Chương 1 & 2 THẢO NGUYÊN
“George này, anh phải xem buồng trẻ thế nào đi.”
“Nó làm sao?”
“Em không biết.”
“Thế thì thôi.”
“Em chỉ muốn anh xem qua thôi, hoặc là gọi một nhà tâm lý học đến xem xem thế nào.”
“Tại sao nhà tâm lý học lại muốn xem buồng trẻ?”
“Anh biết thừa là tại sao mà.” Vợ anh dừng lại giữa bếp ngắm cái lò đang bận rộn kêu ro ro, nấu bữa tối cho bốn người.
“Chỉ là bây giờ buồng trẻ đã khác trước.”
“Được rồi, thì đi xem xem sao nào.”
Họ đi xuôi hành lang trong Ngôi Nhà Hạnh Phúc cách âm của mình, ngôi nhà mà họ đã mất ba mươi ngàn đô la để lắp đặt, ngôi nhà có thể mặc quần áo cho họ, cho họ ăn, ru họ ngủ, chơi với họ, hát cho họ nghe, và chăm sóc họ rất tận tình. Khi họ đến gần, một công tắc cảm ứng đâu đó bật đèn trong buồng trẻ lên lúc họ còn cách cửa mười bước. Cũng như thế, sau lưng họ, trên hành lang, đèn bật lên hoặc tắt đi khi họ đi xa khỏi chúng, một cách tự động nhẹ nhàng.
“Thế đấy,” George Hadley nói.
Họ đứng trên sàn trải rơm của buồng trẻ. Căn buồng bề rộng mười hai mét, bề dài mười hai mét, cao mười mét; riêng giá thành căn buồng đã gấp rưỡi phần còn lại của ngôi nhà. “Đã là cho con của mình thì bất kể cái gì, tốt mấy cũng không thừa,” George đã nói vậy.
Buồng trẻ lặng như tờ. Nó trống trải như một trảng cỏ giữa rừng rậm vào một buổi trưa nóng nực. Các bức tường trống không, phẳng lì. Khi George và Lydia Hadley tiến vào giữa căn buồng, các bức tường bắt đầu kêu ro ro và dường như lùi về đằng xa, và một thảo nguyên châu Phi hiện ra, ba chiều, khắp xung quanh họ, với màu sắc chân thực đến từng viên đá cuội, từng cọng rơm. Trần nhà trên đầu họ biến thành một bầu trời xanh thẳm với vầng mặt trời vàng nóng rực.
George Hadley cảm thấy mồ hôi rịn ra trên trán.
“Vào chỗ nào có bóng mát đi,” anh nói. “Chỗ này giống thật quá. Nhưng anh không thấy có gì không ổn cả.”
“Đợi một lát rồi anh sẽ thấy,” vợ anh nói.
Giờ các máy tạo mùi được giấu kín bắt đầu thổi một luồng gió đầy mùi vị vào hai người đang đứng giữa thảo nguyên nóng cháy. Mùi rơm nồng đượm của cỏ sư tử, mùi xanh mát trong lành của ao nước bí mật, mùi bụi như một quả ớt đỏ trong bầu không khí nóng. Và tiếp theo là các âm thanh: tiếng gõ móng xa xa của đàn linh dương nện trên nền cỏ, tiếng xào xạc của bầy kền kền. Một cái bóng lướt qua trên nền trời. Cái bóng thoáng hiện lên khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi đang ngước lên của George Hadley.
“Lũ sinh vật bẩn thỉu,” anh nghe tiếng vợ nói.
“Bọn kền kền ấy hả.”
“Anh thấy không, ở đây có sư tử, ở xa đằng kia kìa. Giờ chúng đang trên đường đến ao nước. Chúng vừa ăn xong,” Lydia nói. “Em không biết là ăn gì.”
“Một con thú gì đó.” George Hadley đưa tay lên che bớt ánh mặt trời chói lòa rọi vào cặp mắt nheo nheo. “Một con ngựa vằn hoặc hươu cao cổ con, có lẽ vậy.”
“Anh chắc chứ?” Giọng vợ anh nghe căng thẳng kỳ lạ.
“Không, giờ thì muốn biết chắc cũng là quá muộn rồi,” anh nói, cảm thấy hơi buồn cười. “Ở kia anh chẳng thấy gì ngoài những khúc xương đã nhẵn thịt, và bọn kền kền đang sà xuống ăn nốt những gì còn lại.”
“Anh có nghe thấy tiếng thét ấy không?” chị hỏi.
“Không.”
“Cách đây khoảng một phút ấy?”
“Xin lỗi em, không.”
Đàn sư tử đang đến. Và một lần nữa, George Hadley thấy tràn đầy khâm phục thiên tài kỹ thuật đã tạo ra căn buồng này. Một phép mầu đầy hiệu quả được bán với giá thấp đến không ngờ. Mỗi ngôi nhà đều nên có một căn buồng như thế. À ừ, thỉnh thoảng chúng cũng khiến ta sợ hãi vì độ chính xác lạnh lùng của chúng, chúng khiến ta giật mình, làm ta hơi chột dạ, nhưng phần lớn thời gian chúng đem lại sự thích thú cho tất cả, không chỉ cho con cái ta, mà cả chính ta nữa khi ta muốn làm một chuyến đi ngắn đến một vùng đất xa lạ, muốn được thay đổi không khí trong chốc lát. Chính nó đây!
Và đàn sư tử đang đến, chỉ cách đó có năm mét, trông thực và sống động vô cùng đến mức khiến ta giật mình, tưởng như có thể vươn tay ra sờ vào lớp lông ram ráp kia, khắp mũi miệng ta đầy sặc mùi chăn nệm bụi bặm bốc lên từ bộ lông cháy nắng của chúng, và màu vàng của chúng in vào mắt ta như màu vàng của một tấm thảm thêu Pháp tuyệt mỹ, màu vàng của sư tử và cỏ mùa hè, cùng với âm thanh của những lá phổi sư tử thở hắt ra giữa buổi trưa tĩnh lặng, và mùi thịt sống tỏa ra từ cái miệng thở hổn hển, nhểu dãi của chúng.
Đàn sư tử đứng nhìn George và Lydia Hadley bằng cặp mắt xanh vàng đáng sợ.
“Cẩn thận!” Lydia thét lên.
Đàn sư tử lao vào họ.
Lydia vùng chạy. George chạy sau vợ theo phản xạ. Ra đến ngoài hành lang, khi cánh cửa đã sập lại, anh cười phá lên, còn chị thì khóc nức nở, và cả hai cùng đứng đó, người này kinh hãi vì phản ứng của người kia.
“George!”
“Lydia! Ôi Lydia đáng yêu tội nghiệp của anh!”
“Suýt nữa thì chúng vồ được chúng ta!”
“Chỉ là những bức tường thôi, Lydia, em nhớ không; chúng chỉ là những bức tường tinh thể. Ừ, anh công nhận là nhìn chúng rất thật - châu Phi ở ngay trong nhà mình - nhưng tất cả chỉ là hình ảnh màu lập thể siêu thực và băng từ tâm lý sau các màn hình kính thôi. Toàn là các máy tạo mùi và phát thanh thôi, Lydia ạ. Đây, cầm khăn tay của anh đi này.”
“Em sợ lắm.” Chị đến bên anh, áp người vào anh khóc rấm rứt không ngừng. “Anh có nhìn thấy không? Anh có cảm thấy không? Nó thật quá.”
“Thôi nào, Lydia…”
“Anh phải bảo Wendy và Peter đừng đọc về châu Phi nữa.”
“Tất nhiên rồi, tất nhiên rồi.” Anh vỗ vỗ người chị.
“Anh hứa nhé?”
“Ừ.”
“Và khóa cửa buồng trẻ lại vài ngày cho đến khi em tĩnh tâm lại đã.”
“Em biết Peter khó bảo thế nào về chuyện đó rồi đấy. Khi anh phạt nó hồi tháng trước bằng cách khóa cửa buồng trẻ lại chỉ vài giờ thôi, nó lên cơn hờn mới ghê chứ! Và cả Wendy nữa. Chúng nó chỉ sống vì buồng trẻ thôi.”
“Phải khóa cửa lại, không bàn cãi gì nữa.”
“Thôi được.” Anh miễn cưỡng khóa cánh cửa khổng lồ lại. “Em làm việc quá sức rồi đấy. Em cần nghỉ ngơi.”
“Em không biết, em không biết nữa,” chị vừa nói vừa hỉ mũi, rồi ngồi xuống một cái ghế, nó lập tức đu đưa an ủi chị. “Có lẽ em làm chưa đủ. Có lẽ em có quá nhiều thời gian để suy nghĩ. Sao ta không khóa cả ngôi nhà lại vài ngày và đi nghỉ nhỉ?”
“Ý em là em muốn tráng trứng cho anh à?”
“Vâng.” Chị gật đầu.
“Và mang tất cho anh?”
“Vâng.” Một cái gật đầu cuống quýt, đẫm nước mắt nữa.
“Và quét nhà?”
“Vâng, vâng - ồ, vâng!”
“Nhưng anh tưởng chính vì thế mình mới mua ngôi nhà này, để không phải làm gì cả?”
“Chính thế đấy. Em có cảm giác mình không thuộc về nơi này. Ngôi nhà này vừa là vợ, vừa là mẹ, vừa là vú em. Làm sao em có thể bì với một thảo nguyên châu Phi được chứ? Em có thể tắm rửa kỳ cọ cho các con một cách nhanh chóng và hiệu quả như bồn tắm tự động không? Em không thể. Và không chỉ có em đâu. Cả anh nữa. Dạo này anh bồn chồn lắm.”
“Chắc tại anh hút thuốc nhiều quá.”
“Trông như thể anh cũng không biết phải làm gì với chính mình trong ngôi nhà này nữa. Mỗi sáng anh lại hút thêm thuốc, mỗi chiều anh lại uống thêm rượu, và mỗi đêm anh lại dùng thêm thuốc an thần. Anh cũng bắt đầu cảm thấy mình là người thừa.”
“Thế ư?” Anh ngừng lời, cố dò tìm trong bản thân mình để nhìn ra sự việc trước mắt.
“Ôi George!” Chị nhìn qua vai anh về phía cửa buồng trẻ. “Đàn sư tử không thể ra khỏi đó chứ?”
Anh nhìn cánh cửa và thấy nó khẽ rung lên như thể có gì đó vừa nhảy vào nó từ phía bên kia.
“Tất nhiên là không rồi,” anh đáp.
Hai vợ chồng ăn tối một mình, vì Wendy và Peter đang tham dự một hội chợ chất dẻo đặc biệt ở phía bên kia thành phố và đã gọi điện thoại vô tuyến nói hai đứa sẽ về muộn nên bố mẹ cứ ăn trước. Vậy là George Hadley, vẻ bối rối, ngồi nhìn bàn ăn dọn ra những món ăn đã được hâm nóng từ trong lòng bàn cơ học.
“Chúng ta quên xốt cà chua rồi,” anh nói.
“Xin lỗi,” một giọng nói lí nhí phát ra từ trong cái bàn, và xốt cà chua liền hiện ra.
Về cái buồng trẻ, có khóa cửa không cho bọn trẻ vào ít lâu cũng chẳng hại gì, George Hadley tự nhủ. Cái gì quá mức cũng đều không tốt. Và rõ ràng là bọn trẻ đang dành quá nhiều thời gian ở châu Phi. Vầng mặt trời đó. Anh vẫn còn cảm thấy nó trên cổ, như một bàn chân nóng rực. Và đàn sư tử. Và mùi máu. Thật kỳ diệu là buồng trẻ đã nắm bắt được các tín hiệu ngoại cảm từ tâm trí bọn trẻ và tạo ra sự sống để đáp ứng mọi mong ước của chúng. Bọn trẻ nghĩ đến sư tử, thế là sư tử xuất hiện. Bọn trẻ nghĩ đến ngựa vằn, thế là có ngựa vằn. Mặt trời - có mặt trời. Hươu cao cổ - có hươu cao cổ. Cái chết - có cái chết.
Ý nghĩ cuối ấy. Anh trệu trạo nhai miếng thịt mà cái bàn đã cắt cho anh. Ý nghĩ về cái chết. Wendy và Peter, chúng còn quá nhỏ, sao có thể nghĩ về cái chết. Mà không, thực ra ta chẳng bao giờ là quá nhỏ cả. Từ lâu trước khi ta biết cái chết là cái gì, ta đã ước cho kẻ khác chết đi. Từ khi lên hai ta đã biết dùng súng nhựa bắn người khác rồi.
Nhưng chuyện này - cái thảo nguyên châu Phi mênh mông, nóng rực - cái chết khủng khiếp trong miệng sư tử. Lặp đi lặp lại.
“Anh đi đâu đấy?”
Anh không trả lời Lydia. Lo lắng, anh kệ cho những ngọn đèn nhẹ nhàng sáng lên trước mặt rồi tắt đi sau lưng trong lúc anh đến chỗ cửa buồng trẻ. Anh áp tai vào đó lắng nghe. Đâu đó ở đằng xa, một con sư tử gầm lên.
Anh mở khóa rồi mở cửa ra. Ngay trước khi bước chân vào, anh nghe thấy một tiếng thét từ xa vẳng lại. Rồi một tiếng sư tử gầm nữa, nhưng tắt ngay.
Anh bước vào châu Phi. Đã bao nhiêu lần trong năm vừa qua anh mở cánh cửa này ra và thấy Xứ sở Diệu kỳ, Alice, Rùa Giả, hay Aladdin và cây đèn thần, hay Jack Đầu Bí Ngô xứ Oz, hay bác sĩ Doolittle, hay con bò nhảy qua vầng trăng nhìn rất thật - tất cả những chi tiết thú vị của một thế giới tưởng tượng. Đã bao nhiêu lần anh thấy Pegasus bay qua bầu trời trần nhà, hay thấy những chùm pháo hoa đỏ rực, hay nghe thấy giọng hát thiên thần. Nhưng giờ đây, lại là châu Phi vàng rực nóng bỏng này, một cái lò nướng đầy chết chóc. Có lẽ Lydia nói đúng. Có lẽ họ cần nghỉ ngơi một chút để tránh xa cái xứ sở tưởng tượng đang trở nên quá thật cho hai đứa trẻ lên mười. Luyện tập cho não bằng các bài tập tưởng tượng thì cũng tốt thôi, nhưng khi tâm trí của một đứa trẻ hiếu động cứ bám lấy một hình mẫu duy nhất…? Có vẻ là từ một tháng nay anh đã nghe thấy tiếng sư tử gầm từ xa, và ngửi thấy mùi nồng ngái của chúng lan đến tận cửa phòng làm việc của anh. Nhưng vì quá bận nên anh chẳng để ý đến.
George Hadley đứng một mình trên đồng cỏ châu Phi. Đàn sư tử ngước lên khỏi bữa ăn và nhìn anh. Sai sót duy nhất trong ảo cảnh này là cánh cửa để ngỏ, qua đó anh có thể thấy vợ mình dưới hành lang tối đen, như một bức tranh lồng khung, đang ăn tối một cách lơ đãng.
“Đi đi,” anh nói với đàn sư tử.
Chúng không đi.
Anh biết rõ quy luật của căn phòng. Ta truyền đi những ý nghĩ của mình. Điều ta nghĩ sẽ xuất hiện. “Hãy biến ra Aladdin và cây đèn thần nào,” anh quát. Thảo nguyên vẫn ở nguyên tại chỗ; đàn sư tử vẫn ở nguyên tại chỗ.
“Nào, buồng trẻ! Ta yêu cầu có Aladdin!” anh nói.
Không có gì xảy ra. Đàn sư tử gầm gừ trong bộ lông nóng rực.
“Aladdin!”
Anh quay lại ăn tối. “Căn buồng ngớ ngẩn ấy hỏng rồi,” anh nói. “Nó không nghe lệnh.”
“Hoặc là…”
“Hoặc là sao?”
“Hoặc là nó không thể,” Lydia nói, “vì bọn trẻ đã nghĩ về châu Phi và sư tử và giết chóc nhiều ngày quá đến nỗi căn buồng bị kẹt.”
“Cũng có thể.”
“Hoặc Peter đã chỉnh cho nó giữ nguyên như vậy.”
“Chỉnh nó ư?”
“Thằng bé có thể đã mò ra chỗ máy móc và sửa lại một cái gì đó.”
“Peter đâu có rành máy móc.”
“Nó thông minh lắm so với tuổi lên mười. Chỉ số IQ của nó…”
“Dù là thế…”
“Con chào mẹ. Con chào bố.”
Vợ chồng nhà Hadley quay lại. Wendy và Peter đang đi vào qua cửa chính, má ửng hồng như kẹo bạc hà, mắt như những viên bi mã não xanh, trên áo len còn vương vấn mùi ozone sau chuyến đi trên máy bay trực thăng.
“Các con về vừa kịp để ăn tối đấy,” hai vị phụ huynh nói.
“Bọn con đã ăn kem dâu và xúc xích đến no căng rồi,” bọn trẻ nắm tay nhau nói. “Nhưng bọn con sẽ ngồi xem.”
“Ừ, đến đây kể cho bố mẹ nghe về buồng trẻ đi,” George Hadley nói.
Hai anh em chớp mắt nhìn bố rồi nhìn nhau. “Buồng trẻ ấy ạ?”
“Về châu Phi và các thứ ấy,” bố chúng nói một cách vui vẻ giả tạo.
“Con không hiểu,” Peter nói.
“Bố mẹ vừa mới du hành qua châu Phi với cần câu đấy; Tom Swift và con Sư Tử Điện,” George Hadley nói.
“Trong buồng trẻ làm gì có châu Phi ạ,” Peter nói gọn lỏn.
“Ồ, thôi nào, Peter. Bố mẹ biết mà.”
“Anh không nhớ có châu Phi nào cả,” Peter hỏi Wendy. “Em có nhớ không?”
“Không.”
“Em ra xem rồi quay lại bảo anh đi.”
Con bé làm theo.
“Wendy, quay lại đây!” George Hadley gọi, nhưng con bé đã chạy biến đi. Đèn trong nhà bám theo nó như một bầy đom đóm. Khi đã quá muộn, anh mới nhớ ra mình đã quên khóa cửa buồng trẻ sau lần kiểm tra cuối.
“Wendy sẽ xem rồi nói cho cả nhà biết,” Peter nói.
“Em không cần kể gì cả. Chính mắt bố đã thấy.”
“Con chắc là bố đã nhầm rồi, bố ạ.”
“Không hề, Peter. Đi nào.”
Nhưng Wendy đã quay lại. “Không phải là châu Phi,” con bé hổn hển nói.
“Rồi chúng ta sẽ xem,” George Hadley nói, và cả nhà cùng nhau đi xuôi hành lang rồi mở cửa buồng trẻ ra.
Ở đó là một khu rừng xanh thẳm tuyệt đẹp, một dòng sông tuyệt đẹp, một ngọn núi tím mờ, những giọng hát cao vút, và Rima, xinh đẹp và bí ẩn, trốn giữa những tán cây cùng đàn bướm rực rỡ đang đập cánh, như những bó hoa biết cử động, quấn quýt quanh mái tóc dài của nàng. Thảo nguyên châu Phi đã biến mất. Đàn sư tử đã biến mất. Chỉ còn lại Rima, đang hát một bài hát du dương đến mức ta phải rơi lệ.
George Hadley nhìn cảnh tượng đã thay đổi. “Đi ngủ đi,” anh nói với các con.
Chúng mở miệng.
“Nghe bố nói rồi đấy,” anh nói.
Hai đứa đi vào tủ khí, nơi một luồng khí hút chúng theo ống hơi lên buồng ngủ, như hút hai chiếc lá khô.
George Hadley bước qua trảng rừng ngân vang tiếng ca, nhặt lên một vật nằm ở góc gần chỗ bọn sư tử đã nằm. Anh chầm chậm quay lại chỗ vợ.
“Cái gì thế?” chị hỏi.
“Một cái ví cũ của anh,” anh nói.
Anh chìa ra cho chị xem. Trên đó còn mùi cỏ nóng và mùi sư tử. Mặt ví lấm chấm vết nước dãi, nó đã bị nhai, và hai bên còn có cả vệt máu.
Anh đóng cửa buồng trẻ lại và khóa chặt.
Giữa đêm rồi mà anh vẫn còn tỉnh và anh biết vợ mình cũng chưa ngủ. “Anh có nghĩ là Wendy đã thay đổi căn buồng không?” cuối cùng chị lên tiếng hỏi trong bóng tối.
“Tất nhiên rồi.”
“Biến nó từ thảo nguyên thành khu rừng và đưa Rima vào đó thay cho bọn sư tử?”
“Ừ.”
“Tại sao?”
“Anh không biết. Nhưng nó sẽ bị khóa cho đến khi anh tìm hiểu ra.”
“Thế tại sao cái ví của anh lại ở đó?”
“Anh không biết gì cả,” anh đáp, “chỉ biết là anh bắt đầu hối hận vì đã mua căn buồng đó cho các con. Nếu trẻ con mà bị loạn thần kinh thì một căn buồng như vậy…”
“Đúng ra nó phải giúp chúng giải quyết các rối loạn thần kinh một cách lành mạnh.”
“Anh đang băn khoăn về chuyện đó đấy.” Anh nhìn lên trần.
“Chúng ta đã cho các con tất cả những gì chúng muốn. Đây là phần thưởng mà chúng ta nhận được sao - giấu giấu giếm giếm, không nghe lời?”
“Ai đã từng nói câu này nhỉ, ‘Trẻ con như thảm chùi chân, thỉnh thoảng phải bị giẫm lên’? Chúng ta chưa bao giờ giơ một ngón tay đánh chúng. Hai đứa khó bảo lắm, phải thừa nhận như vậy. Chúng nó muốn đi về lúc nào tùy ý; chúng đối xử như thể chúng ta mới là con vậy. Chúng nó được chiều quá nên đâm hư, và chúng ta cũng đâm hư theo.”
“Chúng nó đã bắt đầu cư xử kỳ lạ kể từ sau khi anh cấm chúng đi phi thuyền đến New York, vài tháng trước.”
“Chúng chưa đủ lớn để đi một mình, anh đã giải thích rồi.”
“Nhưng dù sao em cũng nhận thấy từ đó trở đi chúng nó lạnh lùng hẳn với mình.”
“Anh nghĩ sáng mai anh sẽ mời David McClean đến để xem châu Phi.”
“Nhưng giờ nó đâu phải là châu Phi, nó đang là vùng Lâu Đài Xanh và Rima.”
“Anh có cảm giác nó sẽ trở lại là châu Phi thôi.”
Một lát sau, họ nghe thấy tiếng hét.
Hai tiếng hét. Hai người đang hét dưới nhà. Rồi tiếng sư tử gầm.
“Wendy và Peter không có ở trong phòng,” vợ anh nói.
Anh nằm trên giường, tim đập mạnh. “Không,” anh nói. “Chúng nó đã phá khóa vào buồng trẻ rồi.”
“Tiếng thét ban nãy - nghe quen lắm.”
“Thế à?”
“Vâng, quen lắm.”
Và mặc dù hai cái giường của họ đã cố rất sức, hai người lớn không thể được ru ngủ trở lại thêm một giờ nào nữa. Bầu không khí ban đêm tràn ngập mùi mèo.
“Bố ơi!” Peter gọi.
“Sao?”
Peter nhìn xuống giày. Giờ nó không nhìn bố hay nhìn mẹ nữa. “Bố sẽ không khóa cửa buồng trẻ lại vĩnh viễn đấy chứ ạ?”
“Cái đó còn tùy.”
“Tùy vào cái gì?” Peter vặc lại.
“Vào con và em gái con. Nếu giữa cảnh châu Phi các con chèn thêm vài nơi vào cho đa dạng hơn - ví dụ như là Thụy Điển chẳng hạn, hoặc Đan Mạch, hay Trung Quốc…”
“Con tưởng chúng con được chơi thế nào tùy thích ạ.”
“Đúng thế, nhưng cũng phải có giới hạn nhất định.”
“Thế châu Phi thì sao hả bố?”
“À, vậy là con thừa nhận con đã làm buồng trẻ hiện lên thành châu Phi chứ gì?”
“Con không muốn buồng trẻ bị khóa,” Peter lạnh lùng nói. “Không bao giờ.”
“Thực ra, bố mẹ đang định tắt cả ngôi nhà đi trong khoảng một tháng. Sống theo kiểu vô tư lự, một-người-vì-mọi-người.”
“Nghe sợ quá! Con sẽ phải tự thắt dây giày thay vì để cho máy thắt dây giày làm ư? Và tự đánh răng, tự chải tóc, tự tắm?”
“Thay đổi một chút cũng vui chứ, con không nghĩ thế sao?”
“Không, sẽ kinh khủng lắm. Con đã không thích khi bố bỏ cái máy vẽ tranh đi hồi tháng trước rồi.”
“Đó là vì bố muốn con học cách tự vẽ, con trai ạ.”
“Con không muốn làm gì khác ngoài nhìn, nghe và ngửi: còn gì khác để làm nữa?”
“Thôi được, vào châu Phi mà chơi đi.”
“Bố mẹ có định tắt cả ngôi nhà đi sớm không ạ?”
“Bố mẹ còn đang cân nhắc.”
“Con nghĩ bố mẹ không nên cân nhắc nữa đâu, bố ạ.”
“Bố sẽ không để bị chính con trai mình đe dọa đâu!”
“Tốt thôi.” Và Peter đi vào buồng trẻ.
“Tôi đến đúng giờ chứ?” David McClean hỏi.
“Mời ông ăn sáng,” George Hadley nói.
“Cảm ơn anh, tôi ăn rồi. Có vấn đề gì thế?”
“David, ông là nhà tâm lý học.”
“Đúng thế.”
“Vậy thì nhờ ông xem giùm buồng trẻ nhà tôi. Cách đây một năm ông đã xem rồi, khi ông ghé chơi; lần đó ông thấy có gì lạ không?”
“Tôi không chắc; vẫn là những cảnh bạo lực thông thường, thêm một chút xu hướng hoang tưởng, thường thấy ở trẻ con vì chúng cảm thấy mình luôn bị bố mẹ quấy rầy, nhưng thực ra là chẳng có gì lạ cả.”
Họ đi xuôi hành lang. “Tôi đã khóa cửa buồng trẻ lại,” người bố nói, “và đêm qua bọn trẻ đã phá khóa. Tôi để chúng ở lại để chúng có thể cho ông thấy hình ảnh trong đó.”
Một tiếng thét rợn người phát ra từ buồng trẻ.
“Nó đấy,” George Hadley nói. “Ông hãy xem xem sao. “
Họ bước vào mà không gõ cửa.
Tiếng hét đã ngớt. Đàn sư tử đang ăn.
“Các con ra ngoài một lúc đi,” George nói. “Không, đừng thay đổi tổ hợp tâm lý. Cứ để nguyên các bức tường đó. Ra mau!”
Khi hai đứa trẻ đã đi rồi, hai người đàn ông đứng ngắm đàn sư tử tụ tập lại ở đằng xa, ngấu nghiến ăn con mồi chúng vừa bắt được.
“Giá mà tôi biết con mồi đó là cái gì,” George Hadley nói. “Đôi khi tôi đã gần thấy được. Ông nghĩ nếu tôi đem ống nhòm tiêu cự lớn vào đây và…”
David McClean cất tiếng cười khô khan. “Không được đâu.” Ông quay người quan sát cả bốn bức tường. “Chuyện này diễn ra bao lâu rồi?”
“Hơn một tháng.”
“Hẳn là cảm giác ấy không hay ho chút nào.”
“Tôi muốn sự việc cụ thể chứ không phải cảm giác.”
“George thân mến, một nhà tâm lý học không bao giờ được nhìn sự việc cụ thể cả. Ông ta chỉ được nghe về cảm giác mà thôi; những thứ mơ hồ. Tôi chỉ xin thưa với anh là chuyện này có cảm giác không hay. Hãy tin vào trực giác và bản năng của tôi. Tôi thính mũi với những chuyện không hay lắm. Và chuyện này rất không hay. Tôi khuyên anh hãy tháo bỏ cả căn buồng chết tiệt này và cho các con anh đến gặp tôi hằng ngày để chữa trị trong vòng một năm tới.”
“Tệ đến thế cơ à?”
“Tôi e là vậy. Một trong những mục đích ban đầu của các buồng trẻ kiểu này là để chúng ta có thể nghiên cứu các hình ảnh trên tường do tâm trí một đứa trẻ để lại, nghiên cứu kỹ lưỡng, và giúp đứa trẻ. Nhưng trong trường hợp này thì căn buồng đã trở thành một kênh dẫn cho những ý nghĩ tiêu cực, thay vì giúp đứa trẻ thoát khỏi chúng.”
“Trước kia ông không cảm thấy như thế ư?”
“Tôi chỉ cảm thấy là anh chị đã chiều con nhiều hơn các bậc cha mẹ khác. Và giờ anh chị đang khiến chúng thất vọng theo một cách nào đó. Cách nào?”
“Tôi không cho chúng đi New York.”
“Còn gì nữa?”
“Tôi đã lấy đi một vài thứ máy móc trong nhà và cách đây một tháng, đã dọa chúng là tôi sẽ đóng cửa buồng trẻ nếu chúng không chịu làm bài tập về nhà. Tôi đã đóng cửa buồng vài ngày để chúng thấy tôi nói là làm.”
“A ha!”
“Điều đó có ý nghĩa gì ư?”
“Có nhiều ý nghĩa lắm. Trước kia chúng có ông già Noel, còn giờ chúng có lão Scrooge. Trẻ con ưa ông già Noel hơn. Anh chị đã để căn buồng này và ngôi nhà thế chỗ mình trong tình cảm của các con. Căn buồng này là cha mẹ chúng, quan trọng với chúng hơn nhiều so với cha mẹ thật của chúng. Và giờ anh lại đòi khóa cửa buồng. Thảo nào trong đó chẳng đầy sự căm ghét. Anh có thể cảm thấy nó từ trên bầu trời. Hãy cảm nhận ánh mặt trời đó mà xem. George, anh phải thay đổi cuộc sống của mình. Như rất nhiều người khác, anh đã dựa dẫm quá nhiều vào các tiện nghi. Anh có thể chết đói ngay ngày mai nếu có gì trục trặc với căn bếp. Anh còn không biết cách đập trứng. Nhưng dù thế, anh cũng nên tắt hết tất cả đi. Hãy bắt đầu lại từ đầu. Sẽ mất thời gian. Nhưng trong vòng một năm chúng ta sẽ biến trẻ con hư thành ngoan, anh cứ đợi xem.”
“Nhưng chẳng phải như thế sẽ gây sốc cho bọn trẻ ư, khi đột ngột đóng cửa căn buồng vĩnh viễn như vậy?”
“Tôi chỉ không muốn chúng chìm sâu thêm vào chuyện này nữa.”
Đàn sư tử đã kết thúc bữa tiệc đẫm máu của chúng.
Chúng đứng bên rìa trảng cỏ, quan sát hai người đàn ông.
“Giờ thì chính tôi thấy bất an rồi,” McClean nói. “Ra khỏi đây thôi. Tôi chưa bao giờ thích mấy căn buồng chết tiệt này. Chúng làm tôi thấy bồn chồn.”
“Đàn sư tử nhìn rất thật phải không?” George Hadley nói. “Tôi đoán là không thể có chuyện…”
“Chuyện gì?”
“… rằng chúng có thể biến thành thật?”
“Theo tôi biết thì không.”
“Một sai sót gì đó trong máy móc, hoặc là do bị can thiệp chẳng hạn?”
“Không đâu.”
Họ đi ra cửa.
“Tôi nghĩ căn buồng sẽ không thích khi bị tắt đi đâu,” người bố nói.
“Không thứ gì thích chết đi cả - kể cả một căn buồng.”
“Tôi tự hỏi liệu nó có ghét tôi không vì tôi muốn tắt nó đi?”
“Hôm nay ở đây ai cũng hoang tưởng cả,” David McClean nói. “Có thể bám theo sự hoang tưởng như lần theo mùi con mồi ấy. Cái gì đây?” Ông cúi xuống nhặt lên một cái khăn quàng đẫm máu. “Của anh à?”
“Không.” Mặt George Hadley cứng đờ. “Đó là của Lydia.”
Họ cùng đi ra chỗ hộp cầu chì và dập cái cầu dao để ngắt mạch buồng trẻ.
Hai đứa trẻ như hóa điên. Chúng gào thét, nhảy dựng lên và ném các thứ. Chúng quát tháo, khóc lóc, chửi rủa, nhảy lên đồ đạc.
“Bố mẹ không được làm thế với buồng trẻ, bố mẹ không được làm thế!”
“Thôi nào, các con.”
Bọn trẻ gieo mình xuống trường kỷ, khóc nức nở.
“George,” Lydia Hadley nói, “anh bật buồng trẻ lên đi, chỉ một lát thôi. Anh không thể đột ngột như vậy được.”
“Không.”
“Anh đừng ác như vậy…”
“Lydia, nó đã tắt đi rồi, và nó sẽ phải tắt nguyên như vậy. Và cả ngôi nhà chết tiệt này cũng sẽ chết ngay bây giờ. Càng nhìn cái mớ bòng bong chúng ta đã tự đặt mình vào, anh càng ghê tởm. Chúng ta đã quẩn quanh trong một cuộc sống máy móc, điện tử quá lâu rồi. Chúa ơi, chúng ta cần một làn không khí thực biết bao!”
Và anh đi khắp nhà, tắt đi các đồng hồ giọng nói, lò bếp, máy sưởi, máy đánh giày, máy buộc dây giày, máy kỳ cọ và xoa bóp, và tất cả máy móc nào có thể tắt được.
Dường như cả ngôi nhà đầy xác chết. Nó như một nghĩa địa điện tử. Im ắng quá. Không còn tiếng ro ro phát ra từ năng lượng ẩn giấu của những cỗ máy đang chờ đợi để hoạt động chỉ với một cú nhấn nút.
“Đừng để họ làm vậy!” Peter gào lên với trần nhà, như thể nó đang nói với cả ngôi nhà, với buồng trẻ. “Đừng để bố giết hết mọi thứ.” Nó quay sang nhìn bố. “Con ghét bố!”
“Có xỉ vả bố thì cũng chẳng ích gì đâu.”
“Con ước gì bố chết quách đi!”
“Chúng ta đã chết từ lâu rồi. Từ giờ trở đi chúng ta sẽ bắt đầu sống cho ra sống. Thay vì được hầu hạ và xoa bóp, chúng ta sẽ sống.”
Wendy vẫn đang khóc và Peter lại khóc theo. “Chỉ một lúc thôi, chỉ một lúc thôi, chỉ một lúc nữa với buồng trẻ thôi,” chúng vật nài.
“Ôi, George,” vợ anh nói, “cũng có hại gì đâu.”
“Thôi được, thôi được, nếu chúng chịu nín. Nhưng chỉ một phút thôi, rồi tắt vĩnh viễn.”
“Bố ơi, bố ơi, bố!” bọn trẻ hò reo, mỉm cười, mặt hãy còn ướt nước mắt.
“Rồi chúng ta sẽ đi nghỉ. Nửa giờ nữa David McClean sẽ quay lại giúp chúng ta dọn nhà và ra sân bay. Anh đi thay quần áo đây. Em bật buồng trẻ lên đi, Lydia, nhưng nhớ là chỉ một phút thôi nhé.”
Và ba mẹ con hồ hởi đi ra trong khi anh để mình được hút lên tầng trên qua ống hơi và bắt đầu mặc quần áo. Một phút sau Lydia xuất hiện.
“Em sẽ rất mừng khi mình đi khỏi đây,” chị thở ra.
“Em để các con lại trong buồng trẻ à?”
“Em cũng muốn thay quần áo. Ôi, cái cảnh châu Phi đáng sợ đó. Chúng thấy gì ở đó nhỉ?”
“Ờ, năm phút nữa thôi là chúng ta sẽ lên đường đến Iowa. Chúa ơi, sao chúng ta lại đâm đầu vào cái nhà này nhỉ? Cái gì đã khiến chúng ta mua một cơn ác mộng?”
“Tự kiêu, tiền bạc, ngu ngốc.”
“Anh nghĩ mình nên xuống nhà trước khi các con lại quá mải mê với lũ thú hoang ấy.”
Đúng lúc đó anh nghe tiếng bọn trẻ gọi, “Bố ơi, mẹ ơi, xuống đây nhanh lên, nhanh lên!”
Họ theo ống hơi xuống nhà và chạy xuôi hành lang. Không thấy bọn trẻ đâu. “Wendy ơi! Peter ơi!”
Họ chạy vào buồng trẻ. Thảo nguyên trống trơn, chỉ có đàn sư tử đang đứng chờ đợi, quan sát họ. “Peter ơi, Wendy ơi!”
Cánh cửa đóng sập lại.
“Wendy ơi, Peter ơi!”
George Hadley và vợ quay ngoắt lại chạy về chỗ cánh cửa.
“Mở cửa ra!” George Hadley gọi to, cố xoay nắm đấm. “Kìa, chúng đã khóa cửa từ bên ngoài rồi! Peter!” Anh đấm lên cửa. “Mở ra!”
Anh nghe thấy tiếng Peter bên ngoài, ngay sát cửa.
“Đừng để họ tắt buồng trẻ và ngôi nhà đi,” nó đang nói.
Vợ chồng George Hadley đấm cửa. “Đừng có ngớ ngẩn thế, các con. Đến lúc phải đi rồi. Chỉ một phút nữa là bác McClean sẽ đến và…”
Và rồi họ nghe thấy những âm thanh đó.
Đàn sư tử đang vây quanh họ khắp ba phía, giữa thảo nguyên cỏ vàng, bước qua lớp rơm khô, họng phát ra tiếng gầm gừ.
Đàn sư tử.
Anh Hadley nhìn vợ, rồi họ cùng quay đầu nhìn đàn thú hoang đang từ từ tiến lại, người khom xuống, đuôi duỗi thẳng.
Vợ chồng Hadley thét lên.
Và đột nhiên họ hiểu ra tại sao những tiếng thét lần trước nghe lại quen đến vậy.
“Tôi đến rồi đây,” David McClean đứng ở ngưỡng cửa buồng trẻ nói. “Ồ, chào các cháu.” Ông nhìn hai đứa trẻ ngồi giữa trảng cỏ trống, ăn bữa trưa picnic. Đằng sau chúng là ao nước và thảo nguyên vàng rực; trên đầu là vầng mặt trời nóng cháy. Ông bắt đầu đổ mồ hôi. “Bố mẹ các cháu đâu rồi?”
Bọn trẻ nhìn lên và mỉm cười. “À, chắc họ cũng sắp về rồi ạ.”
“Tốt, chúng ta phải lên đường thôi.” Ông McClean thấy ở đằng xa, đàn sư tử đang giành giật, cào cấu, rồi cuối cùng im lặng ngồi xuống ăn dưới bóng cây.
Ông che tay lên mắt và nheo mắt nhìn đàn sư tử.
Giờ đàn sư tử đã ăn xong. Chúng đi ra ao để uống nước.
Một cái bóng lướt qua khuôn mặt nóng rực của ông McClean. Nhiều cái bóng nữa lướt qua. Bầy kền kền đang lướt xuống từ bầu trời bỏng rát.
“Bác uống trà không ạ?” Wendy lên tiếng hỏi giữa tĩnh lặng.
Người Minh Họa cựa mình trong giấc ngủ. Ông ta xoay người lại, và mỗi lần ông ta xoay người, một bức hình khác lại hiện ra, tô màu cho lưng, tay, cổ tay ông ta. Ông ta xòe tay ra trên nền cỏ đêm khô giòn. Những ngón tay duỗi ra và trên lòng bàn tay ông ta, một hình Minh họa nữa sống dậy. Ông ta vặn người, và trên ngực ông ta là một khoảng trống đầy sao và bóng đêm, sâu, sâu thẳm, và có gì đó đang chuyển động giữa những vì sao, thứ gì đó đang rơi xuống qua màn đêm, rơi xuống trong lúc tôi quan sát…
Chương 2 KÍNH VẠN HOACơn chấn động đầu tiên xé toạc thành phi thuyền như một cái mở hộp khổng lồ. Các phi hành gia bị ném vào không gian như một đàn cá bạc quằn quại. Họ bay tứ tán trên một mặt biển tăm tối; và phi thuyền, vỡ thành hàng triệu mảnh, tiếp tục bay đi, một khối thiên thạch tìm kiếm vầng mặt trời đã mất.
“Barkley, Barkley, cậu ở đâu?”
Những tiếng gọi vang lên như trẻ con bị lạc trong đêm lạnh.
“Woode, Woode!”
“Cơ trưởng!”
“Hollis, Hollis, Stone đây.”
“Stone, Hollis đây. Cậu ở đâu?”
“Tôi không biết. Sao tôi biết được? Đâu là ở trên? Tôi đang rơi. Chúa ơi, tôi đang rơi.”
Họ rơi. Họ rơi như sỏi rơi xuống giếng. Họ đang bắn tung đi khắp nơi như những viên bi bắn đi sau một cú ném mạnh. Và giờ, thay vì các phi hành gia thì chỉ còn những giọng nói - đủ loại giọng nói, không hình hài và vô cảm xúc, với đủ các cung bậc nghĩ suy và cam chịu khác nhau.
“Chúng ta đang bay đi xa khỏi nhau.”
Đúng thế. Hollis, đang xoay tròn lông lốc, biết là đúng như thế. Anh biết như vậy với một cảm giác thuận mệnh mơ hồ. Họ đang ai đi đường nấy, và không gì có thể kéo họ trở lại với nhau nữa. Họ đang mặc những bộ đồ vũ trụ kín mít với ống thủy tinh che kín khuôn mặt xanh tái, nhưng họ đã không kịp cài bộ trọng lực vào. Với bộ trọng lực, họ có thể là những con thuyền cứu sinh nhỏ trong không gian, tự cứu chính mình và người khác, cùng nhau tìm kiếm và gom nhau lại cho đến khi thành một nhóm nhỏ với một kế hoạch gì đó. Nhưng khi không có bộ trọng lực cài trên vai, họ chỉ là những thiên thạch vô nghĩa, mỗi người lao tới số phận riêng của mình, không gì tránh khỏi.
Chừng mười phút trôi qua thì nỗi kinh hoàng ban đầu nguôi đi, thay vào đó là một cảm giác bình tĩnh máy móc. Không gian bắt đầu đan cài những giọng nói kỳ lạ như những sợi ngang sợi dọc vào một khung cửi thẳm tối khổng lồ, tạo thành bức họa hình sau cuối.
“Stone gọi Hollis. Chúng ta có thể nói chuyện qua điện thoại trong bao lâu?”
“Còn tùy vào vận tốc của cậu và vận tốc của tôi.”
“Tôi đoán là chừng một tiếng.”
“Chắc vậy,” Hollis nói, giọng nhỏ bặt và lơ đãng.
“Đã xảy ra chuyện gì?” một phút sau Hollis hỏi.
“Phi thuyền bị nổ, thế thôi. Thỉnh thoảng phi thuyền vẫn nổ mà.”
“Cậu đang đi đường nào thế?”
“Có vẻ tôi sẽ đâm vào mặt trăng.”
“Tôi thì sẽ quay về Trái đất. Quay về với Đất Mẹ với vận tốc mười sáu ngàn cây số một giờ. Tôi sẽ cháy bùng lên như một que diêm.” Hollis nghĩ về chuyện đó trong lúc tâm trí vẫn lơ đãng một cách lạ lùng. Dường như anh đã tách rời khỏi cơ thể mình, đang quan sát cơ thể mình rơi xuống qua không gian một cách thờ ơ như anh đã từng quan sát những bông tuyết đầu tiên rơi xuống trong một mùa đông cách đây lâu lắm rồi.
Những người khác đều im lặng, nghĩ về cái định mệnh đã đưa họ đến đây, trong lúc họ vẫn tiếp tục rơi, rơi mãi, và chẳng thể làm gì để thay đổi được điều đó. Ngay cả cơ trưởng cũng im lặng vì không có mệnh lệnh hay kế hoạch nào mà ông biết có thể sửa chữa được mọi việc.
“Ôi, đường dài lắm. Ôi, đường dài lắm, đường dài, dài, dài lắm,” một giọng nói vang lên. “Tôi không muốn chết, tôi không muốn chết, đường dài lắm.”
“Ai đấy?”
“Tôi không biết.”
“Tôi nghĩ là Stimson. Stimson, là cậu à?”
“Đường dài, dài lắm, và tôi không thích thế. Chúa ơi, tôi không thích chút nào.”
“Stimson, Hollis đây. Stimson, cậu nghe thấy tôi không?”
Im lặng một hồi trong khi họ rơi ra xa khỏi nhau.
“Stimson à?”
“Tôi đây.” Cuối cùng anh ta cũng trả lời.
“Stimson, bình tĩnh đi; chúng ta đều chịu trận như nhau mà.”
“Tôi không muốn ở đây. Tôi muốn ở nơi nào khác.”
“Vẫn còn cơ hội người ta sẽ tìm thấy chúng ta mà.”
“Người ta phải tìm thấy tôi, phải như thế,” Stimson nói. “Tôi không thể tin được chuyện này; tôi không tin là chuyện này đang xảy ra.”
“Đây là một cơn ác mộng,” ai đó nói.
“Im đi!” Hollis quát.
“Ra đây mà bắt tôi này,” giọng nói đó đáp. Đó là Applegate. Anh ta cười dễ dãi, cũng với vẻ thờ ơ như vậy. “Ra đây mà bắt tôi im đi.”
Lần đầu tiên Hollis cảm nhận được sự vô vọng trong tình thế của mình. Một cảm giác giận dữ vô cùng tràn ngập trong anh, vì lúc này, hơn bất cứ điều gì, anh muốn được cho Applegate biết tay. Anh đã muốn làm gì đó suốt nhiều năm rồi, nhưng giờ thì đã quá muộn. Applegate chỉ còn là một giọng nói trên điện thoại.
Rơi, rơi, rơi.
Giờ, như thể họ mới phát hiện ra nỗi kinh hoàng, hai phi hành gia bắt đầu gào thét. Trong cơn ác mộng Hollis thấy một trong số họ trôi qua rất gần anh, miệng vẫn hét không ngừng.
“Thôi đi!” Người kia trôi qua sát đầu ngón tay anh, vẫn gào thét như điên. Anh ta sẽ tiếp tục gào như vậy trong hàng triệu cây số nữa, chừng nào anh ta vẫn còn trong phạm vi điện đàm, làm phiền tất cả bọn họ, khiến họ không thể nói chuyện với nhau được.
Hollis vươn tay ra. Như thế này là hơn. Anh cố hết sức và chạm được vào người kia. Anh túm lấy cổ chân anh ta và đẩy mình dọc theo thân người anh ta cho tới khi đến được đầu. Người kia điên cuồng gào thét và cào cấu anh, như một người đi bơi đang đuối nước. Tiếng thét vang khắp vũ trụ.
Cách này hay cách khác thì cũng thế, Hollis thầm nghĩ. Mặt trăng hoặc Trái đất hoặc thiên thạch sẽ giết anh ta thôi, vậy thì sao không phải là ngay bây giờ?
Anh giơ nắm đấm sắt lên đập vỡ tấm kính che mặt của người kia. Tiếng thét ngừng bặt. Anh đẩy cái xác ra để nó tự xoay theo hướng của mình, tiếp tục rơi.
Rơi, rơi qua không gian. Hollis và những người khác cứ thế rơi trên quãng đường dài vô tận trong tĩnh lặng.
“Hollis, anh còn đó không?”
Hollis không đáp, nhưng cảm thấy mặt nóng bừng lên.
“Lại là Applegate đây.”
“Được rồi, Applegate.”
“Ta nói chuyện đi. Cũng chẳng còn gì khác để làm mà.”
Cơ trưởng xen vào. “Đủ rồi đấy. Chúng ta phải nghĩ cách để thoát ra khỏi đây chứ.”
“Cơ trưởng, sao ông không câm miệng đi nhỉ?” Applegate nói.
“Cái gì!”
“Ông nghe tôi nói rồi đấy. Đừng có lấy chức quyền ra mà dọa tôi, ông đang ở cách đây hàng chục ngàn cây số rồi, và chúng ta đừng tự huyễn hoặc mình nữa. Như Stimson đã nói ấy, đường dài lắm.”
“Nghe đây, Applegate!”
“Thôi đi. Đây là vụ nổi loạn một người. Tôi chẳng còn gì để mất cả. Tàu của ông dở tệ, ông là một cơ trưởng dở tệ và tôi mong ông nát nhừ người khi ông lao vào Mặt trăng.”
“Tôi ra lệnh cho cậu thôi ngay!”
“Cứ ra lệnh cho tôi nữa đi.” Applegate mỉm cười từ khoảng cách mười sáu ngàn cây số. Cơ trưởng im lặng. Applegate nói tiếp, “Ta đang nói đến đâu rồi nhỉ, Hollis? À ừ, tôi nhớ ra rồi. Tôi cũng ghét anh lắm. Nhưng anh biết thế mà. Anh đã biết thế từ lâu rồi.”
Hollis bất lực siết chặt nắm đấm.
“Tôi muốn cho anh biết điều này,” Applegate nói. “Cho anh vui. Chính tôi là người năm năm trước đã nói xấu anh với Công ty Phi thuyền.”
Một thiên thạch vụt qua. Hollis nhìn xuống thì thấy bàn tay trái của mình đã biến mất. Máu tóe ra. Đột nhiên trong bộ đồ vũ trụ của anh không còn không khí nữa. Anh chỉ còn đủ không khí trong phổi để đưa tay phải sang thắt một nút ở khuỷu tay trái, siết chặt nó lại để bịt chỗ rò. Sự việc xảy ra nhanh đến nỗi anh không kịp ngạc nhiên. Không gì khiến anh ngạc nhiên nữa. Không khí trong bộ đồ trở lại bình thường khi chỗ rò đã được bịt. Và dòng máu vừa trào ra xối xả giờ đã cầm lại khi anh kéo cái nút chặt hơn nữa, cho đến khi nó biến thành một cái ga rô.
Mọi việc diễn ra trong lúc anh im phăng phắc. Còn những người kia vẫn nói chuyện. Một người, Lespere, cứ lải nhải không ngừng về cô vợ ở sao Hỏa, cô vợ ở sao Kim, cô vợ ở sao Mộc, tiền bạc của anh ta, những quãng thời gian vui thú của anh ta, những lần rượu chè, những chuyện cờ bạc, sự sung sướng của anh ta. Lải nhải mãi, trong khi họ vẫn cứ rơi. Lespere hạnh phúc nhớ về quá khứ trong khi anh ta rơi đến chỗ chết.
Thật là kỳ lạ. Không gian, hàng ngàn cây số không gian, thế mà những giọng nói này vang vọng ở ngay tâm của nó. Chẳng nhìn thấy ai hết, chỉ có sóng radio đang rung động và cố kích thích cảm xúc ở những người khác.
“Cậu có tức giận không, Hollis?”
“Không.” Và đúng thế thật. Cảm giác thờ ơ đã trở lại và anh chỉ còn là một khối bê tông đờ đẫn, vĩnh viễn rơi đến hư vô.
“Cả đời cậu chỉ muốn trèo lên đỉnh, Hollis ạ. Cậu luôn tự hỏi đã xảy ra chuyện gì. Tôi đã cho cậu vào sổ đen trước khi chính tôi cũng bị tống cổ.”
“Không quan trọng nữa,” Hollis nói. Và đúng thế thật. Chuyện đó đã qua. Khi cuộc sống kết thúc, nó như một thước phim sáng lập lòe trong thoáng chốc trên màn ảnh, mọi định kiến và say mê được cô đọng lại và soi sáng trong một tích tắc giữa không gian, và trước khi ta kịp kêu lên, “Kia là một ngày vui, kia là một ngày buồn, kia là một khuôn mặt xấu xa, kia là một khuôn mặt thân thiện,” thì thước phim đã cháy thành than và màn hình tối sụp đi.
Từ ngoài rìa cuộc sống của mình nhìn lại, anh chỉ có một hối hận duy nhất, đó là anh ước gì mình có thể tiếp tục sống. Tất cả những người sắp chết đều cảm thấy thế này sao, như thể họ chưa hề sống? Cuộc sống có vẻ ngắn ngủi như vậy sao, chấm hết và kết thúc trước khi ta kịp hít một hơi thở? Nó có vẻ đột ngột và không tưởng với tất cả mọi người không, hay chỉ với anh thôi, ở đây, tại nơi này, khi anh chỉ còn vài giờ để suy nghĩ và tính toán?
Một phi hành gia, Lespere, đang nói. “Thôi, tôi cũng đã được vui thú: tôi có một cô vợ trên sao Hỏa, một cô trên sao Kim, một cô trên sao Mộc. Cô nào cũng có tiền và đối xử với tôi tử tế. Tôi đã chè chén say sưa và có lần còn thua bạc hết hai mươi ngàn đô.”
Nhưng giờ anh ở đây rồi, Hollis thầm nghĩ. Tôi không có được những thứ như vậy. Khi còn sống tôi đã ghen tị với anh, Lespere; khi tôi còn thêm một ngày trước mặt, tôi đã ghen tị với anh vì các cô vợ và những quãng thời gian vui thú của anh. Phụ nữ khiến tôi sợ, và thế là tôi đã lên vũ trụ mà vẫn thèm muốn họ và ghen với anh vì anh có họ, có tiền, và có nhiều hạnh phúc hết mức có thể theo cách ngang tàng của riêng anh. Nhưng giờ đây, khi rơi giữa không gian này, khi tất cả đã chấm hết, tôi không còn ghen tị với anh nữa, bởi vì mọi chuyện với anh cũng đã kết thúc như với tôi, và giờ đây dường như chúng không hề tồn tại. Hollis rướn mặt tới trước quát vào điện thoại.
“Hết rồi, Lespere!” Im lặng.
“Như thể những chuyện đó chưa bao giờ xảy ra hết, Lespere!”
“Ai đấy?” Giọng chập chờn của Lespere.
“Hollis đây.”
Anh thật xấu tính khi nói thế. Anh cảm thấy sự xấu xa đó, sự xấu xa vô nghĩa của cái chết. Applegate đã khiến anh tổn thương; giờ anh muốn làm người khác tổn thương. Cả Applegate lẫn không gian đã làm anh tổn thương.
“Anh đang ở đây rồi, Lespere. Tất cả đã kết thúc. Như thể nó chưa bao giờ xảy ra, phải không?”
“Không.”
“Khi một điều kết thúc, sẽ giống như nó chưa bao giờ xảy ra. Giờ cuộc sống của anh có gì hơn của tôi? Giờ mới là lúc đáng kể. Giờ có gì hơn không? Có không?”
“Có đấy!”
“Hơn ở chỗ nào!”
“Vì tôi còn ký ức của tôi, tôi còn nhớ!” Lespere quát lên từ đằng xa, vẻ phẫn nộ, ôm chặt các ký ức của mình vào ngực bằng cả hai tay.
Và anh ta nói đúng. Với cảm giác như bị cả xô nước lạnh giội lên đầu lên người, Hollis biết anh ta nói đúng. Có sự khác biệt giữa ký ức và mơ mộng. Anh chỉ biết mơ về những điều anh muốn làm, trong khi Lespere có ký ức về những điều anh ta đã làm và đạt được. Và điều mới nhận ra này bắt đầu xâu xé Hollis, chính xác, chậm rãi, làm anh run rẩy.
“Như thế thì có ích gì cho anh?” anh quát lên với Lespere. “Vào lúc này ấy? Khi một điều kết thúc, nó chẳng có ích gì nữa. Anh cũng chẳng hơn gì tôi.”
“Tôi đang thanh thản,” Lespere nói. “Tôi đã sống đời mình. Tôi không trở nên xấu tính vào lúc cuối đời, như anh.”
“Xấu tính ư?” Hollis nhấm nháp từ đó trên lưỡi. Cả đời mình, theo anh còn nhớ được, anh chưa bao giờ xấu tính. Anh chưa bao giờ dám xấu tính. Hẳn anh đã để dành suốt bao nhiêu năm nay cho lúc như thế này. “Xấu tính.” Anh đẩy từ đó vào sâu trong tâm trí. Anh cảm thấy lệ trào lên mắt và tràn xuống má. Hẳn ai đó đã nghe thấy anh nấc lên.
“Cứ bình tĩnh, Hollis.”
Tất nhiên, chuyện này thật nực cười. Mới phút trước anh còn khuyên nhủ người khác, khuyên nhủ Stimson; anh cảm nhận một lòng can đảm mà anh nghĩ là thứ thiệt, giờ thì anh biết đó chẳng là gì khác ngoài cơn sốc và sự lạnh lùng vô cảm mà người ta chỉ có khi bị sốc. Giờ anh đang cố nhồi nhét cảm xúc bị dồn nén cả một đời vào một vài phút ngắn ngủi.
“Tôi biết anh cảm thấy thế nào, Hollis,” Lespere nói, giờ đã cách xa ba mười hai ngàn cây số, giọng nhỏ dần. “Tôi không để bụng đâu.”
Nhưng chẳng phải chúng ta giống nhau sao? anh tự hỏi. Lespere và ta? Ở đây, vào lúc này? Nếu một điều kết thúc, đó là chấm hết, nó còn có ích gì nữa? Kiểu gì ta cũng chết. Nhưng anh biết anh đang cố biện luận thôi, giống như cố tìm sự khác biệt giữa người sống và xác chết vậy. Một đằng có tia lửa của sự sống, một đằng thì không - một huyền quang, một yếu tố bí ẩn.
Với Lespere và anh cũng vậy. Lespere đã sống cả một đời viên mãn, và bởi thế giờ anh ta là người khác, còn anh, Hollis, thì suốt bao nhiêu năm nay sống cũng như đã chết. Họ đến với cái chết theo hai con đường riêng biệt, và rất có thể, nếu có nhiều loại chết khác nhau, thì cái chết của họ sẽ khác nhau như ngày với đêm. Chất lượng của cái chết, cũng như chất lượng cuộc sống, chắc có vô số dạng thức khác nhau, và nếu người đó đã chết một lần rồi, thì còn gì để mong đợi nữa ở cái chết vĩnh viễn, như anh bây giờ?
Một giây sau anh mới phát hiện ra bàn chân phải của mình đã bị xén gọn. Suýt nữa anh cười phá lên. Không khí lại rò rỉ ra khỏi bộ đồ của anh. Anh cúi nhanh xuống, và thấy máu chảy, tảng thiên thạch đã cắt đứt cả thịt và bộ đồ ở cổ chân anh. Chao, cái chết trong không gian gần như hài hước. Nó cắt xén ta từng mảnh một, như một tên đồ tể đen ngòm và vô hình. Anh khóa chặt cái van ở đầu gối, đầu óc anh quay cuồng vì đau đớn, cố sức để tỉnh táo, và khi cái van đã đóng, máu cũng cầm, không khí được giữ lại, anh liền thẳng người lên và tiếp tục rơi, rơi mãi, vì chẳng còn gì khác để làm.
“Hollis à!”
Hollis uể oải gật đầu, mệt mỏi vì chờ đợi cái chết.
“Lại là Applegate đây,” giọng nói đó vang lên.
“Ừ.”
“Tôi đã nghĩ rồi. Tôi đã nghe anh nói. Chuyện này chẳng hay ho gì. Nó khiến chúng ta trở nên xấu tính. Chết như thế này thì thật tồi tệ. Nó moi móc hết những chuyện xấu xa ra. Anh nghe tôi nói không, Hollis?”
“Có.”
“Tôi nói dối. Một phút trước ấy. Tôi nói dối đấy. Tôi không nói xấu anh. Tôi không biết sao tôi lại nói thế. Chắc tôi muốn làm anh tổn thương. Chúng ta vẫn luôn cãi cọ nhau. Chắc tôi đang già đi nhanh chóng và cũng hối lỗi rất nhanh. Chắc là khi nghe anh nói những lời hằn học đó, tôi đâm ra xấu hổ. Dù lý do là gì đi chăng nữa thì tôi muốn anh biết tôi cũng là thằng ngốc. Những điều tôi nói không có gì là thật đâu. Mặc kệ anh.”
Hollis cảm thấy tim mình bắt đầu hoạt động trở lại. Dường như nó đã ngừng đập suốt năm phút, nhưng giờ chân tay anh lại hồng hào và ấm áp. Cơn sốc đã qua, và những cơn sốc tiếp theo của giận dữ, sợ hãi và cô đơn cũng đang qua. Anh cảm thấy mình như một người vừa tắm mát buổi sáng xong, đã sẵn sàng cho bữa sáng và một ngày mới.
“Cảm ơn, Applegate.”
“Không có gì. Mẹ mày, đồ khốn.”
“Này,” Stone nói.
“Sao cơ?” Hollis đáp lại từ đầu kia của không gian; vì trong tất cả bọn họ, Stone là bạn tốt của anh.
“Tôi vừa trôi vào một đám thiên thạch và tiểu hành tinh.”
“Thiên thạch à?”
“Tôi nghĩ đây là đám mây thiên thạch Myrmidone trôi ngang qua sao Hỏa và về phía Trái đất cứ năm năm một lần. Tôi đang ở ngay giữa chúng đây. Như một cái kính vạn hoa khổng lồ ấy. Đủ màu sắc, hình dạng và kích cỡ. Chúa ơi, đẹp quá, bao nhiêu là thứ kim loại.”
Im lặng.
“Tôi sẽ đi cùng chúng,” Stone nói. “Chúng đang kéo tôi theo. Trời đất quỷ thần ạ.” Anh ta cười phá lên.
Hollis quay lại nhìn, nhưng không thấy gì. Chỉ có những đám mây mù đầy kim cương, ngọc bích và ngọc lục bảo và màn đen như nhung của không gian, với giọng nói của Chúa xen lẫn giữa những đốm lửa pha lê. Thật phi thường và kỳ diệu khi nghĩ rằng Stone đang đi cùng đám mây thiên thạch, đi qua sao Hỏa hàng năm trời rồi cứ năm năm một lần lại quay về Trái đất, ra ra vào vào tầm nhìn của Trái đất trong hàng triệu thế kỷ tới. Stone và đám thiên thạch Myrmidone vĩnh hằng, không bao giờ kết thúc, dịch chuyển và thay hình đổi dạng như những màu sắc trong kính vạn hoa khi ta giương cái ống dài lên ánh nắng mà xoay tròn hồi ta còn nhỏ.
“Tạm biệt, Hollis.” Giọng Stone giờ đã nhỏ bặt đi. “Tạm biệt.”
“Chúc may mắn,” Hollis hét lên qua khoảng cách bốn mươi tám ngàn cây số.
“Đừng có đùa,” Stone nói, rồi biến mất.
Những vì sao vây quanh anh.
Giờ mọi giọng nói đều nhỏ dần, mỗi người bay theo đường của mình, một số bay về phía sao Hỏa, một số khác bay về không gian xa xôi nhất. Còn bản thân Hollis… Anh nhìn xuống. Anh, chứ không phải ai khác, đang quay về Trái đất một mình.
“Tạm biệt.”
“Thư thả nhé.”
“Tạm biệt, Hollis.” Đó là Applegate.
Bao nhiêu lời từ tạ. Những lời vĩnh biệt ngắn ngủi.
Và giờ bộ não khổng lồ rời rạc đang tan rã dần. Các thành phần của bộ não, vốn đã hoạt động rất nhịp nhàng và hiệu quả trong hộp sọ là phi thuyền vũ trụ lao qua không gian, giờ đang chết dần; ý nghĩa cuộc sống của họ bên nhau giờ đã sụp đổ. Và cũng như cơ thể chết đi khi bộ não ng