậu một chiếc Toyota, nó bảo rằng không có ngày nào nó ăn cơm ở nhà cả.
– Thì nó ăn ở đâu?
– Hừm, ăn tiệc! Với khách hàng, với những người cầu cạnh nó. Cậu đọc thư nó đi, nó tưởng đã leo lên đỉnh cao của đời nó rồi. Đồ vét đĩa! Một thằng lùn loại bét. Ngồi trên niêu đất vậy mà nó còn ra vẻ thương hại cái nghề đào xác ướp của chúng mình nữa chứ.
– Thì nó cứ việc thương hại...
Tùy đưa hai tay nắm lấy đôi vai gầy của Ái, tưởng như anh có thể bóp bẹp nó như bóp một vỏ trứng vịt. Và Ái lại gặp một cái nhìn xuyên sâu, khó hiểu.
– Cậu nghĩ vậy thật hả Ái? Cậu trở thành khiếp nhược từ bao giờ vậy? Không! Phải biết xoay trở thân phận mình, Ái ạ.
Bây giờ thì Ái bắt được cái mạch chính câu chuyện của Tùy rồi. Nhưng anh không hào hứng gì đón những quả bóng Tùy đang tung ra không khí. Anh vụt nhớ lại khuôn mặt hơi gầy của Dim khi nàng nghiêng người rót cho anh một gáo nước vào chậu để rửa mặt. Hôm ấy, họ ở đảo Rồng, một hòn đảo gần Vũng Tàu, chỉ có cát và nước mặn, người ta hứng sương đọng trên thân cây dừa cho nhỏ từng giọt vào những chiếc xô, đúng cái giây phút khi gáo nước trong như nước mắt vừa trút hết, Ái nghĩ rằng người con gái này phải là vợ mình. Và sau đó, mọi chuyện sẽ tốt đẹp nếu cái vòng ấy không bị mất...
– Con người sinh ra là để chống lại cái gọi là thân phận, có phải thế không? Cũng như chúng mình chui vào cái miếu là để chống lại cái thân phận ướt như chuột ngoài cánh đồng. Con cá có cái đuôi là để quẫy.
Tùy nói, trán đổ mồ hôi. Ái tưởng như anh đã lấy hết sức lực còn lại để nói được câu đó và anh đang rũ xuống, mệt mỏi, hổn hển.
– Thì nó cứ quẫy nếu nó có đuôi – Ái nói.
Anh vẫn không dứt ra khỏi hình ảnh Dim. Dim không tin ở số phận, nhưng Dim từng nói một câu rất hay. Lúc đó, hai đứa đang lững thững bên một bến sông. Buổi chiều. Đêm chạy những bước gấp phía sau, kéo dài bóng cây đến sát mép nước. Họ tính ngày có thể chung sống với nhau và trước mắt họ còn bao nhiêu trở ngại khôn lường. Dim nói: “Thượng đế đẩy chúng mình vào nhau thì Người sẽ lo tiếp phần còn lại, anh đừng lo”. Anh sẽ cưới Dim vào cuối năm nay khi trời trở rét. Anh sẽ cưới Dim. Nhưng đến một ngày trở rét cuối năm nay, thế nào anh cũng phải làm xong cái đó. Làm xong rồi hãy cưới Dim. Nhưng vì không thể sống xa Dim qua mùa đông này nên anh nhất định phải làm xong cái đó trước khi trời trở rét. Dim viết trong thư: “Em mong anh làm việc nhiều, những người như anh mà cứ yêu dài dài đến bỏ bê công việc thì uổng quá. Hãy quên chuyện cái vòng đá đi anh!”. Giá cái vòng đá không bị mất thì anh đã làm xong cái đó...
– Cậu bạc nhược thật rồi, Ái ạ.
Mắt Tùy sáng lên. Ái rùng mình chợt nghĩ, cái nhìn ấy chỉ có ở người đàn ông khi anh ta thèm khát đàn bà. Nhưng Tùy không thèm khát đàn bà. Một dục vọng sâu xa, khó hiểu đang đốt cháy tâm can anh, hiện lên thành ngọn lửa trong đôi mắt, dưới hàng lông mày.
– Một thằng như mình, như cậu mà đành tàn đời với việc đào bới mấy mẩu xương người chết? Nói thật với cậu, mình không chịu đâu, mình không chịu đâu!
Dứt câu, Tùy vụt đứng dậy. Đầu anh cụng vào thanh đòn tay. Nhưng Tùy không xuýt xoa, ngồi ngay xuống. Ái biết, giá ở trong phòng khách sạn thì Tùy đã đi đi lại lại, lồng lộn như con thú rồi.
– Cậu phải hiểu tớ, thông cảm với tớ...
Anh ấy muốn mình điều gì nhỉ? Ái tự hỏi, câu trả lời vụt lóe lên, nhưng như nhiều lần khác, mỗi lần câu trả lời lóe lên là Ái thấy đau nhói trong ngực không chịu nổi. Anh giãy giụa trong cảm giác đau đớn ấy một chút rồi xua đuổi mọi ý nghĩ chợt đến như người ta thường khép lại cửa trước một cơn gió lùa.
– Mỗi người một cách – Ái nói.
Lần này, đôi mắt Dim khép lại, Dim nhắm mắt, đôi mắt càng đẹp hơn, cũng như khi Dim ngừng nói, tiếng nói nàng càng lay động anh hơn. Dim đã nhắm mắt trong cái hôm dài đầu tiên, trong một quán cà phê nhỏ, giữa khoảng thời gian ông chủ nhà cúi xuống mở cánh tủ quầy để lấy thuốc lá. Trước đó, chẳng là gì cả. Sau đó là tất cả. Dạo ấy, nhiều nguồn tin cho biết bên bờ sông quê Dim còn vài ngôi mộ cổ. Viện cử Tùy và Ái bay ngay vào. Họ tổ chức đào bới. Họ thất vọng. Những ngôi mộ này chẳng cổ chút nào, nó còn quá mới với một khách du lịch dễ tính nữa là khác. Nhưng Ái đã gặp Dim. Đúng như câu thơ nào: Tôi đi tìm thánh thần xưa mà chỉ gặp những con người hiện đại... Nếu cái vòng không bị mất thì Ái có thể khép kín chuỗi tư liệu của bản luận án rồi. Lúc đó chỉ cần vài ba tháng là anh sẽ viết xong, sẽ cưới Dim sau khi viết xong. Ba tháng đủ rồi, cái máy chữ còn khá tốt, nếu thay một cuộn ruy-băng mới. Viện bố trí thời gian và mỗi ngày cái máy chữ sẽ lách cách, giải mã những ngôn ngữ còn lặng câm. Ái tưởng như đã nhìn thấy trước mắt tờ giấy trắng vuông vắn, đẹp đẽ. Anh sẽ viết lên đó, đánh máy lên đó những ngày sống âm thầm của người đi tìm những kỷ niệm đã bị lãng quên, những cơn mưa, những đêm đông gió lạnh, những cái hố đất hôi mùi bùn và mùi xương người mục. Anh sẽ đánh máy lên giấy mười hai năm làm việc, đi đây đi đó, tay găng da với con dao phát rừng mở lối, chân ủng cao su, miệng ít khi rời cái khẩu trang chần mấy lớp vải màn. Và Dim, cái hôm đầu tiên họ hôn nhau, Dim đã khóc, giọt nước mắt của lo âu và hy vọng, trong cái quán cà phê nhỏ, khi ông chủ cúi xuống mở cánh tủ quầy hàng. Sau khi cái vòng bị mất, Ái bàng hoàng như châu Mỹ bỗng biến mất trước đoàn thám kiểm kiệt sức của Kha-Luân-Bố. Nếu không có Dim, chắc là Ái đã chịu thua, bỏ cuộc rồi. “Có việc nào không cực nhọc đâu anh?... Đừng, anh đừng chán nản…”. Ái lấy lại sức lực, cái sức lực vừa được nhân đôi từ hôm ấy. Phải, bữa đó, trên một bến đò. Cái quán nước với một đống sầu riêng và chôm chôm đông nghịt khách qua sông. Máy phà bị hỏng, chiếc phà trôi mãi về hạ lưu. Người ta dự đoán phải năm sáu tiếng nữa mới có ca-nô đi kéo nó về. Tùy uống rượu đế, tán tỉnh mấy cô sinh viên mặc quần bò và áo chẽn hở ngực về nhà nghỉ hè. Ái không uống được rượu, những cô gái này lại có niên đại quá mới đối với một nhà khảo cổ, anh tìm một gốc chuối ngồi trú nắng. Thế rồi Dim đến... Dim đi bách bộ, cầm sổ tay. Nàng nhếch mép chào anh, tiếp tục đi. Nhưng rồi nàng vụt quay lại. Dòng sông vẫn trôi dưới chân anh mà anh tưởng như nó ngừng chảy.
Người con gái ấy đi qua, chỉ nhếch mép chào anh mà không hề ngó tới anh nữa. Nhưng cái biên giới không ai nhìn thấy này đã bị vượt qua rồi. Anh ngồi, nàng ngồi lên chiếc dép nhựa mỏng của mình, mặt nóng bừng vì hồi đó người ta đang chuộng xì bô. Nhưng Dim không để ý tới chuyện đó. Không khách khí hay thẹn thùng, Dim ngồi xuống bên cạnh anh. Sau vài câu, họ chuyển sang nói chuyện về nghề khảo cổ, công việc của anh.
– Vậy là, tôi thì săn những gì mới nhất, còn anh lại tìm những thứ cổ nhất.
– Tôi hiểu rồi, chị là nhà báo?
– Một người săn tin thôi! Còn lâu thì mới xứng đáng là nhà báo. Tôi đâu có gan nhận bừa, kỳ lắm anh.
– Chị thường ký tên gì dưới những bài báo của chị?
– Dim. Kỳ quá hở anh?
– Cũng hơi kỳ, nghe như tên Tây ấy.
– Đó là một bí mật gia đình đó anh. Hồi trẻ ba tôi có một người yêu quê Bắc Cổ thường hát cho ba tôi nghe những câu quan họ. Ai nhớ thương ai, đôi con mắt ấy mà lim dim... Vì vậy mà con gái ba tôi tên là Lim Dim, tên nghe cũng kỳ nhưng có lạ đâu, hai tiếng bình thường. Anh thì có bao giờ đọc những bài báo của tôi, một tờ báo tỉnh lẻ!
Ái nhìn cái cúc áo trên ngực nàng. Cái cúc áo màu ngà voi, màu thánh thiện như cái nhìn dịu dàng của người con gái chợt đến ngồi bên cạnh anh.
– Những ngày còn ở đây, thế nào tôi cũng tìm đọc bài của chị.
Nàng nói: “Cám ơn anh”, và anh thấy cái cúc áo màu ngà voi run rẩy.
Họ nói chuyện lai rai với nhau cho đến lúc có phà. Trên chuyến phà đông, Tùy đã bỏ mấy cô sinh viên, anh bế hộ con cho một thiếu phụ khá đẹp và nhìn những cô mặc áo chẽn với đôi mắt lạnh nhạt. Ái mua một bó chôm chôm mời Dim ăn. Họ nhả hạt chôm chôm xuống sông bên mạn phà. Giờ này, ở ngoài kia vải thiều đã chín. Những bầy chào mào đang thấp thoáng trên những tán vải xanh om của huyện Thanh Hà. Nhưng Ái đang lẫn lộn về thời gian và không gian. Giây phút này ngừng lại rồi sẽ thuộc về vĩnh cửu trong ký ức anh.
Những ngày sau đó, Ái thường có dịp gặp Dim luôn. Nàng được tòa soạn phân công theo dõi vụ đào mộ cổ, rất say mê với công việc mới lạ đối với vùng đất mới này. Nàng hứa với Ái là sẽ viết một bài báo cẩn thận về nhóm khảo cổ Hà Nội vào. Dim chưa ra Hà Nội lần nào nên những gì Ái nói về Hà Nội cũng làm nàng chú ý. “Tổ tiên em cũng người Bắc đó anh. Ba em thích câu thơ này lắm – Tự thuở mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long... Ông mất trong nhà tù của Diệm. Mười lăm tuổi, em vô rừng. Các chú giao cho em một cái ra-đô, em mở đài Hà Nội, chép bản tin đọc chậm trên đài, chép xong, em tha hồ nghe. Suốt ngày Hà Nội nói em nghe, Hà Nội thấm hồn em dần dần, cùng với câu thơ kia. Một lần gặp cán gáo, em nhảy đại xuống đám bèo. Cái ra-đô ngấm nước. Đó là lần đầu tiên em bị cơ quan kiểm thảo. Một chú người Hà Nội vào công tác trong tòa soạn binh em, chú ấy nói nó đã bỏ hết tư trang quần áo để mang theo người cái ra-đô, ướt thì chịu, chứ kiểm thảo sao được nó? Một người Hà Nội binh em, chi tiết này quan trọng lắm đó anh. Rồi em ra thành phố Cần Thơ làm tình báo một dạo. Tổ chức mở tiệm cho em bán cà phê. Được vài tháng, một đại úy dù trồng cây si trước tiệm em. Ảnh mê em một cây. Em báo cáo với các chú. Chú Hai phàn nàn: “Tại dạo này con bé đẹp ra quá mà!”. Rồi các chú rút em về liền. Thế là hết đời tình báo. Anh biết thế nào không? Tay đại úy không khều mất em như các chú sợ mà chính em khều được ảnh. Ảnh thành nhân mối trong sư đoàn dù. Em nói dối ảnh: Tôi có chồng rồi, tôi không yêu anh đâu. Ảnh buồn em, nhưng nói: Cũng không sao, bây giờ tôi say cách mạng rồi”.
Tùy ngáp, mệt mỏi. Gian miếu buồn hơn sau cái ngáp đó.
– Chơi bài đi!
– Chơi nhưng không bôi râu nhé! – Ái đáp, thực ra anh chẳng hứng thú gì, anh đồng ý chơi bài vì không chịu nổi cái ngáp của Tùy đó thôi.
Nghĩ cũng kỳ, tôi ghen với tay đại úy nọ. Tôi ghen cả với cây bút bi trong tay Dim. Đào bới được một tuần, công việc không đi đến đâu hết, một con số không. Cả bọn ngao ngán. Tỉnh ủy thết một bữa tiệc để an ủi hai thằng trước khi bay ra. Mọi người nhìn chúng tôi thương hại. Thế là không có hiện vật, không có bài báo cẩn thận mà Dim hứa. Ngơ ngác và buồn phiền. Cuộc chia tay với Dim chắc sẽ thêm nặng nề vì công việc đổ vỡ. Dim đến khách sạn tìm tôi. Chúng tôi đạp xe ra bờ kinh Cái Răng xuống dốc cầu rồi rẽ trái. Trong cái quán cà phê nhỏ, Dim nhìn tôi và đưa cho tôi một cái vòng đá cẩm thạch, chạm trổ. Tôi sửng sốt: Trước mắt tôi, một cái vòng cổ quý hiếm của văn hóa Phùng Nguyên.
– Sao Dim có cái này? – Tôi hỏi.
– Ba cho em, bây giờ em cho anh đó. Những ngôi mộ cổ không có gì, em đền anh cái vòng này. Anh có vui không?
Tôi nhìn thẳng vào mắt Dim:
– Em có biết cái vòng này đáng giá bao nhiêu không?
– Một tay chơi đồ cổ ở Sài Gòn trả em ba cây rồi đó. Còn đối với anh thì, có lẽ là vô giá. Em chỉ muốn nó phải nằm trong tủ bảo tàng Hà Nội chứ không phải Paris hay Nữu Ước. Và nếu như nó giúp được gì cho luận án của anh.
Tôi mường tượng thấy tôi sẽ kết thúc công việc với cái vòng này. Tôi đưa cái vòng cho Tùy xem. Trong lĩnh vực này, Tùy là người sành sỏi. Tùy được viện cử đi theo tôi là để giúp đỡ và hướng dẫn tôi. Có khi anh giảng giải cho tôi như một ông giáo về một lĩnh vực chuyên ngành nào đó. Tóm lại, ngay trong đề tài tôi đang theo đuổi, anh cũng tỏ ra là một người sắc sảo và uyên bác. Anh cầm lấy cái vòng. Vươn những ngón tay dài có móng sắc (sau này ngẫm nghĩ ra tôi mới hiểu vì sao anh lại để móng tay dài như phụ nữ) quặp lấy cái vòng như con chim cắt trên con mồi. Và anh nhìn tôi, cái dục vọng bí ẩn nào đó đang đốt cháy bên trong làm hiện lên ánh lửa ở đôi mắt. Rồi cái nhìn dịu đi. Anh buông cái vòng ra, nếu tôi không đón lấy nó thì nó đã rơi xuống đất. “Cũng được đấy!”. Tùy nói vẻ hờ hững. Tôi ngạc nhiên tuy vẫn hay rụt rè trước mặt Tùy, nhưng trong những trường hợp như thế này không bao giờ tôi chịu nhường bước. Tôi hăm hở chứng minh cho anh hay rằng đây là một hiện vật vô giá, bởi vì tôi đã đọc được ngôn ngữ và đời sống ngàn năm của cái vòng qua vân đá, những nét chạm thô, những đoạn thắt không đều của nó, qua kỹ thuật mài và tu chỉnh, nghĩa là tôi làm công việc của người khảo cổ. Nhưng ở đây, đối với cái vòng của Dim cũng như một vài hiện vật khác, có một thứ trực giác riêng giúp tôi định giá chúng, điều này tôi không nói ra được nhưng chắc chắn là Tùy đã hiểu. Cuối cùng anh bớt lạnh nhạt, anh tỏ ra đồng tình về những kiến thức mà lần đầu tiên tôi dám “múa rìu” qua mắt anh. Chúng tôi ăn qua quấy, trao đổi mấy câu xã giao rồi chia tay. Tôi muốn được ngồi một mình với Tùy để suy nghĩ về cái vòng đá chạm. Bước khỏi tam cấp khách sạn, tôi kéo Tùy vào quán nước cách đó không xa. Hãy uống với nhau một chút để ăn mừng. Tôi nhớ là đã uống khá nhiều. Tại sao lại không uống nhỉ? Uống để ăn mừng cuộc tái ngộ với cái vòng, để thêm can đảm trong buổi chia tay ngày mai với Dim, uống để tận hưởng giờ phút tuyệt vời của người khảo cổ khi chính tay họ sờ mó được những thế kỷ xa xưa bị chôn vùi vào lãng quên. Heinrich Schliemann chỉ căn cứ vào những câu thơ Iliade mà tìm thấy thành Troie sau khi đào bới hai mươi lăm vạn mét khối đất đá, có lẽ cũng đã uống. Có gì vui bằng cuộc đoàn viên giữa lịch sử cổ đại với những người tìm tòi thời nguyên tử. Uống đi, uống nữa đi, chúc mừng Dim của cậu, chúc mừng cái vòng, chúc mừng những người say mê mộ cổ! Tùy nói bên tai tôi, nói như say. Tùy không say bao giờ, có lẽ chỉ có tôi say mà thôi. Tôi gục xuống mặt bàn bẩn thỉu, tai vẫn còn nghe tiếng Tùy nói như hét: nữa đi, nữa đi... Ai đó áp cốc vào môi, rượu chảy tràn trề và môi tôi mềm ra.
Sáng hôm sau, tỉnh dậy trên giường khách sạn, tôi nhìn thấy Tùy đang đi lại, lồng lộn như một con gấu trong chuồng bách thú. “Khốn nạn, khốn nạn quá – Tùy la hét – chúng mình là một lũ khốn nạn. Ái ơi, tỉnh lại đi, tỉnh hẳn đi! Cái vòng mất rồi! Cái vòng mất rồi! Cậu ngất xỉu trên bàn, nôn thốc nôn tháo. Còn tớ thì nửa say nửa tỉnh, nhìn cậu mà hồn vía tớ lên ngọn cây. Khốn khổ, cậu có uống được đâu mà dám xài rượu đế? Tớ chạy ra đường định đón một chiếc xích lô đưa cậu về. Nhưng rồi tớ cũng gục xuống vỉa hè, cách quán dăm bước. Một chốc tớ tỉnh lại thôi, nhưng cái vòng trong túi đã mất. Nó mất thật rồi. Một thằng “hai ngón” chắc đã lục soát tớ khá kỹ. Tỉnh lại đi, Ái ơi!”
Tôi tỉnh lại dần dần. Rồi lại ngã vật xuống gối, lẩm bẩm: “Thì nó mất, nó mất…”. Tôi tỉnh lại dần dần từng ngày, từng tháng sau đó. Mỗi ngày tôi tỉnh thêm ra một chút, cho đến ngày hôm nay. Nỗi đau về cái vòng không buông tha tôi hơn một năm nay, trong trường hợp này, đau quá mà không nói ra được, người ta không ngất đi mà lại tỉnh dần ra. Dim nói: “Anh đã phạm một tội ác. Không phải vì cái vòng này là di vật của một vị đại thần họ Lê bị thất sủng, bị đày biệt xứ vào miền trong. Ông là người mở đầu dòng họ em, đã trao nó cho con cháu, đến em là người cuối cùng. Nhưng tội ác của anh là vì anh mà chiếc vòng không có hy vọng được bày ở bảo tàng Hà Nội nữa. Nhưng em tha thứ cho anh”. Dim khóc và đã tha thứ. Cuộc chia tay không đơn giản chút nào. “Quên cái vòng đi và hãy nhớ em. Mãi mãi hãy nhớ em, nghe anh!”. Đó là lời cuối cùng của Dim ở bến xe miền Tây, trong một buồng trọ tồi tàn.
Họ đánh bài tú lơ khơ tay đôi. Gian miếu thành một cái sòng bạc trong tiểu thuyết Nguyên Hồng hay trong truyện của Xađôvianu, chất giang hồ bàng bạc. Ngọn đèn chỉ chực tắt rồi gượng dậy, lóe lên, bấc đèn tóe ra hình đầu chuồn chuồn trông như quả dâu đen.
– Anh đánh rơi con hai Pích xuống đùi rồi. Đừng nên thế!
– Đâu! – Tùy giẫy – Làm gì có chuyện ấy. Cậu tìm xem nào. Tùy mở đùi ra. Không có con Pích. Nó biến rồi.
– Nó đây này! – Tùy rút trong tay bài đúng con hai Pích lẻ mà Ái vừa nhìn thấy anh đánh rơi xuống đùi.
– Anh gian quá – Ái nói – Tôi không biết chơi bài gian. Tôi không chơi nữa.
Ái lặng lẽ quẳng bài xuống tấm ni lông. Ngoài kia bão có yếu đi nhưng gió đã đổi chiều. Một cái lỗ hổng trên hồi hút gió vào. Ái lấy cái mũ cói che kín lại.
– Không chơi nữa thì thôi – Tùy cũng vất bài xuống – Nhưng tớ thề với cậu là tớ không đánh rơi con hai Pích.
– Hình như anh có biết ảo thuật phải không nhỉ? – Ái chợt hỏi.
Tùy hơi bối rối, nhìn Ái, cái nhìn vẫn khoan sâu, hun hút. Rồi Tùy cầm nắm bài lên xóc xóc, bồn chồn vì một cám dỗ khó cưỡng.
– Cũng biết sơ sơ. Nếu cậu thích...
Tùy lại xòe bài, lấy thêm vài con cho chặt tay, cái mũ bị gió thổi rơi xuống đất. Ái nhặt lên, đặt vào chỗ cũ.
– Bây giờ cậu rút một con đi – Tùy nói – Được rồi. Con Át cơ
– Tùy xòe bàn tay trắng, những ngón tay dài có vuốt như ngón tay con gái, ra trước mặt Ái – Trong tay tớ không có gì. Bây giờ cậu đưa con Át cơ cho tớ. Được rồi! – Tùy nắm con bài trong bàn tay, quay quay cánh tay một vòng nhỏ rồi xòe ra – Con gì đây?
– Con Chuồn, con Át chuồn. Anh tài quá.
– Khéo tay thôi – Tùy nói – Năm một chín năm ba gia đình tớ hồi cư vào thành. Hồi đó gánh xiếc khỉ của ông Chiêu Ly vẫn đi biểu diễn trên đường phố Hải Phòng, Hà Nội. Tớ chán học trường Tây, bỏ nhà đi ném tạ giữ vòng cho gánh Chiêu Ly.
Sau ông ta mê tớ cho nhập bọn. Tớ chuyên ảo thuật, đích thân ông Chiêu Ly dạy cho. Nhì nhằng, mãi đến ngày Hà Nội giải phóng...
Không phải như thế! Anh nói dối rồi! Ái nhìn Tùy. Giây phút này anh càng thấy mình đang tỉnh ra – không phải như thế. Tôi còn lạ gì gánh Chiêu Ly. Tôi không lạ gì. Ái nhìn mái tóc lờm xờm của Tùy lắt lay trên tường. Tôi không lạ, vì chính tôi, thằng Ái còm, người đường phố thường gọi tôi như thế, tôi giữ vai ảo thuật trong gánh Chiêu Ly. Bố tôi hoạt động trong công đoàn thủy thủ bị lộ. Chúng nó bắt bố tôi vào căng Máy Chai rồi cho lên tàu há mồm đưa vào Phú Quốc. Còn mẹ và hai em. Biết sống làm sao giữa thành phố tạm chiếm? Tôi vào gánh Chiêu Ly. Ông già rồi, ông biết mình sắp chết. Nghe chuyện tôi, ông nói: “Ta sẽ giúp con, ta không có tài giúp nước thì ta giúp đỡ con, một người yêu nước vậy”. Ông dạy tôi làm trò ảo thuật, những trò khéo léo đã làm ông nổi tiếng từ thời ba mươi cùng với Tạ Duy Hiển, nhà dạy thú. Rồi ông chết ở nhà thương làm phúc của các bà xơ. Tôi lang thang đường phố Hà Nội, Hải Phòng. Ái còm đã thành bé Rêmi với một con khỉ trụi lông và một cỗ bài cũ. Bé Rêmi không sống nhì nhằng như anh nói, nó sống được, sống đàng hoàng và khá nổi tiếng ở bến Cảng, ở vườn hoa Pônbe. Đã là học trò cụ Chiêu Ly thì không được sống nhì nhằng. Rêmi có tài, nó xứng đáng với người dạy nó và nó sống được, nó nuôi được mẹ và hai em bằng cái khéo léo của đôi bàn tay. Lúc đó ảo thuật là lẽ sống của nó, nó không coi ảo thuật là một mánh phụ bên cạnh nghề khảo cổ, có thể giúp những nhà khảo cổ như anh thực hiện được cái dục vọng mà tôi đã nhìn thấy nó biến thành ngọn lửa trong đôi mắt của anh. Chỉ đến lúc cần thiết Rêmi mới rời nghề ảo thuật. Đó là ngày thành phố được giải phóng, cờ bay trên những tán hoa phượng đỏ tháng Năm. Công đoàn thủy thủ nuôi nó ăn học. Và nó trở thành nhà khảo cổ. Nó không trở lại với nghề ảo thuật bao giờ vì nó hiểu, anh biết không, nếu một nhà khảo cổ mà biết trò ảo thuật thì cũng có lúc nguy hiểm đấy. Sự thực là như vậy. Ai cũng nhớ rằng hồi đó gánh Chiêu Ly chỉ có một đứa bé làm trò ảo thuật với cỗ bài. Người đó là thằng Ái này chứ không phải anh. Tôi đã bỏ nghề ảo thuật đi làm khảo cổ, còn anh, chắc là khi trở thành chuyên gia đào bới các di chỉ anh mới đi học ảo thuật. Tôi đã tỉnh ra và tôi sẽ hành động, tôi đâu có phải là chàng Hăm Lét do dự trong khổ đau kia? Tôi sẽ chuộc lại những giọt nước mắt của Dim, sẽ trả lại cái vòng đá cho bảo tàng để nó làm chứng nhân cho niềm tin vào mặt trời, vào tương lai của người Việt cổ... và cho tình yêu nữa... Tôi sẽ hành động. Để cái vòng đã mất ấy được bày ở Hà Nội chứ không phải ở Paris hay Nữu Ước.
– Cậu nghĩ gì thế?
– Tôi phục tài anh quá. Làm sao anh lại có thể biến con cơ thành con chuồn. Mà hồi nẫy, anh hất con hai Pích từ đùi lên cổ bao giờ thế?
– Tớ đã thề rồi mà. Con chuồn là do ảo thuật. Nhưng con hai Pích thì không. Tớ không chơi bài gian với cậu đâu.
– Cũng có đôi lúc đấy – Ái nói lơ đễnh.
Đôi mắt ấy lại nhìn xoáy vào tôi, cái nhìn man dại, chấp nhận một cuộc chiến đấu cuối cùng. Nhưng anh sẽ không nhìn tôi như vậy được lâu đâu, tôi đã nhìn thấy một chút hoảng sợ trong mắt anh rồi đấy.
– Không! Không! – Tùy đứng dậy – Không bao giờ cả.
Vô ích, anh. Vì anh không biết Rêmi đấy thôi. Rêmi đã nhìn thấy rồi, nó đã thấy con bài bay từ đùi lên tay anh. Nó không nhìn thấy sao được vì nó là học trò cụ Chiêu Ly tốt bụng và đáng kính. Nó nhìn thấy và nó tỉnh ra. Trừ lúc nó say, nó bị phục rượu...
– Không phải thế – Ái nói – Tôi buồn ngủ lắm rồi.
Anh cũng đứng dậy, nhặt cái mũ vừa rơi xuống che kín lỗ hổng trên tường. Phải, trừ lúc nó say.
Mưa gió vẫn gầm gào bên ngoài. Tùy cất cỗ bài vào túi, huýt sáo một điệu xếch. Ái nghiêng người nhường chỗ cho Tùy cạnh mình và bắt đầu nghĩ đến Dim. Từ lâu lắm rồi, nghĩ đến Dim là niềm sung sướng, một món quà của trần thế cho anh trước giấc ngủ. Anh sống thêm một cuộc đời nữa của Dim. Dim, cô gái không thích vàng.
***
Ái tỉnh dậy vào lúc nửa đêm. Bão chừng đã ngớt. Rồi chợt ngừng và chính lúc đó Ái tỉnh dậy. Anh không thấy Tùy nằm cạnh mình. Ái hé mắt. Tùy cầm đèn, đang lục lọi, nhấc lên, đặt xuống đống đồ đạc lỉnh kỉnh trên bàn thờ. Anh gí đèn vào cái bát hương làm khói ám một vệt dài trên men sứ. Tùy đặt bát hương xuống, thảng thốt quay lại.
– Anh không ngủ à? – Ái vẫn hỏi giọng lơ đễnh.
– Ngủ thế nào được trong cái đêm mưa gió thế này – Tùy đặt đèn xuống đất, ngồi cạnh Ái – Mình đâu vô tư như cậu được. Chừng này tuổi rồi, đêm nó giày vò mình dữ lắm.
– Hãy quên thằng bạn đi Toyota ăn cơm tiệm đi. Cứ ngủ cho đẫy giấc để lấy sức mai moi xác ướp.
– Quên là đầu hàng – Tùy nói – Tôi không quen đầu hàng.
– Nếu vậy thì anh chiến đấu đi.
– Cậu không phải lo. Đời là vậy. Một thằng dốt nhất lớp tôi bây giờ tiêu tiền như rác, nó còn lên giọng thương hại tôi, tôi mà chịu nó à?
– Thì anh cứ tiêu tiền như rác đi.
– A, cậu đừng có thách. Có thể đấy. Rồi cũng có lúc tôi sẽ tiêu tiền như rác cho cậu xem.
– Còn tôi thì... tôi kém tài ảo thuật mà.
– Ảo thuật thì được tích sự gì? Chỉ kiếm được mấy đồng xèng của trẻ con thôi.
– Nhiều lúc không phải thế đâu. Cũng có lúc kiếm khá – Ái nói.
Tùy nhăn nhó:
– Tôi đã tưởng như vậy nên đã học ảo thuật. Nhưng tôi đã nhầm. Tớ đã nhầm. Tớ đã thua cả canh bạc chứ không phải từng ván bài. Đã nấu xà phòng, cho rượu trộn với dầu lạc, đun lên cùng một hạt platine xúc tác, tớ tưởng đã có glyxêrin bán hai trăm năm mươi đồng một kí lô. Hai trăm năm mươi đồng mà chỉ cần nửa lít dầu lạc và một lít rượu. Nhưng rồi tớ cũng phá sản nốt với trò luyện đan ấy.
Ái nhớ lại một chuyện gì đó và nói:
– Thì anh đi tìm vàng. Như ở Bá Thước ấy mà.
– Rồi, cũng đã thử. Nhưng rừng Bá Thước đâu phải là bãi cát Caliphoócnia.
Cảm ơn, tôi nhớ ra rồi. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao anh lại quá hăng hái đòi lập một tổ khai quật ở Bá Thước, nơi có những dữ kiện khảo cổ mập mờ nhất. Hồi đó người ta đồn đại rằng những bờ suối Bá Thước có vàng.
Tùy nhìn Ái:
– Cậu nghĩ gì thế?
– Có gì đâu. Tôi đang nghĩ là tại sao anh không đi buôn đồ cổ? Anh là chuyên gia đồ cổ cơ mà!
– Không, chuyện này thì tớ chưa hề nghĩ tới, sẽ không bao giờ nghĩ tới. Đồ cổ, hừm, tớ mà lại đi buôn đồ cổ à? Ái này, khi nào xong đề tài cậu dám trở thành chuyên gia đầu ngành về sắc phục thời Hùng Vương mất. Tớ hy vọng thế đấy.
– Tôi đâu dám. Tôi chỉ hy vọng đuổi kịp anh thôi.
– Tôi là cái gì? Một miếng giẻ rách không hơn. Ái nhếch mép:
– Anh còn có thể làm nhiều việc, nhiều hơn tôi là cái chắc. Lĩnh vực nào anh cũng giỏi hơn tôi, trừ... – trừ trò ảo thuật. Ái suýt buột miệng và ngừng lại – Khát vọng của tôi cũng bé thôi. Tôi mê ánh sáng của thời đại Hùng Vương, muốn góp phần khẳng định thêm buổi bình minh của người Việt. Giá mà tôi có thể hoàn thành sớm đề tài về y phục và trang sức thời đó. Nhưng tôi đã để lỡ dịp rồi. Tôi nhảy lên bục toa tàu đúng lúc tàu vừa chạy và có người đã hất tôi xuống. Nhưng tôi sẽ đi vào chuyến sau, tôi hứa với anh đấy.
Tôi lại gặp cái nhìn chấp nhận một cuộc đọ sức.
– Không, cậu sẽ hốt tiền. Cậu sẽ bán luận án của cậu cho bọn họa sĩ thiết kế mỹ thuật và hóa trang sân khấu, bọn làm tranh khắc và cả nhà kiến trúc cũng cần đến sự góp ý của cậu. Bây giờ họ tưởng tượng quá nhiều về thời đại vua Hùng, nhưng với cậu thì mọi việc sẽ đâu vào đấy.
– Tôi có mục đích của tôi. Nếu người thời nay biết và tin rằng cách đây ba bốn ngàn năm người Việt cổ đã làm đỏm với những cái vòng đá chạm thô thì người ta sẽ sống tốt hơn. Họ sẽ tin ở tương lai hơn.
– Một mục đích cao đẹp nhưng xa xôi quá. Thôi, không nói chuyện muôn thuở ấy nữa. Đánh bài nữa nhé?
– Tôi muốn ngủ một chút. Ngày mai là căng thẳng lắm đấy, nhưng trời sẽ tạnh và đẹp nữa. Không biết huyện có cử người xuống kịp không.
– Xuống hay không cũng chẳng hề gì. Chắc là họ sẽ xuống. Mình chỉ cần ủy ban xã chứng kiến là đủ rồi.
Ái thiu thiu. Dim vẫn cho rằng tôi có tính mục đích cao. Có lẽ đúng. “Anh bày cái vòng tay này ở bảo tàng đi. Hôm nào đó sẽ có một cô gái từ đất Mũi ra Hà Nội, cô ta sẽ đứng lại bên cái vòng, đứng lại lâu lâu bên cái vòng. Nàng đi xa và tôi vẫn nghe cái vòng ở tay nàng chạm mãi vào chiếc vò... Chỉ một câu thơ Tago cũng đủ làm ta yêu Ấn Độ, phải không anh? Đằng này là một chiếc vòng...”. Dim nói, đêm trước khi cái vòng bị mất sau buổi nhậu.
***
Đoàn người đi đến ngôi mộ cổ. Sau bão, trời trong xanh nhưng đường sá có nhiều vũng nước và bùn. Ông chủ tịch xã, một cán bộ phòng văn hóa huyện, và mấy dân quân cầm búa tạ, cuốc chim và thuổng đào đất cùng đi với Tùy và Ái. Gió thổi nghe rất hiền bên tai. Hình như chẳng ai nhớ đến cơn bão nhỏ hôm qua nữa.
Ái nhìn lại lần nữa những viên gạch chưa hề thấy ở đâu. Cách đây ba tuần, trong khi đào móng chôn một cái cột điện cao thế, người ta đã phát hiện ra ngôi mộ cổ này. Viện cử Ái và Tùy về ngay. Họ đã nghiên cứu, so sánh và ngẫm nghĩ về nó. Cả hai đều cho rằng ngôi mộ này có thể cùng thời với dãy mộ Yên Khê ở dải đất duy nhất đã tìm được những công xưởng chế tác đồ trang sức bằng đá thuộc văn hóa Phùng Nguyên. Rồi nó cũng sẽ được người ta biết đến như mộ Việt Khê trước đây. Họ hy vọng những đồ tùy táng sẽ có giá trị nhiều vì chỉ cần một vài nét vẽ nữa thôi là có thể hoàn chỉnh bức tranh đã phác thảo về một thời đại. Không ai trông chờ vào sự tình cờ, nhưng ai cũng biết, ít nhất một vài lần trong đời mình, giá trị của sự tình cờ. Ái run rẩy đến nghẹt thở khi nghĩ tới lúc lớp gạch cổ kia được bóc ra và không biết anh và Tùy sẽ được nhìn thấy gì từng tồn tại trước đây ba bốn mươi thế kỷ.
Một người đàn bà, nàng là công chúa hay thiếu nữ màn lan trướng huệ, nàng là ai? Ái chưa kịp nhìn kỹ bộ mặt và thân thể thiếu nữ khô đét trong lớp sa bọc xỉn như lá mục thì nàng đã thành tro bụi. Từng mảng quần áo, xương hóc rời ra. Ái dán mắt vào những khúc xương ống bây giờ cũng rời ra nốt, còn cơ thể người thiếu nữ gặp không khí liền nát vụn trong nháy mắt sau một keo vật mệt mỏi hàng ngàn năm với thời gian và lịch sử. Một cái gì tròn tròn, đen đen lồng ngoài khúc xương tay. Cái gì vậy? Đám người tò mò bỗng xô lại trước mặt Ái như một làn sóng, anh không lường tới điều đó vì anh không nhìn, không nghĩ điều gì khác ngoài khúc xương tay có cái vòng. Anh nhón chân, giận dữ lách qua đám người, nhưng một người béo mập nào đó đã vô tình đẩy anh ra ngoài. Anh chỉ còn nghe Tùy hét to:
– Lùi ra, lùi cả ra!
Ái nhào trở lại giữa đám người chen chúc. Anh hích khuỷu tay vào mạng mỡ tay to mập làm hắn kêu á một tiếng lớn. Nhờ thế anh có chỗ đặt chân. Anh vừa kịp nhìn thấy Tùy và ông chủ tịch xã đang đưa nàng vào túi nhựa. Nàng thua cuộc rồi, cô gái đẹp có vòng tay hình mặt trời, cái vòng đang chạm mãi vào vách thời gian và tâm hồn bao thế hệ đã sống và đang sống. Bỗng Ái thấy mắt Tùy sáng lên, anh lại gặp ngọn lửa của cái dục vọng bí ẩn nọ. Cánh tay Tùy run trong một động tác có lẽ mơ hồ với mọi người nhưng lại quá rõ rệt trước mắt Ái. Lúc đó Ái vừa kịp ngồi xuống bên nàng thiếu nữ đang tan thành tro bụi. Anh bủn rủn tay chân. Sau cái cử chỉ mơ hồ của Tùy, cái vòng đen đen không còn vòng qua khúc xương nữa. Ái lấy hết sức mạnh của tình yêu và lòng căm thù, anh nhìn thẳng vào mắt Tùy và anh cảm thấy mình đã đóng đinh kịp thời một tội ác. Tùy như một con thú trúng đạn, buông cái bao đựng những vật tùy táng tầm thường và di hài người con gái, đứng dậy một cách khó nhọc. Cả thân hình to lớn của anh lảo đảo. Anh cán bộ phòng văn hóa cần mẫn và thật thà đang cẩn thận ghi chép lại các hiện vật để lập biên bản hiện trường. Cái biên bản mà Ái chắc chắn không có ghi một chữ nào về chiếc vòng đen đen lồng qua khúc xương tay vừa biến mất.
– Đồng chí sao vậy? Cảm rồi, đúng là cảm rồi! – Anh cán bộ phòng văn hóa ngơ ngác hỏi Tùy.
– Anh ấy ốm rồi – Ái đỡ lời – Mắc bão hôm qua ấy mà, cơn bão tai nghiệt... Để tôi đưa anh ấy vào miếu…
Ái bước lên một bước, sát lại bên Tùy, hăm hở như người thợ săn bước tới con thú vừa bị hạ. Mặt Tùy tái nhợt, mồ hôi trán đổ ra làm tắt ngọn lửa đục ngầu vẫn cháy một cách bí ẩn trong mắt anh.
– Vào miếu cái đã, đi…
Ái nắm tay Tùy, cảm thấy trong tay mình một bàn tay lạnh ngắt có những ngón tay dài trơn nhẫy như bầy rắn con, một bàn tay không sinh khí – bầy rắn đã chết. Và cái thể xác to lớn với đầu óc uyên bác đang ngoan ngoãn bước theo anh về phía miếu. Tự nhiên Ái thấy bớt giận, bớt căm thù, nỗi căm thù âm ỉ cháy trong anh từ hơn một năm nay cũng như dịu đi. Anh sung sướng cay đắng, giống như vừa đưa tay vào lửa cứu đứa con của mình ra. Đứa con sẽ được cứu thoát. Cả cánh tay và da thịt anh đang nhức nhối, hơn thế nữa, một cảm giác chua chát trước những dục vọng thấp hèn của con người. Anh nhầm rồi. Anh tưởng anh là nhà ảo thuật duy nhất ở đây. Anh nằm mê, anh là người học trò duy nhất của cụ Chiêu Ly nổi tiếng, người đã nhiều lần rút cái mùi xoa từ túi một khán giả và thay vào đó một con chuột nhắt mà họ không hay. Không phải như thế. Tôi là học trò cụ Chiêu Ly, đó là điều anh không hề biết. Đáng buồn cho anh là tôi đã kịp nhìn thấy anh làm trò ảo thuật mà anh không hề biết. Nhưng điều ấy cũng chẳng là gì vì những cái vòng chắc chắn sẽ được cứu thoát, đứa con sẽ được đưa ra khỏi lửa dù cánh tay vạm vỡ của người cha đã bị cháy đen. Tự nhiên Ái thấy thương con người thảm hại đang ở trong tay mình vì khuôn mặt Dim bỗng vừa hiện ra, yên tâm và dịu dàng qua những giọt nước mắt của anh khi anh dắt tay Tùy đang ngoan ngoãn cùng anh bước đến gần cái miếu.
Hải Phòng, 1983