NGƯỜI LÀM RA ĐỘNG ĐẤT
Thế là cuối cùng lão Hạ đã bứt ra khỏi nhà. Khi thằng con lão nói một câu hỗn xược và đứa con dâu quẳng cái chổi cùn vào góc nhà làm què chân con Lu thì giá có một cái giếng lão sẽ nhảy xuống ngay. Nhưng lão chỉ ra khỏi nhà. Vì trời đang mưa, lão chộp lấy cái áo vải bạt của nhân viên đường sắt khoác vào người. Đôi chân của người tuần đường ngày trước xô đẩy lão vào đường tàu. Như con ngựa chiến nghe tiếng gươm khua trước mặt, lão Hạ bước lên những thanh tà vẹt, thanh nào cũng in một vết lõm dấu giày vải do lão tạo nên mà cũng chỉ lão mới nhìn thấy, cảm thấy khi đặt chân vào đó. Giờ thì mưa đã thấm qua chiếc áo khoác cũ làm lão có nguôi đi chút ít. Lão đã có chút bình tâm để cảm thấy con Lu đang chạy theo mình phía sau. Lão quay đầu lại nhìn. Con chó già kéo lê một chân sau qua đám đá củ đậu. Lão Hạ dừng lại đợi nó. Con chó bước đến, lông nhỏ nước ròng ròng, đôi mắt màu tro nhìn lão không chớp như muốn nói: “Tôi biết mà, rồi thế nào cũng có ngày này...”. Lão Hạ đặt tay lên cái đầu ướt của con chó. Như chỉ chờ có thế, nó liền ngồi lên hai chân sau, thè lưỡi đỏ và nóng như ngọn lửa liếm bàn tay lão. Lão đi qua miếng đất trồng rau cải lổn nhổn đá đường tàu, con chó lê cái chân què theo sau mỗi lúc nhanh hơn. Rồi lão bước vào lối đường mòn giữa đồi sim, dưới đồi sim là bãi cỏ tranh có những vũng trâu đầm. Phía xa là thị trấn mỗi ngày một cao lên nhờ mái nhà ngói của đám buôn sắt vụn mới nổi, sau thị trấn là con đường số Một chạy song song với đường sắt nhưng từ đường sắt thì không bao giờ nhìn thấy. Lão sải bước trên những thanh tà vẹt. Những súc gỗ trám tẩm hắc ín trơ ra trước mưa nắng và hơi ẩm bốc lên trong màn mưa từ lớp đất đá đường tàu. Bây giờ trời cũng đang mưa, mưa nhỏ lâm thâm mấy ngày rồi, những hạt mưa lúc nhìn thấy lúc không nhìn thấy, rơi xuống như rây bột từ những đám mây rầu rĩ. Trời mùa xuân nó thế, mưa dầm xuân nó thế.
Cách đây ba mươi năm, những cô gái cắt cỏ ven đồi đã là những người đầu tiên nhìn thấy lão – tất nhiên hồi đó lão còn trẻ và hoạt – bước lên những thanh tà vẹt loang lổ vết dầu ấy. Hồi đó, tay xách đèn, tay chống gậy, mỗi ngày một lượt đi một lượt về, đúng giờ giấc như cái đồng hồ vậy. Đó là những năm lão còn làm nghề tuần đường, những đêm tối trời mưa gió, núi đồi chung quanh bốn bề vắng lặng, không một bóng người, không một tiếng chim, cả những con chuột chù cũng đành nhịn đói ngủ trong hang, không chíu chít dưới chân lão trong hốc tối ẩm ướt dưới các thanh tà vẹt. Lão thui thủi đi hàng cây số cho hết quãng đường nhà ga giao cho rồi ngồi xuống đợi ông già Thu, người tuần đường phía bên kia. Vì trẻ hơn nên bao giờ lão cũng đến trước và phải đợi. Lão ngồi xuống mép đường tàu, lấy cái điếu làm bằng ống pháo sáng nhặt được hồi đánh nhau ở mặt trận Trung Lào ra hút. Lão hút và ngồi đợi ông già Thu. Chỗ lão ngồi đợi là một hòn đá mẹ chôn một nửa xuống đất, chỗ đó bây giờ lõm xuống một đám tròn tròn. Sau khi bàn giao đường với ông già Thu, lão lại quay về cái ga xép của lão, thắp lên trong phòng ngọn lửa đèn Hoa Kỳ xanh lét như đom đóm, xuống bếp ăn tập thể ăn vội bữa cơm chị nuôi để dành cho rồi ra hiên nhà ga, ngồi chuyện gẫu, đợi chuyến tàu đêm sẽ tới, yên chí chạy qua quãng đường lão vừa đi tuần về.
Bây giờ thì lão đang bước đi, không đèn, không gậy, không còn cái dáng vẻ nghiêm túc của một nhân viên đường sắt. Con chó vẫn lê cái chân què theo sau, nó còn biết nó đi theo chủ, còn lão đi về đâu, lão không biết nữa. Lão chỉ cắm cúi giữa hai thanh ray như chạy dài đến vô tận, giữa cảnh đồi núi heo hút, quãng đường lão sẽ đi chắc là không có giới hạn với hai mươi mốt ngàn năm trăm bảy mươi hai thanh tà vẹt mà đã hàng chục năm nay nhà nước phó thác cho lão.
Lão Hạ ngồi xuống đường ray vì chỗ đầu gối trái bỗng đau nhức. Lão biết tính nết cái đầu gối ấy, hễ cứ đi một đoạn dài dài là nó phản thùng, nhưng ngồi xuống một chốc, xoa xoa vài cái là yên ngay. Lại còn cái bụng lục ục vì lão đang đói. Lão chưa kịp ăn cơm. Bữa tối thường là bữa ăn chính của lão vì chỉ trong bữa tối lão mới được ngồi ăn với con trai, con dâu. Bữa trưa ăn một mình như ăn vụng, nuốt không nổi. Lão bỗng nhớ ngày còn vợ, tuy có hai người trong nhà nhưng mỗi người là một hòn đảo. Trong khi bà vợ lấy việc đánh bóng thật kỹ những cái nồi nhôm và chì chiết lão để làm vui thì, sau bữa cơm, lão lui về cái góc của lão. Sau một ngày cô đơn giữa hai thanh ray lạnh giá, tối lão lui về tấm phản gụ kê sát tường nhà, pha nước chè vào cái ấm chuyên nhỏ như quả hồng xiêm, hai tay lão ôm chặt lấy cái ấm cho trà khỏi nguội. Có lần nước trong phích đã lạnh tanh, lão hết hy vọng uống trà tối, vậy mà ôm cái ấm trong hai bàn tay một lúc, lão đã làm nước sôi lên, và hơi chè tỏa ra thơm ngát. Lần đó, lão có lấy làm lạ, nhưng rồi lão bỗng hiểu ra là mình còn có sức nóng nào đó trong người, ít nhất cũng còn đủ làm sôi một ấm trà và không nên tuyệt vọng. Rồi lão hít một hơi thuốc lào, ngả người trên tấm phản mà nghĩ miên man. Chuyện của lão thì chẳng cao xa phức tạp gì, thường là lão nhớ lại cuộc đời mấy mươi năm của mình, từ thời còn vác hái đi gặt thuê, nhưng đó là đoạn đời thèm nhạt, không ra sao cả. Lão nhớ hồi đó lão chỉ thèm có hai thứ, đó là món cá quả nấu ám mà nhà lão chánh hội làng Bùng vẫn nấu để thết khách đánh tổ tôm vào lúc nửa đêm, và một thứ nữa, cô gái đầu lòng của lão chánh. Lão không nhớ, không thương cô ta, nhưng lão thèm cô ta vào lúc nửa đêm chợt tỉnh vì tiếng cười từ cái chiếu tổ tôm ngoài nhà, trong người tràn đầy. Hé tấm chiếu ra mà nhìn trộm, mà thèm muốn cô ta lúc cô ta bưng một nồi cá ám lên nhà trên cho khách, người cô ta toát lên cái mùi thơm của thì là và lá dấp cá. Nhưng rồi suốt một đời trai trẻ, cày bừa, gặt hái như con trâu lăn, cả hai thứ ấy lão chẳng được nếm bao giờ. Phủi tay xong đoạn đời cũ chẳng ra cái quái gì, lão cùng bạn bè được một lần lên gác nhà tri huyện ngày ta cướp chính quyền, lúc huyện Quỳnh đi mót ra ngoài, nó phải nói khó: “Dạ bẩm đồng chí cho em ra sau ạ!”. Có lần giữa đêm khuya, ông huyện bị giam lỏng tại gia dúi vào tay lão một xấp tiền, xin lão được lẻn xuống nhà dưới với cô vợ bé một chốc, lão trả tiền lại ông ta và nói: “Người của cách mạng không biết ăn đút, cho ông xuống để ông đẻ ra huyện con hả?”. Nghĩ cũng khoái thật, những ngày đó. Rồi lão thành anh bộ đội, anh tuần đường. Cái hôm chuyển ngành về tổng cục, ông cán bộ tổ chức hỏi: “Đồng chí làm gì ở quân đội?”. Lão nói tôi là bộ binh. Anh ta mừng lắm: “Vậy thì hợp với nghề tuần đường đây!”. Và thế là lão thành người tuần đường. Rồi có một lần, lần duy nhất, lão đã gặp và thấy nhớ một người đàn bà chăn dê. Lão nhớ da diết, yêu thương da diết, đứng ngồi không yên nhưng có điều lạ là chẳng bao giờ lão nghĩ tới chuyện thèm thuồng được ngủ với chị như lão đã từng thèm cô con gái nhà ông chánh hội kia. Lão biết rằng trước sau rồi thế nào người ta cũng chạm phải vòng tình ái và cái tình ái mà lão chạm phải ấy là từ ngôi nhà trên một mái đồi cách đường tàu một đoạn không xa. Ngôi nhà ấy là của người đàn bà làm lão mê mẩn mà không dám thèm muốn, bao giờ cũng có ánh đèn và tiếng dê kêu vào ban đêm, còn ban ngày thì cả mái tranh cũng được dát bằng vàng. Nhưng rồi lão đã thoát khỏi vòng tình ái ấy mà chẳng được chút gì ngoài cái đau khổ và nhớ nhung đến bây giờ vẫn chưa nguôi. Rồi lão lấy vợ, đẻ con, một gái, một trai, tất cả những chuyện đó cứ xảy ra cái này tiếp cái kia như xếp bát vào chạn ngoài ý muốn của lão. Kể ra thì mấy tháng đầu cô vợ có làm lão thích thú, nhưng ngay sau đó, không hiểu sao lão thấy mình cạn cả sức lực, và những lần chung đụng với cô ta, lão thấy mệt và chán không chịu nổi. Sau khi tất cả những thứ đó trở thành nỗi nhọc nhằn như số phận an bài, cuộc sống gia đình của lão thu về chỗ cái phản có ấm trà được hâm nóng giữa hai bàn tay thường làm lão nghĩ một cách đơn giản rằng mình còn có một số sức nóng để dành như củi gác trên giàn mà chưa dùng tới. Ngoài công việc tuần đường và những nỗi vui buồn với cơ quan nhà ga, cuộc sống tâm tư của lão thu dần về tấm phản gụ mà lão thường nằm dán xuống sau lúc ăn cơm để suy nghĩ về cuộc đời. Những ý nghĩ day dứt có làm người lão nóng lên chút ít cho đến một ngày nọ, khi giặt cái áo may ô cũ để lau tấm phản, lão nhận ra thân hình tầm thước của mình in lõm vào mặt gỗ gụ cùng những vết rễ cây nhỏ li ti. Qua một chút thảng thốt, lão hiểu ra rằng, nước chảy đá mòn và cái hình người lõm xuống ấy, những vết rễ cây đã mọc ra từ chính con người lão. Lão hoảng hốt trải một tấm chiếu lên, nhưng khi nằm trên chiếu thì cái đầu của lão cứ đặc như hạt bí. Lão chẳng còn được cái thú nghĩ miên man về những thứ trở thành thức ăn nuôi dưỡng tinh thần của lão. Đó là ngôi nhà có mái dát bằng vàng trên đồi cỏ, người đàn bà quá xa vời mà lão đã từng mơ ước được hầu hạ, chăm sóc và chung sống. Cũng có lúc lão nghĩ tới ngày nào đó mình sẽ chết thì lão sợ hãi đến nghẹt thở. Lão ngồi bật dậy trong khi cảm thấy dưới lưng mình, những cái rễ nhỏ li ti đứt rời ra như khi người ta nhổ cây khỏi mặt đất. Lão nhớ lại những vết chân của mình in lên hai mươi mốt ngàn năm trăm bảy mươi hai cái tà vẹt, đám lõm của đôi mông lão trên mặt hòn đá chỗ lão vẫn ngồi để đợi ông già Thu. Cũng may mà tất cả những vết lõm in sâu vào tấm phản, vào dãy tà vẹt, vào hòn đá tảng kia chưa ai nhìn thấy, ngoài lão ra. Lúc đó lão có ý nghĩ chân thành làm sao xóa được tất cả những cái vết ấy đi và một lần nữa lão nghĩ rằng mình còn có thể làm được rất nhiều việc trước khi chết.
Nhưng trước mặt lão bây giờ chỉ là con đường tàu mất hút sau những đồi cỏ tranh. Trước đây, qua cầu sắt, đi hai cây số nữa là lão phải quay lại. Còn bây giờ lão có thể đi mãi, đi đến chân trời mà không bị ràng buộc gì. Con đường cũng đang trốn chạy trong mưa, cái đêm mưa miền Trung đến sớm thường làm ngày ngắn lại, làm người ta phát hoảng lên vì chưa làm được mấy việc trong ngày. Con Lu có vẻ thú vị vì lão đã cho nó đi theo, đã ngồi xuống nghỉ đúng lúc cái chân đau của nó tấy lên dữ dội, nó bỗng nhớ lại nét mặt giận dữ của người con dâu lão với đôi má xị ra. Nó đâm nuối tiếc những ngày ông chủ chưa có bà vợ, chưa có cậu con trai, chưa có cô con dâu mà chỉ có mình nó. Tuy đã sống gần ba mươi năm, thọ gấp ba lần một con chó bình thường nhưng nó vẫn muốn sống lại một thời gian như thế nữa với lão Hạ, chỉ với lão mà thôi. Nhớ ngày lão vội vàng cưới vợ như phải chạy tang, khi cô dâu bước vào nhà, nó đã sủa lên với tiếng sủa báo trước điềm bất hạnh của nhà tiên tri. Rồi khi thằng con trai khóc oe oe trong tay bà mụ, nó cũng đã sủa như thế. Rồi khi cô con dâu kia đến, nó cũng đã gào lên như thế. Chỉ một lần, khi đứa con gái đầu lòng ra đời chưa đủ tháng, bé như con chuột đỏ hỏn nằm trên manh chiếu giữa cái nôi chao lắc là một nỗi thương xót tràn ngập lòng nó và nó im lặng nhìn mẩu người bé nhỏ kia với đôi mắt dịu dàng. Và lần nữa trước đó, khi cùng lão Hạ đi dọc con đường tàu, lần đầu tiên chủ nó và cả bản thân nó nữa nhìn thấy ngôi nhà tranh có ánh đèn giữa mái đồi thơm mùi chồn bạc má lẫn mùi da thịt người đàn bà mà nó đã cảm thấy từ rất xa khi hai thầy trò còn ở bên kia cầu, cách ngôi nhà một giờ đi bộ. Lúc ấy nó biết rõ đây là người đàn bà của chủ mình, đây sẽ là bà chủ nhân hậu của mình và nó đã khóc vì hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc không đến với lão Hạ và nó, còn xa xôi hơn cả mùi trứng chim họa mi nó vẫn mơ màng được nếm trong những đêm trăng. Khi lão Hạ đón bà chủ phốp pháp hay cáu bẳn kia về nhà, cái bà chủ mà lão tìm thấy ở đâu đó một cách vội vã do cái tính nhu nhược của lão, nó giận lão và đã sủa lên để báo điềm bất hạnh. Và kia, ánh đèn rực rỡ trên đồi thoang thoảng mùi cỏ tranh và mùi chồn bạc má. Con Lu khậc khậc lên mấy tiếng như hóc phải xương. Nó khóc.
***
Lão Hạ sửng sốt, dừng lại. Ngôi nhà có mái dát bằng vàng bây giờ đang sáng trên đồi kia, cái vầng sáng mà lão vẫn nuốt nước mắt mỗi lần đi qua trong những buổi tuần đường trước ngày về hưu, còn sau khi nghỉ việc thì lão không một lần nhìn thấy nữa, bây giờ đang hiện ra trước mắt lão. Điện đã đi qua đây vì phía sau mái đồi, hợp tác xã vừa khánh thành một nhà máy thủy điện nhỏ và xinh như quả trứng chim bồ câu; dòng điện chỉ đủ cho khu nhà trụ sở ủy ban xã chạy máy xay xát và làm sáng một vài nhà trại trên mấy quả đồi. Con Lu sủa lên mấy tiếng vui mừng, lần này thì nó dứt khoát hơn, nó ngồi hẳn lên cái chân đau và nhìn ông chủ với đôi mắt sáng rực trong đêm tối. Lão Hạ biết là nó vừa khóc. Lão đặt bàn tay rét run lên đầu nó, nói như nựng: “Ta đi thôi, con!”. Nhưng con Lu không chịu đứng dậy vì nó biết ông chủ cũng đang khóc và những lời giục giã kia chỉ là dối lòng. Bất giác, như hiểu được những ý nghĩ đúng đắn của con chó, lão Hạ nhìn lên mái đồi và thở dài. “Được rồi, ta sẽ ngồi nghỉ một lát”, lão bối rối, nhân nhượng. Rồi lão vòng hai tay ôm lấy con chó già. Ba mươi năm nay, từ ngày theo chủ lẽo đẽo đi dọc đường tàu, chưa lần nào nó được ông lão âu yếm như thế. Hai bàn tay lão đặt lên mũi con chó nóng như lửa. “Tao với mày bây giờ là tứ cố vô thân – lão Hạ nói với con chó – Mày hiểu cho tao, tao đâu có định đi qua nơi này. Lu ạ, cái chuyện cũ ấy nó cày xới ruột gan tao...”. Nhưng con Lu vẫn rét, lông nó ép sát vào tấm thân chỉ còn da với xương, cả lão Hạ nữa, cái rét, cái đói làm răng lão cắn vào nhau lập cập. Phải tìm chỗ trú thôi. Lão chợt nhớ phía bên kia đường tàu vẫn có một cái lều cho bầy dê trú mưa. Lão vẫy con Lu rời khỏi đường tàu khi một trận mưa rào ập đến. Màn nước che khuất ngôi nhà trên đồi, mưa xối trôi luôn mùi cỏ tranh lẫn mùi khét chồn bạc má, mùi thơm của những con chồn hương đã đi đến đâu là từ hai hòn dái bé tí phả vào không gian mùi vị của mùa xuân và thơ ca đến đó. Cái buổi chiều mưa nay đã trở thành đồng lõa với sự mềm yếu của lòng người. Một tiếng dê be... e kéo dài và não ruột vọng đến qua màn mưa, tiếng kêu bất lực và tuyệt vọng của con dê già nào đó. Lần theo tiếng dê kêu, lão Hạ và con Lu tìm đến cái lều trú mưa. Lão nhìn thấy con dê già có bộ lông đen nhức đang bị cột vào góc lều như trời đày. Nó giẫm hai chân và nhảy cẫng lên khi nhận ra ông bạn tuần đường ngày trước. “Mày hãy còn sống ư?” – lão Hạ ngạc nhiên về tuổi thọ của nó, thốt lên thành lời. Ba mươi năm nay, hễ khi lão đi qua đây thì nó dẫn đàn dê cái thê thiếp của nó cắt ngang đường tàu để sang đồi cỏ. Nó chứng kiến tất cả, lão nghĩ rằng nó biết tất cả cũng như biết rằng chính nó đã duy trì đàn dê, cuộc sống và sự tồn tại của những người trong ngôi nhà dát vàng ấy. “Vậy mà bây giờ mày cũng sống một mình – lão Hạ vỗ vỗ đầu con dê cụ với vẻ thông cảm pha chút xót xa – Những con dê cái mày chăn dắt đi đâu hết rồi? Bà chủ của mày đi đâu rồi?...”. Lão Hạ an ủi con dê rồi ngồi xuống cạnh nó trong khi con chó Lu nằm áp người vào hông con dê già to lớn nhưng gầy nhẳng để sưởi bộ lông ướt át.
Cuộc gặp gỡ với con dê đã gây cho lão Hạ một cảm giác xót xa. Vào quãng thời gian khi những người cắt cỏ ven đường tàu chán mắt thôi không nhìn cái anh tuần đường lực lưỡng, cần mẫn và rất đúng giờ, làm cái nghề lạ lùng là xách đèn đi đi về về ấy, thì Hạ cũng bắt đầu nhìn ngó xung quanh. Dạo ấy trời cũng mưa. Hạ rét run trong cái áo vải bạt ướt, còn đôi ủng ngâm nước thì kêu như dưới chân có một con ếch con. Mưa miền này dai khủng khiếp. Ngày lại ngày, suốt trên một quãng đường tàu vắng vẻ, Hạ chỉ gặp mỗi con chồn bạc má, nó chạy ngang qua đường sắt rồi dừng lại nhìn cái đèn của Hạ, sau đó biến mất trong bụi lau cạnh đường. Hạ tưởng như con chồn đang hỏi mình: Cái anh chàng này sống để làm gì nhỉ? Ta chỉ chạy qua chứ đâu có phải đi dọc đường sắt quanh năm suốt tháng như hắn? Hạ mang theo một miếng bánh “nắp hầm” luộc bằng bột mì hồi đó rất sẵn và mỗi lần đi qua bụi lau, anh đặt vào một cái hốc cho con chồn. Khi làm việc đó, anh thường tưởng tượng rằng con chồn có một đàn con mà anh chồng thì đang ốm đâu đó trong bụi lau. Từ đó anh hay gặp lại nó hơn và nó đã thành người bạn chung thủy. Cho đến ngày một quả bom rơi trúng bụi lau và cách đấy hai trăm mét, Hạ nhặt được một cái đuôi chồn. Hôm ấy Hạ đi qua quả đồi và nhìn thấy ngôi nhà. Không phải ánh lửa đèn mà là thứ ánh sáng lạ lùng nào đó từ ngôi nhà tỏa xuống đường tàu. Hạ không tin mắt mình bởi anh tưởng ngôi nhà mới mọc lên trong đêm mưa ấy. Ngày hôm sau thì anh không còn phân vân nữa. Ngôi nhà đang ở trên đồi, vì ban ngày nên anh không nhìn thấy cái mái nhà dát vàng. Anh ngỡ là ánh nắng lấp lánh trên mái cỏ tranh lợp rất phẳng, nhưng mãi rồi anh vẫn không khẳng định được đó là ánh nắng hay là vàng. Đêm hôm sau, anh vẫn thấy hào quang và ngày sau đó, dưới mắt anh, cái mái nhà đã thật sự bằng vàng. Lúc đó nó không lấp lánh đến chói mắt mà chỉ hắt lên nền trời mưa gió vần vũ thứ ánh sáng ngọt ngào của mặt trăng trong những ngày chín tới. Như bị ngôi nhà thu hút, không lần nào đi qua mà Hạ không dừng lại dưới chân đồi một lúc. Rồi một hôm, cái hôm hạnh phúc lóe lên để tắt ngấm vĩnh viễn, Hạ nghe thấy tiếng dê kêu từ phía ngôi nhà, tiếng dê kêu mạnh mẽ dương lực và có vẻ dị thường dưới một mái nhà dị thường làm Hạ nghĩ tới những chuyện hoang đường hồi nhỏ. Gốc đa, giếng nước, con dê thần, con hồ tinh vốn trước đây là một người con gái thác oan.
Nhưng tất cả vẫn rất thật, quá thật trước mắt anh. Một người đàn bà cầm chiếc roi bện thừng như roi ngựa đang dồn con dê đực xuống chân đồi. Chị có đôi vai rộng, bộ ngực nở nang như sắp bay lên từ sau cái yếm nhuộm màu, tay cầm cái roi quất đen đét, miệng chửi ngoa ngoắt và tục tĩu. Chị khác với những cô gái cắt cỏ quanh đường tàu thường mảnh khảnh và xinh xắn, nhẹ nhõm như những con chim. Bộ mặt chị là hiện thân của vẻ đẹp rắn rỏi của đá hoa cương, mặt của những bức tượng tướng bà Hạ vẫn thấy trong ngôi miếu hồi nhỏ. Khi con dê và sau nó là một đàn dê cái ngập ngừng bước qua đường tàu, chị nhìn Hạ, chào anh và lúc đó Hạ thấy mình khó ở. Anh không khát, không thèm mà nghẹn ngào, trống rỗng trong lồng ngực. Qua vài câu chào hỏi, người đàn bà đỏ mặt vì nhận ra anh tuần đường đã đứng ở đây từ lâu, anh ta có thể nghe thấy những tiếng chửi tục tĩu của chị khi chị lăng mạ tính buông tuồng của con dê đối với bầy dê cái nhà. Cả cái cảm giác xấu hổ ấy nữa cũng như một chất nước đường thêm vào cốc rượu làm Hạ choáng váng thêm. Còn con Lu thì ve vẩy đuôi như đón một người quen cũ. Ngày hôm đó nếu không có nó thì Hạ đã bỏ qua một cây gỗ đổ xuống ngang đường tàu và anh đã đi quá sang địa phận ông già Thu năm cây số. Về nhà, Hạ đau đầu rồi đắng miệng, nằm liệt giường năm ngày không ăn, không uống, xông lá bưởi cũng không ra một giọt mồ hôi. Những chuyến tàu vẫn chạy qua ga trong những ngày đó, nhưng khi trở lại đi làm, anh tuần đường vừa sút bảy kí lô gặp lại một người đàn bà khác, chị vẫn lùa đàn dê xuống chân đồi vào đúng giờ ấy nhưng cái thân hình rắn rỏi, mập mạp hôm trước đã đổi thay, trước mắt Hạ là một người mảnh khảnh, hơi xanh xao nhưng sắc sảo và linh hoạt. Cái dáng vẻ mới mẻ này có một vỏ bọc vô hình nhưng bất khả xâm nhập, chính vì vậy mà bội phần say đắm. Hạ thường nghe người ta nói rằng tính ghen tuông của những người chồng có vợ đẹp thường tạo ra một lớp vỏ bọc bằng thủy tinh quanh vợ mình và nhờ lớp vỏ này, những người vợ có chồng hay ghen càng trở nên hấp dẫn. Hạ thấy mình khỏe hẳn lên khi gặp lại chị, mồ hôi bỗng đổ ra như tắm, thứ mồ hôi hiếm hoi trước đây xông đến một bó lá bưởi to mà chẳng thấy giọt nào. Về phần chị chăn dê cũng vậy. Chị vẫn ít nói, vẫn giữ vẻ thẹn thùng của người đàn bà nông thôn đã có chồng nhưng điều đó kết hợp với những cử chỉ táo tợn và sắc sảo hiếm có ở những người sinh ra trong những gia đình có quyền thế. Chị vẫn quát mắng con dê, vẫn huơ huơ cái roi kêu đen đét. Sau vài câu chào hỏi, chị than phiền với anh tuần đường đang run như sậy trước mắt mình rằng, không hiểu sao từ hôm gặp anh ta đến nay chị đâm trái nết, chiều hôm đó chị quên dẫn đàn dê vào chuồng, sau đó lại lạc mất đường về nhà mới tệ chứ. Rồi đổ bệnh, đau đầu, đắng miệng, nằm liệt giường năm ngày ròng rã không ăn, không uống, vặt trụi lá hai cây bưởi nấu nước xông mà không ra một giọt mồ hôi. Hạ không kịp ngạc nhiên về sự trùng lặp bệnh tật giữa hai người bởi tim anh như đứng lại khi biết được chị đã có chồng. Vậy là mọi chuyện đã rõ. Cái bệnh tương tư mà Hạ chỉ mới nghe nói tới trong ca dao đã tóm được hai người, cũng ở trong ca dao và những lời huyên truyền muôn thuở trong lũy tre thì đó là một bệnh nan y, những ai mắc phải bệnh này thường khó tránh khỏi gầy mòn rồi chết nếu như họ không được sánh đôi mãi mãi. Bởi vì họ đói nhau như người nghèo đói cơm đói khoai và nếu không được ăn thì sẽ chết. Hạ đau lòng nghĩ tới hoàn cảnh ngặt nghèo khi chim đã vào lồng, cá đã cắn câu và nụ tầm xuân đã nở hoa tím biếc. Cái xót xa của người đàn ông “bước xuống vườn cà” càng thêm phần xót xa vì Hạ đâu phải là anh chàng nông dân thuở nào, Hạ là một anh bộ đội chuyển ngành, một nhân viên đường sắt, có bao điều ràng buộc.
Người đàn bà có chồng ấy tên là Chắt. Người trong làng vẫn gọi là chị Chắt “Dê” để phân biệt chị với nhiều chị Chắt trong vùng. Vợ chồng chị là gia đình đầu tiên đến khai hoang ở xóm Trại. Mười bảy tuổi, đi làm về, mẹ chị bảo: “Hôm nay có người đến xem mặt đấy”, chị không nói gì, chỉ tủm tỉm cười. Vài hôm sau anh chồng đến, chị trông cũng hay hay, mà anh ta lại biết ăn trầu, đôi môi cắn chỉ trông đến ngộ. Rồi chị về nhà chồng. Lúc đó bà con mới vào hợp tác, chị Chắt đi cấy “tập đoàn”, gánh phân “tập đoàn”. Chị có duyên, mặn mà nên đám trai làng hay trêu chị. Anh Thục, sau này người ta gọi là Thục “Dê”, nổi máu ghen, không cho chị đi làm đồng nữa. Đi làm, anh khóa chị lại trong buồng. Nhưng lấy gì mà ăn. Anh bỏ ruộng, bỏ làng, bỏ cả cha mẹ, anh em, kiếm ít vốn rồi đưa vợ vào Trại vỡ đất làm nhà. Từ nay là không có chuyện đi làm “tập đoàn” nữa đâu nhé. Anh mua mấy con dê cho chị đi chăn và một cái cân tạ để cân dê bán cho lái nhưng sau anh thấy mấy tay lái dê lẳng lơ trông thật khả nghi, anh không nuôi dê thịt nữa mà mang dê con ra chợ bán. Thu nhập chính của vợ chồng anh ngoài mấy trăm gốc sắn và đám rau màu trên mái đồi, đều dựa vào đàn dê. Con dê đực của anh dần dần nổi tiếng nhờ nó sản xuất ra những con dê con thật đẹp, chóng lớn. Và anh Thục nuôi chí làm giàu kia bắt đầu bán cái dương lực của con dê cho các nhà nuôi dê trong vùng.
Mặc dù anh đã tha chị Chắt về nhà như con cọp tha con heo vào rừng, những ngày tháng ngỡ ngàng và sợ hãi rồi cũng qua đi. Giá như không có chuyện gì xảy ra thì cũng như những cô gái quê khác, chị đã có thể sống cùng anh những ngày tạm gọi là êm ấm, sinh con đẻ cái, làm lụng bếp núc, để một ngày nào đó bỗng nhận ra mình đã không hề yêu thương chồng và chỉ còn ngồi mà tiếc tuổi thanh xuân đã qua đi. Nhưng chị không có cái phần ấy. Anh mê mải làm giàu bằng mọi cách, anh thường nói với chị rằng, trước sau rồi xóm Trại cũng sẽ vào hợp tác, lúc đó anh chị có tài thánh cũng chẳng ngóc đầu lên được. Vậy thì bây giờ đây, khi đã có cái nhà, đàn dê và một quả đồi hoang hóa để vùng vẫy, họ không thể an phận thủ thường được. Anh vỡ đất trồng hành, trồng cà chua, đóng hẳn một cái xe trượt cho ba con dê cái không còn sinh đẻ kéo các thứ ra chợ thị trấn bán. Anh vào rừng chặt nứa, đặt từng bó lên hai vai gánh về rào quả đồi lại bằng một hàng rào mắt cáo chắc chắn để yên chí là không ai có thể nhòm ngó các thứ cây quả đang sinh sôi nẩy nở và người vợ đẹp của anh. Anh thường làm cả đêm và bắt chị thức với anh. Chị cầm những cây đuốc cà boong làm bằng bã mía và nhựa trám đốt lên, soi dọc những luống cà chua dài như lòng ham muốn của con người, cho anh bỏ phân, làm cỏ đến tận nửa đêm hay hơn nữa. Rồi anh vào buồng chị, cởi cái áo bao giờ cũng có một túi tiền nặng vứt lên nắp hòm chuông đựng thóc, anh áp tấm lưng cánh phản vào tường đất nện cho nó nguội và thấm hết mồ hôi, rồi anh lật đi, lật lại chị trên giường như vẫn thường đảo những lát sắn phơi trong nia ngoài sân giữa những ngày tháng Năm có gió Lào gầm thét. Chị thường tỉnh dậy lúc trời chưa bảnh mắt, xương cốt mỏi nhừ, chưa hết sợ hãi thì đã nghe tiếng anh la hét cái gì đó sau vườn nhà. Vì có đàn dê cần người chăn và đồi núi vắng vẻ, không sợ cảnh quạ cắp trứng gà giữa ban ngày nên anh không khóa chị lại trong buồng nữa. Tuy vậy chị thường khổ sở vì chuyện ghen tuông đâu đâu, đang ân ái cuồng nhiệt, anh đẩy chị ra xa hay đấm chị thùm thụp như người ta đập vải không thương tiếc. Thật ra thì chị oan uổng vì khi anh nghi chị “đú đởn với mấy thằng đốt than” thì chị đi hái sim một mình cùng với bầy dê đông đúc, bằng chứng là chị thường bỏ cơm tối vì đã ăn quá nhiều quả rừng và hai hàm răng cùng đôi môi của chị tím ngắt nhựa sim. Rồi đến đêm ấy, trăng sáng gần như ban ngày, trăng sáng đến nỗi con gà trống bay ra khỏi chuồng và tung thóc gọi mái, vì trăng sáng nên chị không phải cầm đuốc cà boong cho anh rải phân hay cuốc đất, chị được đi ngủ sớm và hễ được ngủ một mình, không bị anh quấy quả, ngầy ngà là chị thường mơ thấy cảnh đồng cỏ tháng Năm cháy táp trong gió Lào nhưng những bụi sim vẫn nở hoa. Đêm ấy, sau khi gánh được bảy mươi hai gánh phân, bón xong hai ngàn gốc sắn, trong khi nghỉ vai, anh cuốc thêm một đám đất hoang ước khoảng nửa sào. Rồi anh vào buồng chị, cởi cái áo có túi tiền quẳng lên hòm khóa chuông, còn quần thì vứt xuống nền nhà đất nện mát lạnh, anh lên giường lật chị lại như trở một lát sắn trên nia. Anh loay hoay một lúc, chị đã cố giúp anh nhưng đến gà gáy canh hai thì anh khóc. Anh khóc cho sự bất lực của người chồng, chủ một con dê nổi tiếng và một cô vợ trẻ nồng nàn, đằm thắm. Tiếng khóc rống của anh vọng qua một dãy đồi cỏ gianh đã bắt đầu đông đúc dân cư...
Chẳng bao lâu, có lẽ trong ngày hôm sau, mọi người trong xóm Trại đều biết chuyện ấy. Một bà già am hiểu chuyện cổ tích an ủi chị rằng ngày xưa có một ông già phải đào cả hũ vàng chôn dưới cây đào phân phát cho hàng xóm nghèo khổ, cây đào mới nở hoa ra quả. Một bà khác thâm thúy hơn thì bảo rằng, khi trong nhà có một con dê hốt ra tiền bạc như thế thì người đàn ông phải khóc, đó là lẽ công bằng. Trời Phật an bài. Được cái này thì phải mất cái kia. Những người khác có đọc sách và thích “đi sâu vào vấn đề” (trong đó có một ông giáo lẳng lơ) thì cho rằng, chính vì anh Thục quá ghen, tính ghen tuông là biểu hiện của lòng tham và sự yếu đuối, anh cả ghen đến mức chính anh cũng sợ hãi khi ân ái với vợ mình. “Nó ghen với cả thằng phó nhỏ của nó nên nó phải khóc là đúng”, ông giáo gật gù kết luận.
Bây giờ đến lượt chị khóc. Chị tìm những chỗ kín nhất trong nhà để ngồi khóc. Chị khóc lúc ngồi chăn dê bên bờ suối hay sau một đám lau cạnh đường tàu. Chị trở nên cáu gắt và bực bội, hay chửi tục và thường quất roi đen đét một cách sốt ruột khi phải đứng chờ con dê tràn trề sinh lực lần lượt ban phát ân sủng cho đàn dê cái trước chuồng mỗi sáng. Mấy cô gái làng, ít hơn chị vài tuổi nhưng có học, khuyên chị ly dị với chồng. Chị đang ậm ừ thì mấy con ranh ấy đã vung tin ra. Và thế là ngày nào cũng có một người bà con, lúc ông cậu, lúc bà thím, lúc một ông tộc trưởng bên nhà chồng đến khuyên can chị. Tất cả đều nói rằng, có ai lại đi bỏ một người chồng tốt như thế chỉ vì một chuyện vu vơ, nhảm nhí, nói lên mà phát ngượng. Trong khi đó thì chồng chị trước còn thưa thớt, chứ từ cái đêm bi thảm ấy, hôm nào anh cũng vào buồng chị. Nhưng rồi đêm nào anh cũng khóc rống lên từ khi rấm trấu trong bếp đến canh hai, còn chị thì khóc ở những nơi kín đáo, không chỉ vì mỗi chuyện đó thôi mà còn vì anh ngày càng ghen tuông dữ dội. Anh ghen cả với những người khách xa lạ đến nhà mà được chị chào hỏi niềm nở, tử tế. Cuộc sống gia đình thật nặng nề, nhưng việc làm ăn đang khấm khá an ủi, xoa dịu chị được phần nào và chị không muốn tính đến chuyện ly dị nữa, kể cả sau khi chị gặp được anh tuần đường.
Khi biết chị có chồng rồi, Hạ tìm cách lánh mặt nhưng anh không bỏ được nghề tuần đường. Anh cũng không thể mỗi ngày hai lần không được nhìn thấy chị, người đàn bà hôm thì béo, hôm thì gầy cũng như anh lúc béo lúc gầy tùy theo họ được gặp nhau sau thời gian lâu hay chóng. Và cái bệnh tương tư nguy hiểm ấy vẫn cứ tóm lấy hai người. Lúc Hạ bị sốt thì chị cũng sốt, Hạ bị ho thì chị cũng ho và những người thính tai ở cái xóm quãng giữa đoạn đường tàu quả quyết rằng họ nghe thấy hai người cùng ho một lúc. Nhưng dù bệnh tật thế nào, lúc gặp nhau là cùng khỏi bệnh. Từ đó họ đã biết cách tự chữa bệnh cho mình. Họ gặp nhau lâu hơn, chuyện trò với nhau nhiều hơn, những lúc đó Hạ bước ra khỏi đường tàu, đến ngồi bên chị sau một bụi muồng to như cái cót thóc, xung quanh họ là những con dê cái nhảy tung tăng, ăn lá cây hoặc gặm cỏ. Họ nhìn thấy lớp vỏ bọc mà những người chồng hay ghen tạo ra xung quanh vợ mình, anh giữ được khoảng cách nhưng không sao giữ được bình tĩnh. Anh nghẹn thở, run rẩy, đâm ra ngớ ngẩn trước mặt người đàn bà. Trong khi anh vẫn đặt vào cái hốc ven đường tàu một mẩu bánh cho con chồn thì chị thường giấu vào tảng đá cho anh một quả mít đầu mùa, một nắm ớt hay nhiều khi cả một con dê bao tử đã luộc. Nhưng chỉ có thế. Cho đến một hôm, khi Hạ hỏi chị vì sao có tiếng khóc vào lúc nửa đêm trong nhà chị thì mặt chị đỏ lên, chín nẫu trong nỗi đau khổ không bờ bến. Chị có đủ ngôn từ và tinh tế để kể cho anh nghe nỗi đau khổ ấy. Rồi chị khóc, than phiền rằng giá như chị có một đứa con rồi thì cũng được đi, chị sẽ chịu đựng như bao nhiêu người có chồng đi bộ đội trong làng chị. Đằng này...
Hạ không nghi ngờ gì về chuyện đó, anh cũng hiểu với mục đích gì chị đã kể cho anh nghe. Trong quãng đời nếm mọi mùi đau khổ của cuộc sống vợ chồng ông chẫu bà chuộc đưa lại, ngay cả lúc về già, Hạ phân vân không hiểu lúc đó mình hành động như vậy có đúng không, mình có để lỡ mất một cuộc đời hạnh phúc chắc chắn là không bao giờ ốm đau, không bao giờ cãi cọ, cắn xé, đay nghiến và làm nhục nhau. Cuộc đời đáng được hưởng và luật pháp cho phép nếu anh chỉ cần nói lên một lời khuyên chị ly dị. Nhưng lúc đó thì anh đã không dám nói như thế và anh cảm thấy mình trong trắng hoàn toàn, đúng đắn hoàn toàn khi từ chối chị và đó là lần đầu tiên anh không run sợ trước chị. Anh an ủi chị bằng những lời lẽ hết sức đơn giản như các bà trong làng vẫn an ủi chị rằng duyên số chị nó thế, rằng gái ngoan chỉ biết một chồng, rằng dù sao thì chị cũng đã có một gia đình, một con dê đang hái ra tiền ra bạc. Chị tái mặt đi, quất cái roi đen đét, nói xối xả như chan tương đổ mẻ vào anh rằng chị vẫn thờ chồng nhưng chị không thể sống như thế này được. Chị thương anh, (lần đầu tiên chị nói ra lời điều đó) chị muốn cho anh cả con người, cả cuộc đời chị, chứ không phải chỉ là những quả mít hay những con dê bao tử đã luộc. Chị muốn có với anh một đứa con, trai gái gì cũng được, và chị ỉa vào cái đống của cải đang chảy vào nhà chị như nước. Chị sẽ giết thịt con dê đưa ra chợ bán, mặc mẹ cái tài hái ra tiền của nó đang trở thành điều mỉa mai, trớ trêu đày đọa duyên kiếp và tuổi xuân của chị. Rồi chị khóc, trở lại yếu mềm và dễ bảo như giây phút vừa qua chỉ là một cơn mơ điên. Rồi chị thấy người tuần đường nhẫn nhục run sợ trước hiểm họa không lường, đứng như phỗng trước mắt mình, chị quất mạnh cái roi vào anh và chạy lên đồi.
Ngày hôm sau Hạ xin nghỉ phép năm. Một tuần sau anh cưới vợ. Từ đó mỗi lần đi qua ngôi nhà và đoạn đường tàu, nơi chị vẫn đón để được ngồi nói chuyện với anh, nay cỏ đã xanh trở lại vì đàn dê không được chăn dắt ở đó nữa. Hạ vẫn nghe như có tiếng roi quất đâu đây. Nhưng anh không gặp người đàn bà ấy lần nào nữa. Chỉ có những buổi chiều rỗi rãi ngồi tán gẫu với đám hành khách lưa thưa đợi tàu, anh vẫn nghe như nuốt từng lời về huyền thoại một bà nào đó tên là Chắt đang trở nên giàu có nhờ chăn nuôi dê và có một con dê thần. Họ khen bà ta thật tốt số. Hạ không biết rằng về phần chị, lửa lòng tuy đã tắt nhưng vẫn còn đám than hồng âm ỉ cháy, nung nấu những đêm không ngủ của chị. Khi ông lang khuyên chị mua bẩy mươi sáu con tắc kè ngâm rượu cho chồng uống, mặc dù không thiếu tiền bạc, chị chỉ lắc đầu vì biết những con tắc kè giờ đây không làm chị sung sướng được nữa. Và đêm đêm, khi nhìn thấy một ngọn đèn dầu đỏ đục lắc qua lắc lại trên đường tàu cùng tiếng chó sủa khắc khoải phía xa, chị mở cửa nhìn xuống chân đồi cho đến lúc cái đèn khuất sau một ngọn đồi khác. Lúc đó chị thở dài và khóc. Cho đến khi chồng chết vì bệnh mất nước do khóc quá nhiều và ung thư ruột do ghen tuông, khi chị đã có tuổi, sống thui thủi một mình ban đêm và ban ngày thì đi làm đồng với các xã viên khác, đêm nào cũng như đêm nào, chị vẫn lắng nghe tiếng chó sủa. Cho đến hôm chị không thấy cái đèn đâu nữa. Bấy giờ chị đã già, người làng gọi chị là bà Chắt với vẻ kính trọng vì bà đã làm cho nghề nuôi dê trong vùng phát triển nhờ những con dê giống tuyệt vời của bà. Bà không hề biết rằng lão Hạ đã về hưu từ cái đêm bà không nhìn thấy ngọn đèn lắc qua lắc lại ấy và rấm rứt khóc. Nước mắt chảy xuống đôi má nhăn nheo có những đường rãnh sâu hoắm. Rồi đến lượt con dê đực mất hẳn khả năng truyền giống vì tuổi tác. Bà bán đàn dê cái, chỉ để lại con dê đực vì không ai chịu bỏ tiền ra mua nó. Vì lão Hạ không còn qua đây nên nhà của bà không phát ra ánh sáng về ban đêm, còn ban ngày, mái nhà không lát bằng vàng nữa. Bà Chắt sống bằng số lương thực trợ cấp của hợp tác xã và số vốn liếng ít ỏi để dành được nhờ nghề chăn dê.
Khi cái gia đình nhỏ bé đã có bốn người gồm đứa con gái đầu lòng sắp lấy chồng, thằng con trai đến tuổi lao động, chơi bời và hai ông bà già suốt đời không hòa thuận thì một căn phòng trong khu tập thể nhà ga là quá chật chội. Lão Hạ có ý định làm nhà. Lão sẽ dành gian phòng cho một trong hai đứa con. Lão sẽ khiêng cái phản gụ đến nhà mới. Sẽ có một miếng vườn con con và sau khi về hưu, lão sẽ về với vườn ruộng như lão vốn sinh ra từ vườn ruộng. Đời của lão đã đến lúc thong dong và lão sẽ... lão sẽ... Được công đoàn đường sắt khu ga giúp đỡ, lão bỏ tiền túi ra mua năm bao thuốc Sông Cầu, sau ba bốn ngày đi lại, xã địa phương cấp cho lão một miếng đất. Đó là một sào vườn bỏ hoang không xa thị trấn là mấy, trước đây hợp tác xã đã thử trồng cây thuốc nam, sau đó trồng lạc ba tháng, cuối cùng là vãi vừng, nhưng chẳng bao giờ thu hoạch đủ hạt giống bỏ ra. Lão Hạ sửa sang lại hàng rào tre núi xơ xác vì dê và trâu bò, bắt đầu nhặt nhạnh rồi chuyển đến những thứ nhặt nhạnh được như đá ba lát, xỉ than, cát đen, cát vàng, những thanh gỗ tháo từ các toa tàu bị bom vằm nát năm nào, có cả những miếng ván thôi vứt rải rác ngoài nghĩa địa nữa. Ai cũng bảo rằng, dù không còn năm, còn tháng, nghĩa là thời gian ngừng lại đi nữa thì chưa chắc lão Hạ đã xây xong nhà. Nhưng lão đã hai lần gặp may. Một ngày Chủ nhật, khi mấy anh em khu ga đến giúp lão đào đất đắp nền, sau khi bóc hết lớp đất màu dày khoảng ba mươi phân, mọi người phát hiện ra một cái móng nhà làm bằng đá cẩm thạch. Thường tiền làm một cái móng nhà chiếm đến một nửa cái nhà nên ai cũng mừng cho lão, chưa bỏ ra xu nào mà đã làm xong năm mươi phần trăm công việc. Thật ra, mãi đến sau này, sau khi lão nổi tiếng vì bị nghi ngờ đã tạo ra một trận động đất, các nhà sử học có sự giúp đỡ của một cán bộ khảo cổ, đi tìm hiểu dấu vết của lão lúc sinh thời, đã phát hiện ra một điều sửng sốt. Móng cái nhà mà lão Hạ từng ở một thời gian là móng ly cung của cha con vua Hồ Quý Ly, dịp biến loạn cuối triều, hai cha con ông vua bất hạnh trên đường chạy trốn vào xứ Nghệ đã dừng lại đây ăn một bữa cơm tối. Sau khi chẳng mất gì mà có cái móng nhà, lão Hạ như con bạc gặp vận đỏ, lao vào tìm kiếm tiền nong, vật liệu. Thế rồi lão lại gặp may lần thứ hai. Một đêm, sau ca tuần trở về ga, lão bắt gặp một vụ trộm lớn. Đứng đầu bọn trộm là Bàng, một gã chọc trời rơi xuống nhưng không hiểu sao lại được làm cán bộ vật tư đường sắt, cùng mấy thằng đầu gấu khác đẩy ba toa tàu chở xi măng cho miền Trung ra cách khu ga nửa cây số rồi bốc lên những chiếc xe trâu. Đầu tiên lão định kêu lên, nhưng rồi lão lại không kêu lên nữa vì lão sợ, vì lão nghĩ rằng việc của lão không phải là bảo vệ những toa tàu chở vật tư đỗ nhờ trong khu ga. Lão chỉ yêu cầu Bàng và đồng bọn phải giải phóng đường tàu vì hai giờ nữa sẽ có chuyến tàu khách đi qua. Bọn trộm, sau khi đã thỏa mãn, cám ơn lão và trả những toa tàu đã vơi đi khá nhiều về chỗ cũ trước khi tàu khách thông ga mười phút. Đêm ấy lão trằn trọc trên cái phản gỗ, lão xỉ vả mình, lão oán trời đất đã đẩy lão vào những hoàn cảnh chết người, chắc là định hại lão, khuấy động cuộc sống bình yên vốn đã quá nhiều sự rủi ro và bất như ý của lão. Sáng hôm sau, Bàng mời lão đi uống nước rồi dúi vào tay lão một số tiền lớn, đó là tiền trả cho cái miệng biết im lặng của lão. Cuối tháng ấy, cộng vào những món góp nhặt khác, lão Hạ xây xong cái nhà. Và lão đã mua rượu, lạc rang khao các anh em trong nhà ga khi dọn đến nhà mới. Bảy tháng sau, Bàng bị bắt, gã bị kết án hai năm tù chỉ riêng tội ăn cắp xi măng hôm đó. Hai năm sau, Bàng từ nhà tù trở về. Chị vợ đã bỏ theo người khác, không quên bán xong cái nhà gã xây được nhờ “chiến dịch xi măng cho miền Trung”. Ủ ê, mắt đỏ ngầu vì rượu và những ý nghĩ hằn học, gian tà, bộ quần áo tù nhầu nát vá nhiều chỗ, một buổi chiều hắn đến nhà lão Hạ. “Bố nghĩ đến con tí chút với!”, gã nài nỉ. Lão chần chừ rồi mủi lòng. Bàng ở lại trong nhà lão. Gã đi suốt ngày, đánh bạn làm ăn với những người bạn mới trên thị trấn. Vài tháng sau gã tha về một người đàn bà. Lão cũng hiểu rằng người ta sống thiếu đàn bà thế nào được. Trước sau rồi hắn cũng nhặt được đâu đó một người đàn bà. Cũng như người hái củi, có ai ngờ mình đang nhặt nhạnh những thứ sẽ đè lên vai mình cho tới chết. Gã nhặt về một con điếm (chắc là như thế rồi). Còn lão, lão nhặt lên vai mình gã và con điếm của gã. Ngôi nhà mới trở nên chật với bà vợ hay gây sự và hai đứa con lớn tồng ngồng sắp cưới vợ, gả chồng. Lại còn Bàng với cô điếm ngứa nghề suốt đêm trên cái giường kê trong gian tả cạnh bàn thờ. Những lúc bị thức giấc, lão nhớ tới cái móng nhà và do thiếu hiểu biết về lịch sử và khoa học khảo cổ, lão ngầm rủa mình đã hám của mà xây nhà lên móng của một cái nhà thổ nào đó, lão đâu biết rằng, đó là ly cung của một nhà vua! Nhưng cũng chỉ là những câu rủa thầm. Lão Hạ chịu đựng cũng như lão đã hứng chịu những cú đấm khác của cuộc đời. Còn Bàng, trong một lần khoét cái hố làm chỗ đi tiểu, nhặt lên một cái bát có chân vẽ cúc dây và được một lão buôn đồ cổ trên tỉnh mua với cái giá gã không ngờ được. Lại biết lão Hạ làm nhà trên cái móng đá cẩm thạch thời xưa, trí tưởng tượng kích thích gã cũng như trước đây tính phiêu lưu đã làm gã say đắm. Gã mua rượu và mực nướng mời lão Hạ uống rồi khéo léo nhắc tới những toa tàu chở xi măng cho miền Trung. Rồi than thân trách phận, rồi chửi đổng lũ bất nhân đã ăn sung mặc sướng tọa hưởng kỳ thành trong lúc gã phải đi tù. Gã nói rằng đời gã đã bị chúng nó làm thành miếng giẻ rách và ông trời thật không có mắt! Rồi gã rướn đôi lông mày hỏi lão Hạ:
– Bố thì nhà cửa, vợ con đàng hoàng, còn tôi, tôi phải hai năm ròng rã dọn cứt đái trong nhà lao. Tôi mất nhẵn! Bố bảo như vậy thì trời còn có mắt không hả bố?
Lão Hạ chớp mắt. Cái cơ sự rồi sẽ xoay ra thế này đây. Lão lắp bắp:
– Có, trời có mắt.
– Vậy thì trời đang mở mắt ra đây. Trời bảo thằng Bàng là người nhân đức. Nó không vấy bẩn vào ai, không mở miệng một lời, nếu hồi đó nó nói ra hết thì ông lão Hạ chắc không còn được đi tuần đường nữa.
Lão Hạ rùng mình.
– Anh muốn gì nói đi! – Lão nói.
– Con muốn thương lượng với bố đây. Cái cảnh ăn ở thế này xem ra không hợp. Con cũng khổ mà bố cũng chẳng hơn gì. Con đưa bố ít tiền, bố yên tâm, con sẽ chơi quân tử với bố. Bố dù sao thì vẫn còn gian phòng để dành trong khu tập thể, còn con là thằng trên răng dưới dái phải không bố? Trời bảo như thế đấy.
Mấy năm nay, nhất là từ ngày thằng Bàng dẫn con điếm về nhà, lão Hạ ngủ không yên giấc. Lão thấy mái ngói ngôi nhà nhiều lần muốn đổ xuống đè nát con người lão, vợ con lão. Hôm tòa xử bọn thằng Bàng, lão đứng ở phía cuối đám người xem, nhiều lúc lão như mơ màng, muốn chạy lên nhập vào nhóm mấy thằng tội phạm. Thôi, bây giờ cũng chưa muộn gì. Cứ rũ cho hết nợ. Lão làm giấy bán nhà, lấy tiền rồi kéo vợ con vào khu tập thể. Gian phòng con của lão, anh em nhà ga vẫn còn để trống. Chỉ khiêng ra hai mươi lăm cái cuốc chim gẫy là lại như xưa.
Thế là giấc mộng làm vườn của lão Hạ bay biến. Sau khi ăn cơm xong, lão vẫn nằm trên cái phản nghỉ một lúc và mỗi lần như vậy, những cái rễ li ti lại thò ra in dấu vào mặt gỗ gụ nhẵn bóng. Bà vợ cáu bẳn và không biết điều, đứa con gái thì nhuần nhị hơn nhưng thằng con trai lại là chuyện khác. Cả tin, kiêu ngạo vì được nuông chiều và không thích đọc sách từ nhỏ. Hai chị em chỉ giống nhau một điểm: Cả hai đều nghĩ rằng, nếu như trước đây chúng muốn gì được nấy thì bây giờ cũng phải vậy, rằng đời chúng nó còn dài mới là cái đời có giá, còn hai ông bà gần đất xa trời kia, những người đã từng sống dè để dành cuộc đời cho chúng thì bây giờ hãy cứ tiếp tục sống như thế, vì chúng, vì những ý thích ngông cuồng của chúng, tất nhiên cho đến ngày xuống lỗ. Đứa con gái khi theo chồng ra công tác ngoài Bắc, đòi mang theo cả ổ gà đang ấp dở và hứa với lão Hạ rằng thế nào nó cũng gửi về biếu bố một đôi gà con làm giống. Nó hơn thằng con trai ở chỗ nó hứa rất nhiều, biết làm mủi lòng bố mẹ bằng những lời hứa. Ông lão Hạ nhớ tới con gà mà nó mang đi với cả ổ trứng ấp dở, nó phải nhờ ông lấy chỗ thân tình nói khó với trưởng tàu mới không bị nhân viên toa xe vứt xuống đất. Đó là con gà lớn lên trong tay ông từ ngày chiến tranh. Lúc đứa con gái ông còn nhỏ, lặn lội vượt qua đường tàu và những hố bom, ông mang đến chỗ sơ tán trên rừng một đôi gà nhép. Tay bế con, tay vãi thóc gọi gà để dỗ nó, mỗi khi nó ăn thêm được một thìa cơm, lòng ruột ông nở ra. Con gà trống vì cái tính hoang tàn nên không thọ được bao lâu, còn con gà mái già, nó vẫn đẻ, vẫn ấp, đi lạch bạch như vịt, đôi chân sần sùi doãng ra, tuổi già mà vẫn đa mang một đàn con, trông đến tội. Không biết nó sống thế nào được trên cái gác năm giữa phố Hà Nội không còn đất để bới kia với đứa con gái tham lam của lão.
Đứa con gái ra ở riêng một thời gian, thằng con trai sang làm thợ máy bên nước Đức xa lạ. Nửa năm sau, bà vợ lão đi nốt. Đứa con gái đẻ con so, nó về đón bà ra Hà Nội, bà lão chần chừ không muốn đi. Ở với chồng thì cũng chẳng êm ấm gì nhưng cái khu tập thể đoạn toa xe Hà Nội thì bà còn lạ gì! Ra ở với chúng nó, trông cháu, nấu cơm, giặt giũ, ban ngày chúng nó khóa trái cửa nhốt hai bà cháu như tù. Thì cũng như tù còn gì! Nhưng lão Hạ đã quyết. Không ai chăm nuôi lão, không ai cơm nước cho lão, cũng được đi. Lão đã quyết thế đấy. Một năm, hai năm rồi, bà lão không về thăm nhà được một lần. Thế là lão Hạ không ly dị mà mất vợ. Quãng tháng Năm, tháng Sáu năm nào đó, đứa con gái về qua nhà, nó bảo lão rằng, nó sẽ đẻ gọn cho hết tiêu chuẩn không thì mẹ già mất, ai giúp. “Đứa thứ hai đi mẫu giáo là con trả mẹ cho bố liền, con hứa với bố như thế!”. Nó lại hứa với lão cũng như đã hứa cho lão đôi gà con làm giống, mua cho lão cái áo lông Đức và một chiếc đồng hồ điện tử có nhạc, một con voi con cho lão chăn, nhưng sau khi nói xong thì quên ngay. Thế rồi thằng con trai ở Đức về. Nó cưới vợ từ bên ấy. Hai đứa biếu lão một bộ quần áo Tây màu xanh biển, một cái mũ phớt, một đôi giày da không cột dây. Lão bán ngay bộ quần áo vì mặc không vừa và không hợp cảnh, cái mũ phớt thì cho anh trưởng ga vì tình nghĩa anh ấy đối với lão bao năm, còn đôi giầy không cột dây thì lão để đâu đó rồi quên mất. Chúng nó cũng cho bà lão vải may quần, chăn len, một cái chuỗi thủy tinh để bà ấy lần tràng hạt cho con cháu khỏe mạnh phát tài và nhiều thứ linh tinh khác. Nhưng hôm ra Hà Nội đón chúng nó, lão không hề thấy hai vợ chồng mời mẹ về nhà. Câu chuyện đầu tiên nó đề cập tới là vợ chồng lão phải biết ơn nó vì nó đã cưới vợ ở bên kia, đỡ cho được bao tiền! Và bảo lão rằng, hễ có con là nó quyết không để mẹ “lang thang như thế nữa”. Nó sẽ đón mẹ về ngay.
Nhiều lúc lão tự hỏi: Có phải chính mình đã đẻ ra và nuôi nấng chàng trai này không? Những ngày mới về, nó ủ ê như ốm, những anh em quen biết của lão trong khu ga đến chơi, nó chỉ nhếch mép chào, nhếch mép trả lời nhát gừng những câu hỏi tò mò về đời sống ở bên Đức, mệt mỏi và chán nản. Nhưng dăm hôm sau, khi có vài thằng bạn cùng ở Đức về, từ thị trấn và xa nữa, đi xe máy đến chơi thì nó trở nên hoạt bát, năng động như cá được xuống nước. Nó đã lấy lại hơi thở giữa môi trường quen thuộc. Và thế là, cùng với vợ và những cô gái chưa chồng đi Tây về, những đứa bạn mặc quần bò cứng như gỗ, một thế giới mới, một cuộc sống hoàn toàn mới và khác tràn ngập trong gian phòng đã bao năm nay âm thầm, vắng vẻ trong sự chịu đựng và hy sinh. Chiếc máy ghi âm rền rĩ và kêu thét suốt ngày. Lão Hạ treo dọc cái phản của mình một tấm vải hoa, tiếng nhạc và những điệu nhạc vũ xếch xi loạn nhịp dồn lão vào tấm phản gụ, lão nằm như một con thú chạy trốn trước tiếng la hét của phường săn và bầy chó. Do công ăn việc làm khó khăn, thời gian chờ việc kéo dài nên những cuộc vui chơi của bọn trẻ nhằm mục đích làm sống lại một cuộc sống vừa mới qua đã tạo ra một cái địa ngục thực sự dành cho lão. Chưa bao giờ lão thấy nhớ công việc đến thế. Giá mà được xách đèn đi lại trên con đường tàu quen thuộc, được đặt chân lên những vết giầy vải và ngồi xuống tảng đá có một đám lõm để đợi ông già Thu. Ông lão đã chết năm ngoái, hôm đó lão Hạ là người quẳng hòn đất đầu tiên xuống mộ ông chôn ở nghĩa địa hợp tác xã, dưới một gốc duối già, trong tiếng còi của một đoàn tàu hàng chạy qua. Giá mà được đi qua ngôi nhà kia, sống lại vài giây phút. Lão không qua nơi đó từ ngày về hưu. Lão biết câu chuyện huyền thoại về bà Chắt và đàn dê của bà không được huyên truyền nữa. Những người chăn dê lên thị trấn xếp hàng mua viên tinh đông lạnh và quên đi những con dê đực lừng lẫy một thời. Nhưng lão chắc người ấy vẫn sống, vẫn khỏe mạnh, cũng như lão vẫn sống, vẫn khỏe mạnh. Bằng vào kinh nghiệm bao năm qua, lão cũng chắc như đinh đóng cột rằng nếu có ngày nào đó phải nhắm mắt xuôi tay thì nhất định lão và người ấy sẽ chết một lần cũng như từng ho, từng sốt, từng cúm một lần. Hơn cả lúc ở nhà một mình sau khi bà vợ và hai đứa con đã ra đi, lão thấy bơ vơ giữa cảnh ồn ĩ. Như một sự phản kháng tự nhiên của con thú cùng đường, cái sức mạnh bị đè nén lâu ngày trong lão sống dậy, tuy lão vẫn dán mình trên tấm phản và vẫn tự pha cho lão một ấm trà vào lúc chập choạng tối. Lão vẫn lấy hai tay ôm cái ấm nhỏ màu da lươn, nhưng khác với trước đây, lần nào nước chè trong ấm cũng sôi lên mặc dầu trời ngoài kia vẫn lạnh. Thế rồi nỗi hoài nghi đã chấm dứt, cái sức nóng mà lão cảm thấy mình còn dư thừa ấy, cái đống củi còn để dành chưa đun ấy đã thường xuyên hiện diện trong tâm tư lão dưới dạng tia chớp trong ý nghĩ, tia chớp ấy soi sáng mớ tư duy, ký ức lộn xộn và đầy hình tượng vẫn ăm ắp trong đầu những người cả nghĩ, ít học như lão. Cho đến lần này, khi thằng con cảm nhận được sự trỗi dậy ấy trong người lão, nó thấy mình bị lép vế liền mở to những bản nhạc thời thượng nhất châu Âu, mô-đéc nhất châu Âu – như lời nó nói – cho đến lúc vữa trên tường bỗng như những viên đạn bắn vào tách chén, bát đĩa, rồi một mảng trần vôi rơi rụng xuống người lão tạo nên một làn bụi mịt mù trong nhà, cùng với câu nói gì đó nghe không rõ nhưng đầy hỗn xược, rồi cái cán chổi từ tay đứa con dâu quẳng vào con chó Lu thì đám cháy đã bùng lên và lão chạy ra ngoài.
Với một cử chỉ có ý nghĩa, lão Hạ ra lệnh cho con Lu nằm sát nữa vào con dê già để chúng có thể sưởi ấm cho nhau. Khi đã hoàn toàn hiểu ý chủ, nó ngoan ngoãn dịch vào rồi nằm xuống. Dù trái với luật trời, nó đã quen và chịu được mùi hoi của con dê đực cũng như mùi của con chồn bạc má đã từng là bạn của nó khi chúng làm quen với nhau cùng lão Hạ trên đường tàu. Sáng hôm sau, khi chạy đến sủa rống lên những tiếng làm tê tái lòng người cạnh thi thể ông lão, nó hối hận vì đã quá vâng lời mà không chạy theo ông hay nói với ông một lời vĩnh biệt.
Lão Hạ lần theo con đường trước đây bầy dê vẫn đi, lần lên đồi, nơi có ngôi nhà đang sáng mờ mờ, huyền ảo như một giấc mộng. Bà lão, người đàn bà có tên là Chắt, lẫy lừng và tàn tạ, quyền thế và bất lực, da mặt nhăn nheo đang đứng cạnh cửa, dõi nhìn từng bước chân của lão. Bà đã đứng đây từ rất lâu, từ lúc bà cảm thấy trong người bừng bừng như có một đám cháy, bà nghe tiếng bước chân của con Lu ở bên kia cầu đường sắt và cái bóng quen thuộc của lão Hạ mơ hồ như một ký ức đang lần đường về quá khứ. Bà lặng lẽ mở cửa cho lão vào và nói với lão rằng bà biết thế nào cũng có ngày lão trở lại nơi đây.
Bà vặn to đèn, lấy mấy quả trứng đập ra và vứt vỏ vào đống vỏ trứng cao như một ngọn đồi, chứng tích của những ngày sôi động khi con dê còn đưa lại tiền bạc cho nhà bà. Bà đã đập vỡ cái đống vỏ trứng ấy để làm thức ăn cho nó trước khi giao phối. Bà không hỏi mà biết là ông lão đang đói, lặng lẽ làm cơm cho ông ăn. Khi bà bắc nồi lên, tự nhiên củi tự bốc cháy trong kiềng sắt và chỉ trong nháy mắt, nước sôi, cơm chín, mùi trứng gà và sắc vàng khé của đĩa trứng gà đã làm rạng lên nét mặt nhăn nheo của bà lão sáu mươi tám tuổi. Trong khi đập trứng, ghế cơm, đi lại, trong đầu bà chỉ có một ý nghĩ duy nhất, một nỗi hoài nghi duy nh?