- I - Nguyên bản:MAIGRET ET LE CLOCHARD-Nhà xuất bản: PRESSE DE LA CITE - PARIS-1963
Có một lúc trên đường từ sở Cảnh sát đến cầu Marie, Maigret đã dừng lại một thoáng, rất ngắn đến mức Lapointe đi bên cạnh ông cũng không nhận ra. Chỉ vài giây, có thể là chưa đến một giây đồng hồ, ông thấy lại mình thời cùng tuổi với người đang đi lúc này.
Cái đó là do không khí, độ sáng và mùi vị của nó. Đã có một buổi sáng giống hệt như sáng nay, một thanh tra cảnh sát trẻ tuổi được cử về sở Cảnh sát mà dân Paris hồi đó còn gọi là sở An ninh. Hồi đó, là cảnh sát giao thông, Maigret đi loăng quăng từ sáng đến tối trên mọi nẻo đường phố của thủ đô.
Tuy đã là ngày hai mươi nhăm, tháng ba, ngày đầu tiên của mùa xuân, trời trong sáng, nhưng đêm qua có một trận mưa rào kèm theo tiếng sấm ở phía xa. Đây là lần đầu tiên trong năm, Maigret để lại áo khoác trong tủ ở cơ quan để đi ra ngoài đường và gió thổi làm phồng chiếc áo vét không cài cúc của ông lên.
Do hồi tưởng lại quá khứ, ông cũng nhớ lại thời ấy, bước đi của mình không nhanh cũng không chậm, không giống như bước chân của kẻ hiếu kỳ dừng bước trước mỗi chuyện vặt trên đường phố, cũng không giống như bước chân của những kẻ đi không có chủ đích nhất định.
Chắp tay sau lưng, ông nhìn xung quanh, bên phải, bên trái như để ghi lại những cảnh vật trước nay ông không chú ý đến.
Đoạn đường ngắn, không dùng một trong những chiếc xe hơi đen đỗ ở sân cơ quan, hai người đi dọc theo bến cảng, qua sân nhà thờ Notre-Dame làm đàn chim bồ câu ở đây bay lên tán loạn vì trước đó có một chiếc xe buýt chở khách du lịch ở Cologne chạy qua.
Qua chiếc cầu sắt, hai người tới đảo Samt-Louis. Nhìn qua cửa sổ của một ngôi nhà, Maigret thấy một bà hầu vận đồng phục và đội một chiếc mũ vải rua đăng-ten màu trắng như vừa trong nội thành trở về. Một người cung cấp thịt, cũng vận đồng phục đi ở phía xa; một người đưa thư từ trong một khối nhà đi ra.
Những nụ hoa bắt đầu hé nở trên những cành cây màu xanh mướt.
Lapointe từ này đến giờ chưa nói gì, cất tiếng:
- Nước sông Seine đang lên.
Đúng thế, từ một tháng nay, hôm nào trời cũng mưa trong vài tiếng đồng hồ và đến chiều đài truyền hình báo tin đồng ruộng bị úng và nước đã tràn về nhiều làng. Nước sông Seine màu vàng lềnh bềnh những cành cây, những thùng gỗ và rác rưởi.
Đang thong thả đi về phía cầu Marie từ cảng Bourbon thì họ đã nhìn thấy một chiếc sà lan chở cát màu xám, treo cờ trắng và đỏ của Công ty Tổng hợp. Nó mang tên Poitou và một chiếc cần cẩu đang làm việc mà tiếng rú của nó lẫn vào tiếng ồn ào của thành phố.
Một chiếc sà lan khác đang thả neo đậu cách xa chiếc thứ nhất chừng năm chục mét ở phía trên. Trông sạch sẽ hơn như nó mới được sơn lại từ sáng nay, ở phía sau treo một lá cờ nước Bỉ. Một đứa trẻ đang ngủ trong nôi, thiết kế theo kiểu một chiếc võng nhỏ bằng vải màu trắng, đứng bên là một người đàn ông cao lớn, tóc màu vàng nhạt, đang nhìn về phía cảng như chờ đợi một cái gì đó.
Tên chiếc sà lan này là De Zwarrte Zwaan, một cái tên fla-măng (một ngôn ngữ của xứ Flandre, một vùng đất giữa Pháp và Bỉ - ND) mà cả Maigret lẫn Lapointe đều không biết đọc ra sao cả.
Đã mười giờ kém hai ba phút gì đó. Khi hai người cảnh sát đi đến cảng Celestms thì một chiếc xe hơi chạy tới và đỗ lại, ba người đàn ông xuống xe và cửa đóng sập lại.
- Họ đến rất đúng giờ.
Ba người đều ớ tòa án, nhưng đều không phải là những quan toà. Ở đây có ông biện lý Parrain, ông thẩm phán Danlliger và một viên lục sự mà Maigret không biết tên tuy ông đã gặp người này hàng trăm lần.
Khách bộ hành đi làm công việc của mình, những đứa trẻ chơi trên hè phố trước mặt không biết ở đây có những người của toà án tới. Buổi sáng đẹp trời làm khung cảnh ở đây thêm phần long trọng. Ông biện lý lấy trong túi ra một hộp đựng thuốc lá bằng vàng đưa cho Maigret đang ngậm tẩu thuốc trên miệng.
- Đúng thế... Tôi quên mất...
Ông ta tóc nâu, người dong dỏng cao, vẻ mặt quan trọng và Maigret nhớ ra đây là một chuyên gia của toà án. Ông thẩm phán Dantager người béo tròn, ăn vận xuềnh xoàng. Người ta thấy có nhiều loại thẩm phán. Nhưng tại sao họ lại khác với những người làm việc trên Bộ Tư pháp có vẻ lịch thiệp và đôi chút kiêu căng?
- Thưa các ông, chúng ta bắt đầu chứ?
Maigret không biết gì hơn so với những người cùng đến đây. Ông đã đọc báo cáo cập nhật về chuyện xảy ra đêm qua tại đây và một cú điện thoại yêu cầu ông tham dự việc xét hỏi và lập biên bản vụ này.
Cái đó không làm cho ông phật lòng. Ông được gặp mọi người trong một hoàn cảnh mà ông đã nhiều lần biết rõ. Cả năm người qua chiếc cầu ván đi xuống chiếc sà lan chạy máy và người thuỷ thu tóc màu vàng nhạt tới gặp họ
- Ông đưa tay cho tôi - Người ấy nói với ông biện lý đi đầu - Như vậy là cẩn thận hơn cả, đúng không?
Anh ta nói giọng fla-măng. Mắt sáng, mặt sắc sảo, hai cánh tay to lớn, trông anh ta giống như một tay đua xe đạp đang được người ta phỏng vấn sau một cuộc đua.
Tại đây tiếng cần cẩu đang làm việc như kêu to hơn.
Sau khi liếc nhìn vào mảnh giấy trên tay, Maigret hỏi:
- Anh là Jef Van Houtte phải không?
- Vâng, Jef Van Houtte, thưa ông.
- Anh là chủ chiếc sà lan này ư?
- Vâng, thưa ông, tôi là chủ nó, còn ai khác nữa?
Mùi xào nấu từ dưới bếp xông lên khoang tàu và dưới chân cầu thang trải vải nhựa in hoa, người ta thấy một phụ nữ rất trẻ đang đi đi, lại lại.
Maigret chỉ tay vào đứa bé trong nôi.
- Con trai anh đấy ư?
- Không phải là con trai, thưa ông! Nó là con gái. Tên nó là Yolande. Em gái tôi là Yolande làm mẹ đỡ đầu của cháu...
Ông biện lý Parrain thấy cần tiến hành can thiệp và ra hiệu cho viên lục sự ghi chép.
- Anh kể lại cho chúng tôi việc đã xảy ra.
- Thế này! Tôi đã vớt lên và ông bạn trên sà lan kia đã giúp tôi...
Anh ta chỉ tay vào chiếc Poitou mà phía cuối sà lan có một người đàn ông đứng tựa lưng vào bánh lái như đang đợi đến lượt mình.
Một chiếc tàu kéo bốn chiếc sà lan rúc lên nhiều hồi còi rồi thong thả lên thượng nguồn. Mỗi khi một chiếc sà lan đi qua chiếc De Zwarrte Zwaan thì Jef Van Houtte lại giơ cánh tay phải lên để chào.
- Anh biết người chết đuối là ai chứ?
- Tôi chưa trông thấy người này bao giờ...
- Anh cho sà lan đậu lại ở đây từ lúc nào?
- Từ chập tối hôm qua. Tôi chở đá bảng từ Jeumont để tới Rouen. Tôi dự định đi qua Paris để nghỉ đêm tại âu thuyền Suresne... Tôi thấy tiếng máy chạy có vẻ khác thường... Chúng tôi không muốn nghỉ lại ở giữa Paris, các ông hiểu chứ?
Từ xa, Maigret nhận ra ba bốn kẻ lang thang đang đứng ở gầm cầu và, trong đó có một phụ nữ to béo, ông như đã gặp mụ này ở đâu rồi.
- Chuyện đã xảy ra thế nào? Người ấy nhảy xuống sông ư?
- Tôi không biết, thưa ông. Nếu người ấy nhảy xuống sông thì hai người kia tới đây làm gì?
- Lúc ấy là mấy giờ? Anh đang ở đâu? Cho chúng tôi biết có những chuyện gì đã xảy ra chiều hôm qua. Anh thả neo lúc chập tối, phải không?
- Đúng thế.
- Anh có thấy kẻ lang thang ấy ở dưới gầm cầu không?
- Tôi không chú ý. Bao giờ họ cũng ở đấy.
- Sau đó anh làm gì?
- Chúng tôi dùng bữa. Hubert, Annecke và tôi...
- Hubert là ai?
- Là em trai tôi. Nó làm việc với tôi. Annecke là vợ tôi. Tên thật là Anna nhưng mọi người đều gọi là Annecke...
- Sau đó thì sao?
- Em trai tôi đóng bộ vào rồi đi khiêu vũ. Tuổi của nó là vậy, đúng không?
- Anh ta bao nhiêu tuổi?
- Hai mươi hai.
- Lúc này anh ta đang ở trên sà lan chứ?
- Nó đi mua thức ăn. Nó sắp về.
- Hôm qua, sau khi dùng bữa xong thì anh làm gì?
- Tôi đi sửa máy. Tôi phát hiện ra có một lỗ rò rỉ dầu, vì sáng hôm sau phải đi sớm, tôi bắt tay vào sửa máy.
Anh ta lần lượt nhìn từng người với thái độ của người ít tiếp xúc với các cơ quan pháp luật.
- Anh sửa máy xong vào lúc nào?
- Lúc ấy thì tôi chưa sửa xong. Sáng nay tôi đã hoàn thành việc ấy.
- Khi nghe thấy tiếng kêu thì anh đang ở đâu?
Anh ta gãi đầu, nhìn ra boong tàu đã được quét dọn sạch sẽ.
- Lúc ấy tôi lên boong để hút một điếu thuốc lá và xem Annecke đã ngủ chưa?
- Lúc ấy là mấy giờ?
- Mười giờ... Tôi không nhớ chính xác...
- Cô ta ngủ chứ?
- Vâng, thưa ông. Và cháu bé cũng đã ngủ. Mấy đêm trước nó khóc vì mọc răng...
- Rồi ông quay lại cỗ máy ư?
- Đúng thế...
- Trong ca-bin lúc ấy tối chứ?
- Vâng, thưa ông, vì vợ tôi đã ngủ.
- Thế còn trên boong tàu?
- Cũng tối.
- Sau đó thì sao?
- Sau đó tôi nghe thấy tiếng máy nổ của một chiếc xe hơi như nó đậu không xa chiếc sà lan của tôi lắm.
- Anh không ra nhìn chiếc xe hơi ấy ư?
- Không, thưa ông. Tại sao tôi phải nhìn nó?
- Anh nói tiếp đi.
- Sau đó có tiếng một vật gì đó rơi xuống nước.
- Như có một người nào đó rơi xuống sông Seine ư?
- Vâng, thưa ông.
- Rồi sao nữa?
- Tôi trèo lên thang và thò đầu ra khỏi cửa sổ boong tàu.
- Anh nhìn thấy gì?
- Hai người đàn ông chạy về phía chiếc ôtô đang đậu gần đó.
- Có một chiếc ôtô thật ư?
- Vâng, thưa ông. Một chiếc ôtô màu đỏ. Chiếc Peugeot 403.
- Trời sáng khiến anh nhìn rõ như vậy ư?
- Có một ngọn đèn đường trên tường.
- Trông hai người ấy thế nào?
- Người nhỏ hơn mặc chiếc áo đi mưa màu sáng và vai của anh ta rất rộng.
- Người kia thì sao?
- Tôi không nhìn rõ vì người ấy chui vào ôtô trước đó. Ngay lập tức họ nổ máy và cho xe chạy.
- Anh có nhớ số xe không?
- Tôi chỉ nhớ có hai con số chín và hai con số tận cùng là bảy mươi nhăm...
- Anh nghe thấy tiếng kêu khi nào?
- Khi ôtô bắt đầu chạy...
- Nói cách khác, có một khoảng thời gian từ lúc người ấy rơi xuống nước đến lúc người ấy kêu lên, đúng không? Nếu không thì anh đã nghe thấy tiếng kêu trước đó chứ?
- Thưa ông, tôi cho rằng ở đây ban đêm yên tĩnh hơn ban ngày.
- Lúc ấy là mấy giờ?
- Đã quá nửa đêm...
- Có người đi lại trên cầu không?
- Tôi không nhìn lên...
Trên bến cảng một số người dừng bước, ngạc nhiên vì thấy nhiều người đứng trên sà lan. Maigret thấy những kẻ lang thang đứng gần hơn. Chiếc cần cẩu vẫn tiếp tục chuyển cát trên chiếc Poitou lên những chiếc xe tải trên bờ.
- Người ấy kêu có to không?
- Có, thưa ông...
- Kêu như thế nào? Người ấy kêu cứu ư?
- Người ấy kêu... Sau đó người ta không nghe thấy gì nữa... Rồi...
- Anh đã làm gì?
- Tôi nhảy xuống con thuyền nhỏ và tôi cởi dây buộc...
- Anh nhìn thấy người chết đuối chứ?
- Không, thưa ông... Không thấy ngay lúc ấy... Ông chủ chiếc Poitou chắc chắn cũng nghe thấy vì tôi thấy ông ấy chạy dọc theo sà lan như kiếm một vật gì đó...
- Anh nói tiếp đi...
Người fla-măng cố gắng khai báo chính xác, nhưng cái đó là khó khăn với anh ta và người ta thấy trán anh ta vã mồ hôi.
- Kia!... Kia!... - Anh ta nói.
-Ai?
- Ông chủ tàu Poitou.
- Và anh đã nhìn thấy người rơi xuống nước ư?
- Có lúc tôi nhìn thấy, có lúc không.
- Vì bị nước nhấn chìm ư?
- Vâng, thưa ông... Và người ấy bị nước cuốn đi.
- Cả chiếc thuyền nhỏ của anh cũng vậy ư?
- Vâng, thưa ông... ông bạn tôi đã nhảy xuống thuyền...
- Tức là ông chủ sà lan Poitou ư?
Jef Van Houtte thở dài vì thấy những người thẩm vấn không hiểu rõ sự việc. Với anh ta những vụ tương tự đã xảy ra nhiều lần trong đời mình.
- Cả hai người đã vớt người ấy lên ư?
- Vâng...
- Lúc đó người ấy như thế nào?
- Mắt mở, khi lên thuyền người ấy bắt đầu nôn mửa...
- Người ấy không nói gì ư?
- Không, thưa ông.
- Người ấy có tỏ vẻ sợ hãi không?
- Không, thưa ông.
- Người ấy có vẻ như thế nào?
- Không có vẻ gì cả. Cuối cùng người ấy cựa mình, nước trong miệng chảy ra.
- Mắt người ấy vẫn mở chứ?
- Vâng, thưa ông. Tôi cho rằng người ấy đã chết rồi.
- Anh có tìm cách cấp cứu không?
- Không. Không phải tôi.
- Người bạn anh trên chiếc Poitou làm việc này ư?
- Không phải. Một người nào đó đứng trên cầu gọi chúng tôi.
- Vào giờ ấy còn có người đứng trên cầu Marie ư?
- Lúc ấy thì có. Anh ta hỏi chúng tôi đây là người chết đuối ư. Tôi trả lời rằng đúng. Anh ta bảo để anh ta đi báo cảnh sát.
- Anh ta làm như vậy chứ?
- Chắc là như vậy vì một lát sau cảnh sát đi xe đạp đến.
- Lúc ấy trời đã mưa rồi chứ?
- Bắt đầu có sấm chớp khi người ấy bước xuống sà lan của tôi.
- Vợ anh lúc ấy đã dậy chưa?
- Tôi thấy có ánh lửa trong bếp và Annecke đã mặc thêm chiếc áo khoác đang nhìn chúng tôi.
- Anh nhìn thấy máu vào lúc nào?
- Khi chúng tôi đặt người ấy nằm gần bánh lái. Trên đầu người ấy có một vết rạn.
- Một vết rạn ư?
- Một lỗ thủng... Tôi không biết gọi ra sao cho đúng...
- Cảnh sát tới ngay lập tức ư?
- Gần như ngay lập tức.
- Do người đứng trên cầu báo tin ư?
- Tôi không gặp lại người ấy nữa.
- Anh không biết người ấy là ai ư?
- Không, thưa ông...
Cần phải cố gắng nhiều, Jef Van Houtte mới thuật lại như vậy được. Anh ta tìm từ như là phải dịch từ tiếng fla-măng sang tiếng Pháp.
- Anh cho rằng kẻ lang thang ấy bị đánh vào đầu sau đó mới bị ném xuống sông ư?
- Đó là lời ông bác sĩ. Một cảnh sát đã đi gọi một bác sĩ. Sau đó một chiếc xe cứu thương chạy đến. Khi người bị nạn được chuyển đi tôi đã lau chùi cầu tàu vì có máu đọng lại.
- Theo anh thì vụ này đã diễn ra như thế nào?.
- Tôi không biết, thưa ông.
- Nhưng anh đã nói với viên cảnh sát...
- Tôi nói theo suy nghĩ của tôi, đúng không?
- Anh nhắc lại xem nào.
- Tôi cho rằng người ấy đang ngủ ở gầm cầu...
- Nhưng anh đã nói rằng trước đó mình không trông thấy người này kia mà?
- Tôi không chú ý. Lúc nào mà chẳng có người ngủ dưới gầm cầu..
- Được. Và một chiếc ôtô đã đỗ lại...
- Một chiếc ô tô màu đỏ... Tôi tin chắc là như vậy.
- Nó đậu không xa chiếc sà lan của anh là bao?
Anh ta gật đầu rồi đưa tay chỉ vào một điểm nào đó trên bờ.
- Máy ô tô vẫn để nổ ư?
Lần này thì anh ta lắc đầu.
- Nhưng anh đã nghe thấy tiếng chân người kia mà?
- Vâng, thưa ông.
- Tiếng chân của hai người ư?
- Tôi nhận thấy hai người trở lại chiếc xe...
- Anh không nhìn thấy hai người ấy lúc họ đi tới cầu ư?
- Tôi sửa máy nổ ở dưới sà lan.
- Hai người, trong đó có một người mặc áo đi mưa màu sáng, đã đánh vào đầu kẻ lang thang đang ngủ rồi ném người ấy xuống sông Seine ư?
- Khi tôi nhìn thấy thì kẻ lang thang đã ở dưới nước rồi..
- Báo cáo của ông bác sĩ khẳng định vết thương ấy không do bị rơi xuống nước... Việc rơi xuống nước của người ấy không phải là một tai nạn...
Jef Van Houtte nhìn mọi người với hàm ý đây không phải là công việc của mình.
- Chúng tôi có thể nói chuyện với vợ anh được không?
- Tôi rất muốn các ông hỏi Annecke. Chỉ có điều vợ tôi sẽ không hiểu các ông nói gì đâu. Cô ấy chỉ biết tiếng fla-măng...
Ông biện lý nhìn Maigret như để hỏi ông này có hỏi gì nữa không và người cảnh sát trưởng trả lời bằng cái lắc đầu. Nếu muốn thì ông sẽ hỏi sau này, khi không có mặt người của toà án ở đây.
- Khi nào thì chúng tôi có thể đi được? - Người chủ sà lan hỏi.
- Sau khi anh ký tên vào bản lời khai. Với điều kiện anh cho chúng tôi biết mình sẽ tới đâu...
- Tới Rouen.
- Ông lục sự của chúng tôi sẽ mang giấy tờ đến để anh ký.
- Khi nào?
- Có thể là chiều nay.
Người chủ sà lan có vẻ bất bình.
- Em trai anh rời khỏi đây lúc nào?
- Trước đó.
- Xin cảm ơn anh...
Jef Van Houtte lại giúp ông ta lên bờ và nhóm người lên trên cầu trong khi đó những kẻ lang thang lảng xa ra một vài mét.
- Ông nghĩ sao, ông Maigret?
- Tôi cho chuyện này thật lạ lùng. Ít khi người ta đánh kẻ lang thang...
Ở dưới gầm cầu Marie, tựa lưng vào bờ tường, có một cái, có thể gọi đây là một cũi chó. Nó không có tên, tuy nhiên nó là như vậy. Hình như, đã từ lâu, nó là nơi trú ẩn của một con người.
Sự ngạc nhiên của ông biện lý thật là nực cười và Maigret không thể không cho ông ta biết:
- Dưới gầm cầu nào cũng có những cái này, nhưng ít có cái ở ngay trước mặt sở cảnh sát.
- Cảnh sát không làm gì ư?
- Nếu phá ở chỗ này thì nó lại mọc lên ở chỗ khác xa hơn một chút...
Cũi được làm bằng những mảnh gỗ thùng bỏ đi, những mảng tường đổ nát. Trong cũi có một khoảng vừa đủ để một người cúi lom khom. Dưới đất là rơm rạ, chăn chiếu rách và những tờ báo cũ. Tất cả toát lên một mùi nồng nặc tuy ở đây rất thoáng gió.
Ông biện lý không dám sờ mó vào vật gì trong cũi và chính Maigret là người cúi xuống nhặt mỗi thứ riêng ra để làm một cuộc kiểm kê chớp nhoáng.
Một ống hình trụ bằng tôn kẽm, có lỗ thủng trên thân dùng để làm bếp, xung quanh hãy còn một chút tàn tro màu trắng. Gần đó có những mẩu than gỗ mà chỉ có Thánh mới biết người ta đã nhặt chúng ở đâu về. Khi lật tấm chăn rách lên, người ta phát hiện ra một kho báu thực sự: hai mẩu bánh khô cứng, gần một gang tay xúc-xích có tỏi và ở một góc khác có những cuốn sách cũ nát. Maigret cầm sách lên đọc khẽ:
“Tham vọng, của Verlaine... Điếu văn, của Bossuet... (Paul Verlaine (1844-1896) nhà thơ Pháp; Jacques Bénigne Bossuet (1627-1704) nhà văn Pháp- ND)
Ông nhặt một tờ tạp chí đầy vết bẩn, có lẽ đã nhặt từ trong thùng rác ra. Đó là một tờ Tạp chí Y học cũ.
Một cuốn khác, nửa sách, nửa tạp chí, chỉ còn một nửa có nhan đề Ký ức ở đảo Saint-Hélène.
Ông thẩm phán ngạc nhiên hơn ông biện lý:
- Sách báo mới kỳ cục làm sao - Ông ta nhận xét.
- Có gì hắn nhặt nấy thôi...
Trong số những thứ Maigret khui ra còn có một chiếc áo xăng-đay len thủng lỗ chỗ và những vết sơn bám vào, chắc chắn là của một nhà hoạ sĩ nào đó thải ra, một chiếc quần màu vàng, những chiếc giày vải đen thủng đế và năm chiếc bít tất với các màu khác nhau, một chiếc kéo gãy đầu.
- Hắn chết rồi ư?
Ông biện lý Parrain đứng rất xa như sợ bị lây chấy rận hỏi vọng vào
- Cách đây một tiếng đồng hồ tôi gọi điện về Bệnh viện Thượng đế thì người ấy còn sống.
- Ngươi ta hy vọng cứu sống hắn ư?
Người ta đang cố gắng... Có một vết thương trên sọ. Hơn nữa người ta sợ người ấy bị sưng phổi nữa.
Maigret đẩy đẩy chiếc xe trẻ con; chắc hẳn kẻ lang thang đã dùng nó để chở những thứ nhặt trong các thùng rác về. Quay về phía nhóm những kẻ lang thang đang đứng phía xa, ông nhìn mặt từng người một. Có đứa quay mặt đi. Những kẻ khác thì làm ra vẻ ngây dại.
- Lại đây!
Ông chỉ tay vào người phụ nữ và gọi.
Nếu chuyện này xảy ra ba mươi năm trước đây thì ông đã biết tên chị ta vì thời còn là cảnh sát giao thông ông biết tên hầu hết những kẻ lang thang của Paris.
Họ không thay đổi nhiều, nhưng nay đã ít hơn trước
- Chị ngủ ở đâu?
Người phụ nữ mỉm cười như muốn trêu ghẹo ông
- Ở đằng kia..
Mụ nói và chỉ tay vào cầu Louis-Philippe.
- Chị biết người được người ta vớt lên đêm qua chứ?
Mặt mụ béo phị, hơi thở sực mui rượu vang chua loét. Hai tay chắp trước bụng, mụ ngẩng cao đầu.
- Chúng tôi gọi ông ấy là thầy thuốc.
- Tại sao?
- Vì ông ấy là người có học... người ta nói ngày xưa ông ấy là một bác sĩ.
- Ông ta sống dưới gầm cầu này lâu chưa?
- Nhiều năm rồi...
- Bao nhiêu?
- Tôi không biết... Tôi không đếm...
Mụ lại cười, một lọn tóc màu xám rơi xuống mặt. Nếu miệng mím lại thì mụ ta khoảng sáu chục tuổi. Nếu nói chuyện, để lộ hai hàm răng gãy gần hết thì mụ có vẻ già hơn. Nhưng cặp mắt mụ lúc nào cũng có vẻ cười cợt. Thỉnh thoảng mụ quay về phía đồng bọn như để chứng minh những điều mình nói.
- Có đúng không? Mụ hỏi.
Bọn chúng gật đầu tỏ vẻ khó chịu vì sự có mặt của người cảnh sát và những người ăn mặc rất sang trọng
- Ông ta sống một mình ư?
Câu hỏi khiến mụ bật cười.
- Ông ấy có thể sống với ai kia chứ?
- Ông ấy vẫn ngủ ở gầm cầu này ư?
- Không phải lúc nào cũng như vậy... Tôi còn gặp ông Cầu Mới và trước đó ở cảng Bercy.
- Ông ta có sống ở chợ Halles không?
Hầu hết những kẻ lang thang tập trung ở chợ Halles vào ban đêm
- Không. Mụ trả lời
- Ông ta nó đi bới rác không?
- Thỉnh thoảng thôi.
Có chiếc xe đẩy của trẻ con, những tờ báo cũ và những mảnh giẻ rách. Cái đã chứng tỏ người này ngủ từ đầu hôm.
- Ông ấy là người gặp gì ăn nấy...
- Chị còn biết gì về ông ta nữa?
- Không.
- Chị có nói chuyện với ông ta bao giờ không?
- Có chứ... Chính tôi là người thường cắt tóc cho ông ấy... cần phải giúp đỡ lẫn nhau.
- Ông ta có uống rượu không?
Maigret biết hỏi như vậy là thừa. Hầu hết những kẻ lang thang đều uống rượu cả.
- Rượu vang đỏ chứ?
- Như những người khác.
- Nhiều không?
- Ông ấy chưa bao giờ say cả... Không như tôi. Mụ lại cười. - Tôi biết ông, chắc ông còn nhớ, tôi biết ông không độc ác. Ông đã thẩm vấn tôi, một lần, trong văn phòng của ông, đã lâu rồi, có thể hơn hai chục năm rồi, khi tôi còn làm việc ở Saint-Denis...
- Đêm qua chị có nghe thấy gì không?
Mụ chỉ tay vào cây cầu Louis-Philippe, như để ước lượng khoảng cách giữa nó với cầu Marie.
- Xa quá...
- Chị có nhìn thấy gì không?
- Chỉ nhìn thấy đèn xe cứu thương... Tôi đã lại gần nên biết đây là xe cứu thương...
- Còn các anh kia thì sao?
Maigret hỏi ba kẻ lang thang kia. Họ lắc đầu. Bao giờ họ cũng lo ngại.
- Chúng ta đi gặp ông chủ tàu Poitou chứ? Thấy khó chịu trước cảnh này, ông biện lý nói.
Người đang đợi họ khác với người fla-măng vừa rồi. Ông ta cùng vợ con đứng trên boong sà lan. Chiếc sà lan này chuyên chở cát từ thượng nguồn sông Seine về Paris. Tên ông ta là Justin- Goulet; ông ta khoảng bốn mươi nhăm tuổi. Chân ngắn, ông ta có vẻ khôn ngoan, một mẩu thuốc lá đã tắt dính trên môi.
Ở đây người ta phải nói to vì có tiếng gầm rú của cần cẩu đang xúc cát.
- Thật là kỳ cục, đúng không?
- Cái gì kỳ cục?
- Việc người ta đánh một kẻ lang thang rồi ném xuống sông...
- Ông có nhìn thấy họ không?
- Tôi không nhìn thấy gì cả.
- Lúc ấy ông đang ở đâu?
- Khi người ta đánh hắn ư? Tôi đang ngủ...
- Ông đã nghe thấy những gì?
- Tôi nghe thấy một người nào đó kêu lên...
- Ông không nghe thấy tiếng xe hơi ư?
- Có thể, nhưng trên bến cảng lúc nào cũng có xe hơi chạy nên tôi không chú ý...
- Ông đã lên boong sà lan chứ?
- Trong bộ đồ ngủ... Tôi không kịp mặc thêm quần áo...
- Vợ ông lúc ấy ở đâu?
- Vợ tôi đang ngủ. Lúc ấy bà ấy hỏi tôi: “Ông đi đâu đấy?'
- Lên boong sà lan thì ông nhìn thấy những gì?
- Không nhìn thấy gì cả. Nước sông Seine ngầu bọt vẫn xuôi chảy... Tôi kêu to: "Ô, Ô...” để hắn trả lời và để tôi có thể biết hắn đang ở đâu...
- Lúc ấy thì Jef Van Houtte đang ở đâu?
- Người fla-măng ấy ư?... Cuối cùng tôi thấy anh ta đứng trên boong sà lan của anh ta... Anh ta cởi dây chiếc thuyền con... Khi thuyền đi ngang sà lan tôi, tôi nhảy xuống. Người ở dưới nước lúc nổi, lúc chìm. Anh người fla-măng vớt hắn bằng cái móc của tôi.
- Một con sào có cái móc sắt trên đầu ư?
- Mọi cái móc đều như vậy cả.
- Có phải do cái móc nên người ấy có vết thương trên đầu không?
- Chắc chắn là không. Cái móc đã mắc vào quần hắn... Tôi cúi xuống và kéo chân hắn lên...
- Người ấy đã ngất đi chứ?
- Mắt hắn vẫn mở.
- Người ấy không nói gì ư?
- Nước ở miệng hắn đang ộc ra... Khi hắn nằm trên sà lan của người fla-măng thì người ta mới thấy đầu hắn đang chảy máu...
Ông biện lý thấy câu chuyện không mấy thích thú thì lẩm bẩm:
- Tôi cho rằng như vậy là đủ rồi, đúng không?
- Tôi sẽ làm những việc còn lại - Maigret trả lời.
- Ông sẽ tới bệnh viện chứ?
- Tôi đã tới đó rồi. Theo các bác sĩ thì phải mất nhiều tiếng đồng hồ nữa thì người ấy mới tỉnh...
- Ông cho tôi biết tình hình...
- Tôi sẽ nhớ...
Khi mọi người sửa soạn lên cầu Marie, Maigret bảo Lapointe:
- Anh gọi điện thoại cho đồn cảnh sát địa phương bảo họ cho tôi một cảnh sát.
- Tôi sẽ gặp lại sếp ở đâu?
- Ở đây...
Và ông bắt tay những người của toà án.